Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.84 KB, 13 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>LƯỢC KHẢO VỀ “THI THOẠI” VIỆT NAM</b>
<b>Ths. Nguyễn Thanh Tùng (K.Văn - ĐHSPHN) </b>
<b>Đề yếu</b>
Trước hết, bài viết tập trung khảo sát và giới thiệu một cách vắn tắt về thể tài thi
thoại ở Việt Nam thời Trung đại. Qua đó, bài viết dựng lại quá trình hình thành
và phác ra một vài đặc điểm của thi thoại Việt Nam trung đại. Trên quan điểm
xem thi thoại không chỉ như một thể tài văn học mà cịn như một hiện tượng văn
hóa, bài viết bước đầu lí giải ngun nhân hình thành và đặc điểm của thi thoại
Việt Nam trung đại trong bối cảnh lịch sử văn hóa trong nước và khu vực. Cuối
cùng, bài viết cũng đề xuất hướng nghiên cứu toàn bộ thi thoại Việt Nam từ khởi
thủy cho đến nay, ngõ hầu cho chúng một lịch sử.
<b> ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
<i>Thi thoại là một thể tài lí luận phê bình thơ ca khá đặc sắc trong các</i>
nền văn học dân tộc có sử dụng chữ Hán hoặc chịu ảnh hưởng của văn hóa
Hán. Đây là nguồn tư liệu quan trọng để nghiên cứu lịch sử văn học cũng
<i>như tư tưởng thi học của các dân tộc này. Mặt khác, thi thoại cũng là một</i>
hiện tượng văn học, văn hóa độc đáo. Tuy nhiên, ở Việt Nam do số lượng
<i>thi thoại quá ít nên việc nghiên cứu thi thoại như một hiện tượng như vậy</i>
chưa được chú ý nhiều lắm. Bởi vậy, bài viết này xin được bước đầu tìm
<i>hiểu tình hình thi thoại ở Việt nam thời Trung đại ngõ hầu góp phần bù đắp</i>
phần nào sự thiếu khuyết đó.
<b>NỘI DUNG</b>
<i><b>1. Vài nét về thể tài thi thoại</b></i>
<i>đến thời Tống với tác phẩm “mở đường” là Lục Nhất thi thoại (Âu Dương</i>
<i>Theo Phan Khơi: “Thi thoại là một lối trứ thuật chuyên nói về chuyện</i>
<i>làm thi. Trong một quyển thi thoại thường góp nhặt những bài những câu thi</i>
hay và thường kèm theo ít nhiều lời bình, cốt để lưu truyền những câu đắc ý
của tao khách phong nhân mà mong thi giới nhờ đấy cũng có phần phát
<i>đạt”<!--[if !supportFootnotes]-->[ii]<!--[endif]-->. Hoặc: “Thi thoại là sách</i>
nói về chuyện làm thơ. Đại để nó là một thứ sách thuộc về loại sách phê bình
<i>văn học. Trong các sách thi thoại xưa của người Tàu khơng phải là tinh phê</i>
bình thơ mà thơi, cũng có bao hàm các chuyện khác, như là nhắc lại những
dật sự của thi nhân, hoặc nêu ra những điển cố trên văn đàn; nhưng tóm lại
thì cái tính chất phê bình nhiều hơn, nên người ta cho vào loại sách phê
bình”<!--[if !supportFootnotes]-->[iii]<!--[endif]-->.
<i>đính chính lại những sai lầm” (thi thoại giả, biện cú pháp, bị cổ kim, kỉ thịnh</i>
<i>đức, lục dị sự, chính ngoa ngộ dã)<!--[if </i>
<i>!supportFootnotes]-->[iv]<!--[endif]-->. Về mặt hình thức, có thể nói, thi thoại thuộc về văn xi tự sự mà</i>
cụ thể hơn là thuộc thể kí. Kí là thể loại hết sức mở, đa dạng về hình thức và
<i>phong cách nên thi thoại cũng vậy. Nó có thể bao gồm nhiều tiểu loại khác</i>
nhau: hồi kí, nhật kí, bút kí, tùy bút, du kí, kí sự, kí khảo cứu, kí nghị luận,...
<i>Về mặt ngơn ngữ, lời văn: thi thoại dung hợp trong nó cả vận văn, tản văn</i>
<i><b>2. Tình hình Thi thoại Việt Nam thời trung đại</b></i>
<i>Nếu căn cứ vào tên gọi tác phẩm thì thi thoại ở Việt Nam thời Trung</i>
đại ra đời muộn và số lượng khá ít ỏi<!--[if
<i>!supportFootnotes]-->[v]<!--[endif]-->. Cho đến nay, chúng ta vẫn phải ghi nhận rằng Thương Sơn thi</i>
<i>thoại của Miên Thẩm là cuốn thi thoại duy nhất. Tuy nhiên, nếu quan niệm</i>
một cách rộng rãi hơn, căn cứ vào đặc trưng của thể loại này, thiết nghĩ, tình
<i>hình sẽ khả quan hơn. Hẳn, thi thoại Việt Nam cũng phải có một quá trình</i>
hình thành và phát triển nhất định dưới thời Trung đại.
<i><b>a. Giai đoạn “manh nha” của thi thoại Việt Nam trung đại</b></i>
<i>Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446). Theo ông, “trước</i>
Hồ Nguyên Trừng tự sự loại này chưa hề xuất hiện… Có thể nói, người đầu
<i>tiên viết thể tài thi thoại ở Việt Nam là Hồ Nguyên Trừng. Ông đã dành cho</i>
thể này 13/31 thiên, với tỉ lệ gần 42%”<!--[if
<i>!supportFootnotes]-->[vi]<!--[endif]-->. Đó là những mẩu chuyện “cực ngắn” viết về các giai thoại trong</i>
đời sống thơ ca thời Trần Hồ, kèm theo đó là những lời bình luận tinh tế của
<i>họ Hồ. Nếu tách riêng 13 thiên này ra khỏi Nam Ông mộng lục thì chúng ta</i>
<i>có một tập thi thoại nho nhỏ. </i>
Có được đóng góp đó có lẽ phần lớn là nhờ hồn cảnh đặc biệt của họ
<i>Hồ. Ơng viết Nam Ông mộng lục ở Trung Quốc. Nỗi niềm hoài vọng quê</i>
thành của hoạt động sưu tầm, ghi chép, phê bình thơ ca mặt khác là tiền đề
<i>cho phê bình thơ ca nói chung và thi thoại nói riêng ra đời và phát triển ở</i>
các thế kỉ sau.
<i>Thế kỉ XVI, có hai tư liệu đáng chú ý, đó là: Kim Hoa thi thoại kí</i>
<i>(Nguyễn Dữ) và Huấn đồng thi tập tự (Phùng Khắc Khoan). </i>
nhiên, đây chỉ là phỏng đốn, cịn cần có những “thiết chứng” thuyết phục
để khẳng định giả thiết trên.
<i>Bên cạnh đó, bài tựa Huấn đồng thi tập của Phùng Khắc Khoan (1528</i>
- 1613) cũng có dáng dấp “chuyên luận” bàn về thơ. Lê Quý Đôn nhận xét:
“Bài tựa trong thi tập nói về phép làm thơ, ơng thuật lại đầy đủ những lời cổ
ngữ, rất bổ ích cho việc xem xét, tìm tịi”<!--[if
!supportFootnotes]-->[x]<!--[endif]-->. Bài tựa tập hợp khá nhiều ý kiến bàn về thơ (đặc biệt là về cách
làm thơ của những tác giả nổi tiếng như Thượng Quan Nghi, Bạch Cư Dị,
<i>dáng dấp khá gần với hình thức thi thoại. Đặc biệt, trong Thiên chương, Lê</i>
Quý Đôn đã bộc lộ trực tiếp quan niệm cá nhân về thơ ca. Ông cũng dành
một vài đoạn viết về thơ của chính mình (tuy cịn sơ sài). Đây là đặc điểm
<i>thường thấy trong thi thoại các nhà (trình bày kinh nghiệm, quan niệm sáng</i>
tác của bản thân). Lối ghi chép thành các “điều” khá ngẫu hứng, tự do của
<i>hai tư liệu trên cũng rất gần với lối ghi chép thành các “thoại” của thi thoại.</i>
Nếu tách riêng phần viết về thơ ca ra, chúng ta cũng sẽ có được một tác
<i>phẩm thi thoại ngắn khá độc đáo với khoảng trên 20 “thoại”. </i>
<i>Đầu thế kỉ XIX, có 2 tư liệu đáng chú ý: Vũ trung tùy bút của Phạm</i>
<i>Đình Hổ (1768 - 1839), phần Thi văn trong Văn tịch chí, sách Lịch triều</i>
<i>hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782 - 1840). </i>
<i>Vũ trung tùy bút là tập tùy bút có nội dung rất phong phú, trong đó có</i>
nhiều thiên khảo cứu sâu sắc về văn chương. Trong đó đáng chú ý là thiên
<i>Thể thơ. Đây là thiên nghiêng về khảo cứu công phu, uyên bác về diễn tiến</i>
<i>của thơ ca các triều đại trước đó. Thiên Thể thơ tích lũy thêm kinh nghiệm</i>
phê bình, khảo cứu thơ ca, bộc lộ những quan niệm về thơ ca Việt Nam hết
<i>sức sâu sắc. Thiên Thể thơ gợi nhắc đến thiên Thi thể trong Thương Lang thi</i>
<i>thoại của Nghiêm Vũ.</i>
“lịch sử văn học sơ giản” này, Phan Huy Chú dành phần lớn trang viết dành
cho thơ ca (khoảng 91/ 106 đầu sách là các tập thơ). Phần viết về thơ ca này,
<i><b>b. Sự hình thành thi thoại Việt Nam trung đại với Thương Sơn thi thoại</b></i>
<i>Thi thoại Việt Nam chính thức ra đời vào giữa thời Nguyễn, nhưng</i>
<i>cũng chỉ có một tác phẩm duy nhất cịn lại với chúng ta hiện nay là Thương</i>
<i>Sơn thi thoại của Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1819 </i>
<i>-1870). Sự ra đời của Thương Sơn thi thoại vừa là một bước đột phá, bước</i>
<i>ngoặt trong “lịch sử” thi thoại Việt Nam, nhưng cũng vừa là một tất yếu. Về</i>
đặc điểm cụ thể của tác phẩm chúng tơi đã có bài giới thiệu chi tiết, ở đây
chúng tôi chỉ xin trình bày một vài nét lớn<!--[if
!supportFootnotes]-->[xii]<!--[endif]-->.
đời, tác phẩm không được phổ biến rộng rãi, nên khơng thấy có dấu ấn gì
trong đời sống văn học đương thời.
Một vấn đề cần đặt ra là, nguyên nhân nào dẫn đến sự ra đời của
<i>Thương Sơn thi thoại ? Trả lời được câu hỏi này cũng đồng thời tìm ra</i>
ngun nhân dẫn đến tình trạng có phần “nghèo nàn” của thi thoại Việt Nam
Trung đại. Theo chúng tơi, có mấy ngun nhân chính sau:
chất tài hoa, nghệ sĩ vừa có tính uyên bác, công phu. Miên Thẩm lại là một
nhà thơ có hạng. Gần như, với Miên Thẩm, làm thơ là một “nghề” thực sự
suốt đời ông đeo đuổi, chứ không phải công cụ để thi cử, tiến thân. Hơn thế,
ông còn là một trong những lãnh tụ của thi đàn đương thời, chủ soái của thi
xã Tùng Vân nổi tiếng. Tài năng và kinh nghiệm thơ ca giúp Miên Thẩm dễ
<i>dàng làm chủ loại hình thi thoại. Thi thoại cũng địi hỏi “cái Tơi” tác giả (cái</i>
tơi nghệ sĩ) phải có một trình độ “tự ý thức” khá cao. Đây là điều mà có lẽ
đến thế kỉ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX với sự trỗi dậy của ý thức cá
<i>nhân, của văn học nghệ thuật đích thực mới có thể xuất hiện. Làm thi thoại,</i>
các nhà thơ mới có thể bộ lộ rõ nhất quan niệm cá nhân độc đáo của mình.
Miên Thẩm là trường hợp như vậy.
<i>tiếp xúc với thi thoại Trung Hoa (như Lê Q Đơn chẳng hạn), nhưng có lẽ</i>
các nhà văn này chưa chú ý đúng mức đến hình thức độc đáo (và thiên về
<i>văn học nghệ thuật) này. Phải chăng vì thi thoại lúc bấy giờ vẫn bị xem là</i>
loại sách “khơng quan hệ gì đến chính sự cả”. Sự phân biệt giữa văn trước
thuật và và văn nghệ thuật đương thời cũng chưa rõ ràng. Đến thời Nguyễn,
ta thấy Phan Huy Chú đã có ý thức phân biệt rõ hai loại này và đề cao văn
<i>nghệ thuật. Quan niệm về thi thoại thời Nguyễn cũng vì thế mà thay đổi.</i>
Các tác giả thời Nguyễn cho đây là một thể tài quan trọng, hấp dẫn. Nhiều
<i>thi thoại Trung Hoa được đem ra thưởng thức, thảo luận, trích dẫn<!--[if !</i>
supportFootnotes]-->[xiv]<!--[endif]-->. Thời Nguyễn, hoạt động giao lưu
văn hóa giữa hai nước cũng diễn ra khá sôi động. Nhiều nhà thơ Trung Hoa
và Việt Nam đã gặp gỡ, trao đổi học thuật với nhau dưới hình thức trực tiếp
hoặc gián tiếp. Khơng khí giao lưu, trao đổi học thuật sơi nổi đó có dấu ấn
<i>đậm nét trong thi thoại của Miên Thẩm. Thế kỉ XIX, cũng là thế kỉ mà văn</i>
khảo cứu rất phát triển. Hàng loại các cơng trình khảo cứu đã ra đời trong
<i>giai đoạn này, trong đó có những cơng trình khảo cứu về thơ ca (như Vũ</i>
<i>trung tùy bút, Lịch triều hiến chương loại chí đã nêu trên). Đó cũng là một</i>
<b>KẾT LUẬN</b>