Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.05 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>TIỂU LUẬN </b>
<i>MÔN:</i><b> CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM </b>
Đề tài:
<b>CHIẾC NÓN LÁ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT </b>
<b>MỤC LỤC </b>
1. Vài nét về chiếc nón lá ...3
1.1. Lịch sử chiếc nón lá ở Việt nam ...3
1.2. Cấu tạo chiếc nón lá ...3
1.3. Phân loại ...5
2. Chiếc nón lá của 3 miền ...5
3. Giá trị của chiếc nón lá trong đời sống người Việt ... 10
3.1 Ứng dụng với môi trường tự nhiên ... 10
3.2 Các công dụng thực tiễn khác ... 11
3.3 Dùng làm trang trí ... 11
3.4 Thể hiện tước vị, giai tầng xã hội ... 11
3.5 Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam ... 12
3.6 Biểu hiện nét đặc trưng sắc Việt... 13
<b>1. Vài nét về chiếc nón lá </b>
Nón lá là một loại nón đội đầu truyền thống của các dân tộc Đông Á và Đông Nam
Á như Nhật Bản, Lào, Trung Quốc, Thái Lan... trong đó có Việt nam
Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao... chiếc nón được coi là
một thứ phục trang phục, vì thế chiếc nón được xem là một trong những biểu tượng
truyền thống của người Việt Nam, gắn bó với người Việt, khơng phân biệt giới tính,
tuổi tác, địa vị...
<i><b>1.1. Lịch sử chiếc nón lá ở Việt nam </b></i>
Có lẽ từ ngàn xưa, do đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với thời tiết nắng lắm
mưa nhiều, người Việt xưa đã biết lấy lá kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu để
che nắng che mưa, qua năm tháng dần dần nó được cải tiến thành những chiếc nón
có hình dạng khác nhau và hình ảnh chiếc nón đã hiện diện trong đời sống thường
ngày của người Việt Nam, trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều câu chuyện kể
và tiểu thuyết.
Hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu – Phó chủ tịch Hội Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế cho
biết: “Lịch sử nón Việt Nam qua nhiều giai đoạn, có những biến thiên, từ nón hình
trịn (nón miền Bắc xưa), nón trịn dẹt (nón quai thao) đến nón hình chóp (nón Huế).
Về mặt tạo hình, hình chóp tạo khối vững vàng trong không gian, nâng hiệu quả
thẩm mỹ lên cao, nón có chiều sâu nên vừa che được nắng nhiều hơn, lại vừa tạo sự
gọn gàng, duyên dáng”.
Về thời điểm ra đời, nhiều tài liệu cho rằng Chiếc nón lá xuất hiện ở Việt nam vào
thế kỉ thứ 13, đời nhà Trần. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc
trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 - 3000 năm về
trước.
Như vậy, có thể thấy chiếc nón đã xuất hiện ở Việt nam từ xa xưa dưới nhiều hình
thức khác nhau.
Theo sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, nón lá ở Việt Nam có nhiều biến đổi
về kiểu dáng và chất liệu. Ban đầu khi chưa có dụng cụ để khâu thắt, nón được tết
đan, sau đó từ khi có sự ra đời của chiếc kim, vào thời kỳ con người chế luyện được
sắt (khoảng thế kỷ thứ 3 trước cơng ngun), chiếc nón khâu như ngày nay ra đời.
Trước kia, chiếc nón được phân thành 3 loại với tên gọi nón mười (hay nón ba tầm),
nón nhỡ và nón đầu. Nhìn chung nón cổ vành rộng, tròn, phẳng như cái mâm. Ở
vành ngồi cùng có đường viền quanh làm cho nón có hình dáng giống như cái
chiêng. Giữa lịng có đính một vịng nhỏ đan bằng giang vừa đủ ơm khít đầu người
đội. Nón ba tầm có vành rộng nhất. Phụ nữ thời xưa thường đội nón này đi chơi hội
hay lên chùa. Nón đấu là loại nhỏ nhất và đường viền thành vòng quanh cũng thấp
nhất.
Trước kia người ta cịn phân loại nón theo đẳng cấp của người chủ sở hữu nón. Các
loại nón dành cho ơng già, có loại cho nhà giàu và hàng nhà quan, nón cho trẻ em,
nón cho lính tráng, nón nhà sư...
Vật dụng làm nón gồm: lá, chỉ và khung nón. Lá thì có vùng lấy từ hai loại cây giống
như cây lá kè, có sứa nhỏ, mọc ở những vùng đồi núi. Một loại có tên là lá tơi (tên
chữ là du quy diệp), mềm và mỏng hơn. Ngồi ra, nón có thể được đan bằng các loại
lá khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá cối, lá hồ chuyên làm nón v.v. Sợi chỉ khâu lá
ngày xưa người dân dùng sợi nón – một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc, ngày nay
Tàu lá nón khi đem về vẫn cịn xanh răn reo, được đem là bằng cách dùng một miếng
sắt được đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm giẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu
nóng q thì bị rịn, vàng cháy, nguội q lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại răn như cũ.
Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc.
Nón thường có hình chóp nhọn hay hơi tù, tuy vẫn có một số loại nón rộng bản và
làm phẳng đỉnh. Lá nón được xếp trên một cái khung gồm các nan tre nhỏ uốn thành
hình vịng cung. Thường thì có 16 vịng xếp thành 16 tầng mỗi tầng có bán kính khác
nhau. 16 vịng tạo cho chiếc nón dáng thanh tú, không quá cũn cỡn, không xùm xụp.
Khung nón thường là do những người thợ có tay nghề chun mơn làm sẵn.
Ở Huế chiếc nón lá được thi vị hoá thêm bằng những bài thơ bên trong lớp lá. Muốn
đọc ta đưa chiếc nón lá lên cao, nhìn xuyên qua ánh nắng mặt trời. Thơ sẽ hiện ra
bên trong nón...
<i><b>1.3. Phân loại </b></i>
Nón lá có nhiều loại như nón ngựa hay nón Gị Găng (sản xuất ở Bình Định, làm
bằng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa), nón quai thao (người miền Bắc
Việt Nam thường dùng khi lễ hội), nón bài thơ (ở Huế, là thứ nón lá trắng và mỏng
có lộng hình hoặc một vài câu thơ), nón dấu (nón có chóp nhọn của lính thú thời
phong kiến); nón rơm (nón làm bằng cọng rơm ép cứng); nón cời (loại nón xé te tua
ở viền); nón gõ (nón làm bằng tre, ghép cho lính thời phong kiến); nón lá sen (cịn
gọi là nón liên diệp); nón thúng (nón là trịn bầu giống cái thúng, thành ngữ "nón
thúng quai thao"); nón khua (nón của người hầu các quan lại thời phong kiến); nón
chảo (nón mo trịn trên đầu như cái chảo úp, nay ở Thái Lan cịn dùng), v.v....
<b>2. Chiếc nón lá của 3 miền </b>
<i><b>Huế </b></i>
Nón lá có ở 3 miền nhưng với Huế thì chiếc nón đã trở thành biểu trưng cho vẻ đẹp,
sự dịu dàng, thanh mảnh, duyên dáng của người phụ nữ Huế.
Nghề nón ở Huế xuất hiện từ bao giờ, ai là tổ của nghề này... những câu hỏi ấy ngay
cả các bậc cao tuổi nhất trong nghề ở Huế hiện nay cũng đều khơng biết. Nhưng có
một điều có thể khẳng định là nghề nón ở Huế có từ rất lâu và đã đi vào ca dao, tục
ngữ của xứ này. Nhiều người dân Huế đã thuộc nằm lòng những câu thơ phổ biến:
“Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”
Hay:
“Mát mặt anh hùng khi nắng hạ
Che đầu thơn nữ lúc mưa sa”
Nghề nón ở Huế có ở khắp nơi với những làng nghề nổi tiếng như: làng Đồng Di –
Tây Hồ - La Ỷ - Nam Phổ (huyện Phú Vang) - Phủ Cam - Đốc Sơ (thành phố Huế).
Mỗi làng chuyên về một loại nón: làm nón 3 lớp thì có La Ỷ, Nam Phổ, Đốc Sơ; làm
nón bài thơ nổi tiếng có Đồng Di - Tây Hồ - Phủ Cam. Trong cấu tạo hình dáng và
độ thanh mảnh thì nón Huế có những điểm khác biệt so với nón ở các vùng miền
khác. Cho nên, dẫu đều là nón lá nhưng với những đặc điểm riêng của mình:
“Áo trắng hỡi thuở tìm em chẳng thấy
Nắng mênh mang mấy nhịp Trường Tiền
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế
nghề. Vào năm học, trẻ em một buổi đi học, một buổi về nhà chằm nón, tuy thu nhập
thấp nhưng cũng góp phần giúp bố mẹ lo khoản sách vở cho năm học mới. Một tuần,
mười ngày, nón Đồng Di được người làng đem bán tại chợ Dạ Lê. Những ngày chợ
quê vẫn còn là dịp trẻ em háo hức với những món quà mẹ mua, người phụ nữ sắm
vật dụng cần thiết cho gia đình.
Nón Huế ngày nay khơng chỉ có nón bài thơ, nón 3 lớp, nón quai găng như ngày xưa
mà theo thị hiếu của người tiêu dùng, nón Huế bây giờ cịn có thêm nón thêu, nón lá
kè. Và cũng do cuộc sống phát triển, phương tiện giao thông bằng xe gắn máy khơng
thích hợp cho việc đội nón nên bây giờ nhiều phụ nữ trẻ Huế đã không cịn cơ hội
“nghiêng nón làm dun”.
<i><b>Quảng Nam </b></i>
Đối với người dân Quảng Nam, nếu nón khơng làm bằng lá thì hai chữ nón và mũ lại
được dùng như nhau, chẳng hạn: nón rơm - mũ rơm, hay nón nỉ - mũ nỉ.
Người dân quê Quảng Nam ngày trước thường dùng hai loại lá tơi và lá nón trên
đây, tùy theo chất lá: lá non mềm và mỏng thì dùng làm nón; cịn lá già, dày và có
gân cứng thì dùng làm tơi, gọi là áo tơi, tức là cái áo đi mưa ngày trước.
<i><b>Nón chuông - Hà Tây </b></i>
Nằm ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, làng Chuông là một làng nghề được nhiều du
khách trong và ngoài nước biết đến, với sản phẩm chính là nón. Ngơi làng nghề này
ln tấp nập khách ra vào không chỉ để đặt hàng, mà còn để tham quan, tận mắt
chứng kiến cơng việc làm nón.
Ngun liệu chính để làm nón đó là lá cọ, những chiếc nón được chọn là búp trắng
của cây cọ mua từ Phú Thọ, hay lá nội mua từ Hà Tĩnh, vịng nón bằng mây tre cũng
phải mua từ những nơi khác...
Chiếc nón quai thao với vẻ đẹp độc đáo, quai nón màu hồng, được gắn thêm 2 chùm
dây tua chỉ sợi tơ, nhuộm màu vàng đỏ, dành riêng cho thiếu nữ làng quê đi Hội
xuân, Hội làng, hát chèo và hát quan họ...
Nhiều người làng Chuông rất giỏi làm nón quai thao, chiếc nón độc đáo đặc trưng
văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ. Người làm nón quai thao phải tỷ mỉ, khéo tay và
có nhiều kinh nghiệm vì phải thực hiện nhiều khâu như: chọn, xếp, khâu lá vào vịng
nón, khâu mũ nón trong vịng nón, thêu chỉ màu trang trí vành nón. Để có một chiếc
nón quai thao đẹp có khi người thợ phải làm đến cả ngày.
Nón quai thao khơng chỉ được nhiều đồn nghệ thuật đặt mua, mà còn là một vật lưu
niệm được du khách nước ngoài rất ưa thích. Nhiều du khách đến từ Đức, Pháp,
Anh... thường mua nón Chng về để làm món q lưu niệm.
Nón làng Chng có 16 lớp vịng giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại.
Tiếp theo người thợ xếp từng lá vào vịng nón, một lớp mo tre và một lớp lá nữa rồi
khâu. Khâu là một cơng đoạn rất khó bởi phải đảm bảo lá khơng bị rách nhưng từng
mũi khâu phải thẳng đều từ vòng trong ra vịng ngồi. Khi chiếc nón được khâu
xong, người thợ hơ bằng hơi diêm làm cho màu nón trở nên trắng muốt và giúp nón
khơng mốc.
Làm nón cũng là một cách làm kinh tế. Người dân làng Chuông từ người già đến em
nhỏ đều biết làm nón. Nghề này đã giúp cho người dân tăng thu nhập, cải thiện cuộc
sống và góp phần xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp và gìn giữ một nghề
truyền thống có giá trị.
Chiếc nón xuất hiện từ khi nào khơng ai biết. Từ thời xưa đã có câu: "Nón chng,
khua lụa, quai thao làng Đơ". Chiếc nón quai thao đã được các bà, các cô (tầng lớp
trung lưu trở lên) ưa chuộng, chiếm vị trí quan trọng trong trang phục lễ hội của phụ
nữ mà thời Nguyễn được sử dụng phổ biến nhất. ở Hà Nội xưa, các "cô ả" mười lăm,
mười sáu - cái tuổi bắt đầu làm duyên, thường đi sắm chiếc nón Nghệ. Về cái nón
Nghệ, nhà văn hóa Hồng Đạo Thúy mơ tả: "nón rộng đến 80 cm, sâu 10 cm, lần lót
đan bằng sợi tre rất nhỏ, đằng sau cài những mảnh gương vào. Nón Nghệ nặng lắm
vì thế, cái "khua" phải cứng, sơn quang dầu. Lên Hàng Bạc sắm một bộ "chiên, thẻ".
Chiên là miếng bạc vng, trong đó có vịng trịn, chạm hai rồng chầu mặt nguyệt.
Hai chiếc thẻ cũng bằng bạc, to như quân bài tam cúc, chạm hoa lá, ở giữa có cái
vịng để buộc quai thao. Cắm hai cái thẻ vào bên trong nón, đặt cái chiên vào đáy
khua, rồi chờ phiên chợ hàng tơ, các bà làng Triều Khúc ra bán quai thao. Một bộ
quai thao gồm tám sợi bằng tơ, mỗi sợi gồm nhiều sợi tơ, ngoài bọc tơ dệt liên tục,
như bấc đèn con. Quai thao dài độ 1,5m. Hai đầu mỗi sợi thao là một quả găng, từ đó
rủ xuống những chỉ tơ, dài độ 20 cm. Phải đưa thao mộc đi nhuộm thâm, nhuộm kỹ".
Chỉ như thế cũng đủ biết chiếc nón được làm cơng phu đến mức nào.
vua phong làm "Cục trưởng cục Thao" và tổ chức dạy nghề này cho dân làng Triều
Khúc - Đơ Thao. Bây giờ người làng vẫn còn truyền tụng câu ca như một niềm tự
hào:
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao dệt khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho...
<b>3. Giá trị của chiếc nón lá trong đời sống người Việt </b>
Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống của người Việt Nam. Nó là người bạn
thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Chiếc nón Việt Nam
khơng chỉ được làm ra để che mưa, che nắng, nó cịn được dùng thay quạt trong
những trưa hè nóng bức, làm cơi đựng trầu khi gặp bạn, làm quà tặng, vật kỷ niệm
cho nhau. Nhưng công dụng của nó khơng dừng lại ở đấy, nó đã trở thành một phần
cuộc sống của người Việt Nam. Trên đường xa nắng gắt hay những phút nghỉ ngơi
khi làm đồng, ngồi bên rặng tre người ta có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hơi. Bên
giếng nước trong, giữa cơn khát cháy cổ, nón có thể trở thành chiếc cốc vại khổng lồ
bất đắc dĩ, hay có thể thay chiếc chậu vục nước mà áp mặt vào đó cho giải bớt nhiệt.
<i><b>3.1 Ứng dụng với môi trường tự nhiên </b></i>
<i><b>3.2 Các công dụng thực tiễn khác </b></i>
Ngồi chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, trong khi dùng người Việt cịn
"sáng tạo" ra bao nhiêu là cơng dụng khác. Chiếc nón được sử dụng để quạt mát mồ
hơi mỗi khi nóng, dùng làm những chiếc “cốc” bất đắc dĩ để thõa mãn cơn khát.
Mỗi khi có gió, thì chiếc nón có thể được che diêm mà hút thuốc lào, mỏi thì lót
xuống ngồi,... mà túng nữa thì làm cái rổ đựng đồ mua chợ cho mẹ...
Bên một cánh đồng, em bé chăn trâu nằm dưới gốc cây, cả bác thợ cày cũng vậy,
dùng nón che mặt, để vừa tránh nắng, vừa ngăn ruồi muỗi khỏi quấy rầy giấc ngủ
trưa hiền hịa...
<i><b>3.3 Dùng làm trang trí </b></i>
Hình ảnh chiếc nón cũng được sử dụng nhiều trong cuộc sống. Nón lá xuất hiện như
là vật trang trí duyên dáng trong các khách sạn, nhà hàng, trong các dịp lễ hội.
Không chỉ ở các cửa hàng phục vụ chủ yếu cho người Việt, những cửa hàng thường
có khách hàng nước ngồi, chiếc nón cũng được trang trí ở những vị trí trang trọng
nhất, nó khơng chỉ có vai trị trang trí, tơ điểm thêm vẻ đẹp của cửa hàng mà còn
<i><b>3.4 Thể hiện tước vị, giai tầng xã hội </b></i>
và bông bèo bạc, các cụ lớn thì dùng nón lơng trắng, bơng bèo vàng. Các tao nhân nữ
sĩ thì lùng cho kỳ được nón dứa Huế, Gị Găng, những chiếc lá nhẹ và thanh.
<i><b>3.5 Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam </b></i>
Chiếc nón lá ngày trước, ngoài để che nắng che mưa, còn là vật trang sức rất có
duyên, mang nét trữ tình thầm kín của người con gái Việt Nam, người phụ nữ Việt
nam đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đơi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền,
những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tơn thêm nét
dun dáng, kín đáo mà khơng kém phần quyến rũ...
Và có lẽ khơng ở nơi đâu có nhiều nữ sinh duyên dáng với mái tóc đen dài óng ả phủ
kín bờ vai, với tà áo dài trắng tha thướt và chiếc nón bài thơ e ấp như ở Huế. Mỗi
buổi tan trường, các cô nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa, với cả rừng nón nhấp nhơ,
làm đẹp các ngả đường và tạo nét đẹp lãng mạn trên vai cầu Trường Tiền bắc qua
dịng sơng Hương xanh biếc. Những cô gái Huế thường thẹn thùng kéo nón che
nghiêng ấy đã khiến bao tâm hồn phải bâng khuâng:
“Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón?
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu”.
Và ngay cả nhân vật trữ tình trong ca dao cũng đã từng phải say lịng:
“Chén tình là chén say sưa,
Nón tình em đội nắng mưa lên đầu”.
Vì bởi đó là những buổi đất trời bâng khng mà lịng phải tự hỏi lịng:
“Tình u còn nép sau vầng trán.
Lòng nắng vàng hanh hay sắp mưa?”
Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu
dàng, mềm mại và kín đáo của phụ nữ Việt Nam. Với khúc hát quan họ Bắc Ninh,
chàng trai và cô gái hát đối giao duyên, cô gái bao giờ cũng cầm trên tay chiếc nón
ba tầm, nó giúp cơ giấu khn mặt ửng hồng của mình khi chàng trai hát những lời
bóng gió xa xơi về mối tình của chàng, thảng hoặc khi cơ muốn kín đáo ngắm khn
mặt bạn tình của mình mà khơng muốn để cho chàng biết.
Chiếc nón lá cịn thể hiện được nét tính cách trong công việc của người phụ nữ Việt
nam với bàn tay khéo léo của người thợ. Người thợ khâu nón được ví như người thợ
thêu. Vịng tre được đặt lên khuôn sẵn, lá xếp lên khuôn xong là đến công việc của
người khâu. Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc
dùng để khâu thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết
sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làm nón là các múi nối sợi móc
được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn
màng. Sợi móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vịng thì chiếc nón dun dáng đã
thành hình.
<i><b>3.6 Biểu hiện nét đặc trưng sắc Việt </b></i>
Chiếc nón lá Việt Nam, đâu chỉ là vật tiện dụng mà cịn là nét đẹp thầm kín của văn
hóa Việt Nam, sẽ cịn tồn tại mãi dù cuộc sống có đổi thay, hiện đại đến đâu chăng
nữa.
Từ trong thơ ca, âm nhạc, hội hoạ cho đến điện ảnh, chiếc nón đã trở thành một thứ
giữa hai lớp lá xanh, phải đưa nón lên dưới ánh mặt trời mới đọc được. Tâm tình của
người Huế ln kín đáo như vậy đấy. Có tình thơi chưa đủ mà phải có sự kiên trì, thử
thách mới giải đáp được tâm hồn người con gái Huế. Và đó chính là điều bí mật của
nón bài thơ xứ Huế. Dù chỉ là một chiếc nón bài thơ bé nhỏ nhưng người Huế cũng
gửi vào đó một triết lý, một quan niệm sống sâu sắc.
Trong ký ức của những người lớn tuổi, người phụ nữ Huế khi ra đường, trang phục
nhất thiết phải là chiếc áo dài và chiếc nón lá để đội đầu. Dù trời sáng sớm hay im
mát, chiếc nón như là vật bất ly thân. Cuộc sống khép kín cùng những ảnh hưởng
của lối sống cung đình kín đáo, chiếc nón đã giúp người phụ nữ Huế dấu khn mặt
mình cùng những biểu hiện tình cảm một cách lịch sự với người lạ. Và trong sự khéo
léo của chủ nhân, chiếc nón đã trở thành vật làm duyên hết sức kín đáo mà cũng đầy
ý nhị.
Khung cảnh Huế mộng mơ, những con đường im mát, những cô gái Huế trong tà áo
dài tha thướt đội nón bài thơ đã trở thành một trong những hình ảnh đẹp tượng trưng
của Huế. Hình ảnh ấy đã tác động đến đời sống nghệ thuật của mảnh đất này. Với vài
nét phác hoạ hình chiếc dải nón hay dáng hình chóp màu trắng xa mờ, vành nón
nghiêng nghiêng là người xem đều hiểu ấy là hình tượng người con gái, ấy là nón
Huế…
Càng đi sâu vào tìm hiểu càng thấy trong đời sống nghệ thuật, nón Huế đã có một
sức sống mạnh mẽ, tạo những trường liên tưởng phong phú. Sự thăng hoa ấy của nón
Huế được xuất phát từ một yếu tố cơ bản đó là sự gắn bó với cuộc sống. Chiếc nón
có mặt khắp nơi trong đời sống, từ cung cấm cho đến chốn thôn quê, từ trường học,
đường phố đến ruộng đồng; thời hiện đại bây giờ nón lá cịn được xuất ngoại, có mặt
ở bầu trời Âu, Mỹ, có trên các sàn diễn lớn của những cuộc thi sắc đẹp tầm quốc tế
có người Việt Nam tham dự. Dù xuất hiện ở khoảng khơng gian nào, chiếc nón Huế
làng nghề đang gìn giữ, cũng đã bắt đầu có những phát triển để thích nghi với đời
sống mới. Cuộc sống là sự vận động, nón Huế cũng đang bắt đầu bước ra khỏi không
gian của Huế, của Việt Nam để đến với bạn bè quốc tế.
Người ta đội nón làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cơ gái về nhà chồng, bà mẹ đặt
vào tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương... Chiếc nón gợi
nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: "Nón bài thơ,
em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở"... Giữa những kênh rạch, sông nước chằng
chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: "Nón lá đội nghiêng tóc dài em
gái xõa".
Chiếc nón cịn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần:
"Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che..."
Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội
nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn
biển, làm n lịng người ra trận...
Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, má lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng
ngần của cơ gái dường như được tơn thêm nét dun dáng, kín đáo mà không kém
phần quyến rũ...
Con người Việt Nam có tình cảm sâu sắc và gắn bó với chiếc nón lá giản dị dù gặp
nó ở bất cứ đâu trên trái đất này.
Chiếc nón đã gắn bó mật thiết với người Việt Nam nên chẳng thế mà khách nước
ngoài khi kết thúc chuyến hành trình ở Việt Nam ai cũng muốn mang theo vài cái
nón trong hành trang về nước.
<b>4. Kết luận </b>
khắp mọi miền đất nước. Nếu ở một nơi xa xơi nào đó khơng phải trên đất Việt Nam,
mỗi khi nhìn thấy chiếc nón trắng, như nhìn thấy tín hiệu Việt Nam.