Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.32 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN ĐÌNH TOẢN

TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TỒ HÌNH SỰ SƠ THẨM
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài Tranh luận tại phiên tồ hình sự sơ
thẩm - lý luận và thực tiễn này là công trình khoa học của tơi. Các số liệu thực tế được
sử dụng trong luận văn là hoàn toàn trung thực.
Tác giả luận văn

Trần Đình Toản


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự


BLHS

: Bộ luật hình sự

PLTTHS

: Pháp luật tố tụng hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

PTHSST

: Phiên tồ hình sự sơ thẩm

HĐXX

: Hội đồng xét xử

HSST

: Hình sự sơ thẩm


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng số liệu thốn
Bảng 3.1
Biểu 3.2


Trang
Bảng thống kê tổng số vụ án đã thụ lý và giải quyết của ngành
Toà án từ năm 2005 đến năm 2011
Biểu đồ tỷ lệ % số vụ án đã giải quyết của ngành Toà án từ
năm 2005 đến năm 2011

49
49


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN TẠI

9

PHIÊN TỒ HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1.

Khái niệm tranh luận tại phiên tồ hình sự sơ thẩm

9

1.2.


Phân biệt giữa tranh luận và tranh tụng

13

1.3.

Ý nghĩa của hoạt động tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm

18

Chương 2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH

23

SỰ VỀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TỒ HÌNH SỰ SƠ THẨM
2.1.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước năm 2003 về tranh luận

23

tại phiên tồ hình sự sơ thẩm
2.1.1. Quy định chung về thủ tục tranh luận tại phiên tồ hình sự sơ thẩm giai

23

đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988
2.1.2. Quy định về thủ tục tranh luận tại phiên tồ hình sự sơ thẩm theo Bộ luật


29

tố tụng hình sự năm 1988
2.2.

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tranh luận tại phiên

34

tồ hình sự sơ thẩm
Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO

46

HIỆU QUẢ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TỒ HÌNH SỰ SƠ THẨM
3.1.

Quan điểm và nội dung cải cách tư pháp về tranh luận tại phiên tồ

46

hình sự sơ thẩm
3.2.

Thực trạng về tranh luận tại phiên toà xét xử sơ thẩm về hình sự

47

3.3.


Giải pháp hồn thiện hoạt động tranh luận tại phiên tồ hình sự sơ

69

thẩm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh luận tại phiên tịa là một trong những nội dung có ý nghĩa rất quan
trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, ln là vấn đề có tính thời sự, được xã hội
quan tâm. Tranh luận tại phiên tịa hình sự khơng chỉ là yêu cầu của việc bảo đảm
tính dân chủ, cơng bằng giữa những người tham gia tố tụng nói chung với Viện
kiểm sát, mà kết quả tranh luận tại phiên tòa là căn cứ để Hội đồng xét xử, Kiểm sát
viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự xác
định sự thật và giải quyết vụ án một cách khách quan và tồn diện nhất. Để hoạt
động này có hiệu quả đòi hỏi các bên tham gia tranh luận, đặc biệt là Kiểm sát viên
và Luật sư phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, nắm rõ toàn bộ nội dung vụ án, nắm rõ các
quy định pháp luật có liên quan, cũng như có một kỹ năng tranh luận có sức thu hút
và đạt hiệu quả cao thì mới bảo vệ được quan điểm và đạt được mục đích tranh luận
của mình.
Có thể nói, tranh luận là một phần của hoạt động tranh tụng nói chung trong
tố tụng hình sự Việt Nam nhưng đó là phần tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất của hoạt

động tranh tụng. Tranh luận trong tố tụng hình sự được diễn ra trong phiên tồ xét
xử về hình sự, mà cụ thể là có ở trong phiên tồ sơ thẩm và phúc thẩm các vụ án
hình sự. Đó chính là sự đối đáp, tranh luận về những tình tiết có liên quan đến việc
giải quyết vụ án giữa đại diện Viện kiểm sát với Luật sư và các chủ thể tham gia tố
tụng khác nhằm làm sáng tỏ sự thật vụ án.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tranh luận, tranh tụng trong tố
tụng hình sự, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” xác định:
“Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh
tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác. Khi xét xử, các Tịa án phải bảo đảm cho mọi cơng dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ


2

yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người
làm chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra
những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời
hạn luật định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư
tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ
án, tranh luận dân chủ tại phiên tịa…1.
Nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng nhấn mạnh Nâng cao chất lượng tranh tụng tại
các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp 2. Nhằm thể
chế hoá quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp như trên, Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 ra đời cũng đã mang lại nhiều kết quả đáng kể, hoạt động tranh luận tại
các phiên tồ xét xử hình sự được đẩy mạnh, giúp cho việc giải quyết các vụ án

hình sự đảm bảo được công bằng, dân chủ và khách quan hơn.
Tuy nhiên bên cạnh đó qua gần 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, hoạt động tranh luận nói riêng và tranh tụng nói chung trong tố tụng hình sự
Việt Nam cũng đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Tranh tụng nói chung và tranh
luận tại phiên tịa hình sự là một vấn đề tương đối mới mẻ trong lĩnh vực tư pháp ở
nước ta. Về mặt lý luận, đang cịn có những quan điểm, nhận thức rất khác nhau
giữa các nhà khoa học cũng như cán bộ làm công tác thực tiễn về khái niệm tranh
luận và tranh tụng; riêng về tranh luận, vấn đề thời điểm bắt đầu và thời điểm kết
thúc; về phạm vi, phương pháp và nội dung tranh luận mà các chủ thể cần thực
hiện...cũng còn nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về những vấn đề này.
Và từ thực tiễn của hoạt động tranh luận, từ phía các chủ thể tranh luận hiện
nay cũng còn nhiều bất cập và hạn chế nhất định. Đối với Kiểm sát viên, là người
có vai trị rất quan trọng trong hoạt động tranh luận nhưng việc luận tội và đối đáp
trong các phiên tồ xét xử về hình sự chưa chặt chẽ, nhiều vụ việc Kiểm sát viên
1
2

Bộ Chính trị, Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác tư pháp.
Bộ Chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.


3

cịn lúng túng trước các tình huống phát sinh tại phiên tịa. Bên cạnh đó trình độ,
năng lực của một số Kiểm sát viên còn hạn chế; việc nghiên cứu hồ sơ, chứng cứ
một số vụ án chưa kỹ, chưa tồn diện, cịn có biểu hiện chủ quan, đơn giản trong
nghiên cứu. Cá biệt có vụ án khơng nắm chắc, nghiên cứu không sâu, không bảo vệ
được quan điểm của Viện kiểm sát. Một số Kiểm sát viên còn thiếu kinh nghiệm
nên khi dự kiến, chuẩn bị nội dung xét hỏi, tranh luận chưa sát, khi tranh luận thiếu
sắc bén, tính thuyết phục khơng cao, có lúc cịn bị động khi phát biểu quan điểm tại

phiên tòa dẫn đến chất lượng thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa bị hạn chế.
Khơng ít Kiểm sát viên cịn có tâm lý ngại tranh luận với Luật sư (nhất là trong các
vụ án có nhiều Luật sư tham gia bào chữa cho các bị cáo), thiếu bình tĩnh, tự tin.
Tình trạng Kiểm sát viên khơng tập trung theo dõi q trình xét hỏi tại phiên tịa,
khơng ghi chép các quan điểm khác nhau về từng vấn đề cần tranh luận, đối đáp với
người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nên không đối đáp
hoặc đáp lại không hết…
Về phía người bào chữa, thực tiễn xét xử cho thấy rằng, chất lượng bào chữa
tại phiên tịa nhìn chung chưa cao, rất ít Luật sư đưa ra những tài liệu, chứng cứ có
tính thuyết phục để bảo vệ có hiệu quả cho thân chủ của mình. Hầu hết các Luật sư
mới chỉ dựa vào hồ sơ vụ án và tìm ra trong đó những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo. Cịn khơng ít trường hợp Luật sư không nhất quán trong
quan điểm bào chữa, viện dẫn những điều luật đã lạc hậu, những văn bản đã bị bãi
bỏ hoặc bổ sung, sửa đổi. Có trường hợp Luật sư tranh luận gay gắt, tạo ra khơng
khí căng thẳng, thiếu văn hóa pháp lý nơi cơng đường. Luật sư thường tập trung vào
việc phê phán các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thu thập các tài liệu, chứng
cứ như: chỉ ra những mâu thuẫn không đáng kể trong hồ sơ, những vi phạm thủ tục
nhỏ. Đối với các vụ án kinh tế hoặc các vụ án có yếu tố chiếm đoạt, Luật sư thường
viện dẫn các quy định của pháp luật về dân sự, kinh tế để đánh giá vụ án theo hướng
vi phạm về dân sự, là quan hệ vay nợ và cho rằng các cơ quan pháp luật đã hình sự
hóa các quan hệ dân sự, kinh tế mà khơng nhìn nhận đúng bản chất của vụ việc.
Một số Luật sư khi thấy bị cáo rõ ràng là có tội, tất yếu khơng tránh khỏi hình phạt


4

nhưng để tìm cách gỡ tội cho bị cáo, họ đã “bào chữa” hoặc tạo cớ cho rằng bị cáo
có dấu hiệu của một người khơng bình thường rồi đề nghị trưng cầu giám định tâm
thần nhằm trì hỗn xét xử nên dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài. Bên cạnh đó
phần lớn Luật sư bào chữa cho bị cáo chưa được tham gia từ giai đoạn khởi tố, điều

tra vụ án, thường họ chỉ được tham gia từ giai đoạn xét xử nên có nhiều trường hợp
khơng bảo vệ được kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và đương sự trong
giai đoạn điều tra vụ án. Do vậy, việc bào chữa hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho bị cáo và đương sự tại phiên tịa có nhiều khó khăn. Khơng ít trường hợp Luật
sư do Tòa án chỉ định theo quy định của pháp luật họ thường thực hiện vai trò bào
chữa như là nghĩa vụ mà chưa phát huy hết khả năng và trách nhiệm của mình trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được bào chữa…
Đối với việc quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận theo Điều 217 Bộ
luật TTHS 2003 quy định nguyên đơn dân sự được tham gia phát biểu tranh luận
sau người bào chữa và bị cáo. Đây là quy định không phù hợp với sự vận hành các
chức năng cơ bản của TTHS và nguyên tắc tranh tụng. Chức năng buộc tội làm xuất
hiện chức năng bào chữa. Nguyên đơn dân sự là chủ thể của chức năng buộc tội. Về
nguyên tắc thì bên buộc tội phát biểu quan điểm tranh luận trước bên bào chữa và
trên cơ sở đó bên bào chữa mới biết được bên buộc tội đã buộc tội mình như thế nào
rồi đưa ra lời bào chữa của mình thì mới phù hợp với quy luật khách quan.
Chính vì những hạn chế và bất cập như trên cho thấy hiệu quả các phiên tồ
xét xử sơ thẩm về hình sự trong thời gian qua của chúng ta chưa cao, nhiều vụ án
còn oan sai, còn bỏ lọt tội phạm; nhiều vụ án còn chưa đúng pháp luật và chưa phù
hợp dẫn đến việc bản án bị kháng cáo, kháng nghị rất nhiều, điều này gây ra hậu
quả bất lợi cho các bên, gây lãng phí thời gian tiền của cho Nhà nước và công dân.
Từ thực tiễn hoạt động tranh luận trên, người viết thấy rằng để hoạt động
tranh luận trong các phiên tồ hình sự, đặc biệt là phiên tồ hình sự sơ thẩm đạt
được hiệu quả cao, thực sự góp phần giải quyết các vụ án hình sự một cách tốt nhất,
công bằng nhất, cũng như giúp cho Hội đồng xét xử ra bản án đúng pháp luật, hạn
chế việc kháng cáo, kháng nghị, đảm bảo tính ổn định của bản án, tiết kiệm được


5

thời gian, công sức, cũng như tài sản của Nhà nước và cơng dân cần có một cơng

trình nghiên cứu tồn diện về vấn đề này. Bên cạnh đó nhằm thực hiện tốt công
cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính
trị, đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và khơng làm oan người vơ tội, góp phần xử lý tội phạm một
cách hiệu quả nhất, đảm bảo ổn định trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện phát triển
kinh tế xã hội đất nước, tác giả nhận thấy việc tiếp tục nghiên cứu về thủ tục tranh
luận tại phiên tồ sơ thẩm hình sự là cần thiết, do đó tác giả chọn đề tài Tranh luận
tại phiên tồ hình sự sơ thẩm - Lý luận và thực tiễn để làm luận văn tốt nghiệp cho
khoá học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài tranh luận trong tố tụng hình sự là một đề tài khá mới mẻ đối nền tư
pháp nước ta, nó được rất nhiều sự quan tâm của nhiều tác giả am hiểu về lĩnh vực
tố tụng hình sự nói chung. Vấn đề tranh tụng, tranh luận trong tố tụng hình sự cũng
là một định hướng lớn trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta
đến năm 2020. Nhiều tác giả đã có các bài viết liên quan đến nội dung này. Như
cuốn sách “Tranh luận tại phiên tồ sơ thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu
(ngun Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao), NXB Tư pháp; Bài viết
“Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự”, của tác giả Lê Tiến Châu đăng
trên Tạp chí khoa học pháp lý, số 01/2003; Bài viết “Đánh giá thực trạng tranh
tụng trong phiên toà của Kiểm sát viên dưới góc nhìn của Luật sư”, của PGS.TS.LS
Phạm Hồng Hải; Bài viết “Bản chất của tranh tụng tại phiên toà” của PGS.Trần
Văn Độ, đăng trên Tạp chí KHPL số 04/2004; Bài viết “Một số vấn đề về mối quan
hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của Tòa án trong bối
cảnh cải cách tư pháp”, của tác giả Nguyễn Trương Tín đăng trên Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 10/2008; Hay tác giả Nguyễn Thái Phúc với bài viết “Vấn đề
tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2008; Tác giả Nguyễn Đức Mai với bài
viết “Tranh tụng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 01/1995;



6

Tác giả Lê Tiến Châu với bài “Tìm hiểu các hình thức tố tụng hình sự”, Tạp chí
khoa học pháp lý số 8/2002; Tác giả Nguyễn Đức Mai bài “Nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học số 1/1996; Bài viết “Một số vần đề về mối
quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của Toà án
trong bối cảnh cải cách tư pháp”, của Thạc sỹ Nguyễn Trương Tín. Nhìn chung các
bài viết trên cũng đã đề cập đến rất nhiều nội dung xung quanh vấn đề tranh luận,
tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam, như việc có nên xem đây là một nguyên
tắc trong tố tụng hình sự hay khơng; xác định các chủ thể tham gia tranh luận, tranh
tụng; những nội dung cụ thể của tranh tụng và tranh luận trong phiên tồ xét xử
hình sự, trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự. Tuy nhiên qua các bài viết
trên cho thấy vì những lý do khác nhau, xuất phát từ những mục đích khác nhau mà
các tác giả trên chỉ đi sâu nghiên cứu, đề cập đến một khía cạnh, một nội dung nhất
định liên quan đến hoạt động tranh luận, tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Bên cạnh đó những nội dung liên quan đến tranh tụng, tranh luận cũng đã có
một số tác giả chọn để làm luận văn tốt nghiệp. Như Luận văn thạc sỹ “Thủ tục xét
hỏi và tranh luận tại phiên tồ hình sự” của tác giả Lê Thị Hồng Minh; Luận văn
thạc sỹ “Xét hỏi, tranh luận và vấn đề nâng cao tính tranh tụng của phiên tồ hình
sự sơ thẩm” của tác giả Lê Đức Thọ; Luận văn thạc sỹ “Nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tồ hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Trần Duy
Bình; Luận văn thạc sỹ “Vai trò của người bào chữa trong việc nâng cao hiệu quả
tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm” của tác giả Nguyễn Ngọc Ái. Nội dung của các
luận văn trên cũng đề cập nhiều tới việc tranh luận, tranh tụng trong tố tụng hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp. Tuy nhiên trong các luận văn này cũng chưa cho
chúng ta một cái nhìn rõ ràng, cụ thể về tranh luận, khi người đọc nghiên cứu các
luận văn trên còn nhầm lẫn giữa tranh luận và tranh tụng, có khi cảm thấy hai nội
dung này là đồng nhất. Ngồi ra, tuy có nhiều bài viết, có nhiều ý kiến khác nhau về
tranh luận, tranh tụng nhưng trên thực tế để có một cái nhìn, nhận thức tổng thể về
vấn đề này, cũng như cần phải có cái nhìn rất cụ thể, chi tiết về tranh luận, tranh

tụng thì cần phải có nhiều cơng trình nghiên cứu hơn nữa giúp cho việc hoàn thiện


7

hoạt động tố tụng này. Mặt khác, hiện tại vấn đề tranh luận, tranh tụng cũng chỉ mới
được ghi nhận ở hai điều luật chủ yếu trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều
217 và Điều 218 BL TTHS) với nội dung quy định về trình tự phát biểu khi tranh
luận và đối đáp trong phiên toà. Như vậy tuy tranh luận là một thủ tục rất quan
trọng, có ý nghĩa rất lớn trong việc phán quyết về một nội dung vụ án (dựa trên kết
quả tranh luận mà Toà án ra bản án) nhưng chỉ được quy định, đề cập rất ít
trong Bộ luật TTHS là chưa phù hợp. Vì vậy, việc kế thừa, tiếp tục nghiên cứu
có hệ thống, tồn diện, đầy đủ hơn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn tranh luận tại các phiên tồ hình sự, qua đó đề xuất một số giải pháp góp phần
hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao chất lượng tranh luận tại các phiên
tồ hình sự vẫn là nhiệm vụ rất cần thiết của khoa học luật tố tụng hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về thủ tục tranh luận
tại phiên tồ sơ thẩm hình sự, nghiên cứu quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
tranh luận tại phiên tồ sơ thẩm hình sự, thực trạng cũng như những bất cập của
pháp luật hiện hành, luận văn đưa ra giải pháp để hoàn thiện các quy định về tranh
luận tại phiên tồ hình sự sơ thẩm.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích này thì luận văn có nhiệm vụ sau: làm rõ
lý luận về tranh luận, các quy định của pháp luật về tranh luận, thực trạng tranh
luận, trong đó xác định rõ các nguyên nhân làm nên thực trạng đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn tập trung nghiên cứu nhằm làm
sáng tỏ:
- Một số vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên tồ hình sự;

- Quy định của pháp luật về tranh luận tại phiên tồ hình sự;
- Thực trạng hoạt động tranh luận tại các phiên toà sơ thẩm hình sự những
năm gần đây, những bất cập và vướng mắc;
Phạm vi nghiên cứu:


8

Đề tài nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng thủ tục tranh
luận tại phiên tồ sơ thẩm hình sự tại Việt Nam và những giải pháp để nâng cao
chất lượng tranh luận tại phiên tồ sơ thẩm hình sự. Về mốc thời gian để khảo sát
nghiên cứu là từ năm 2003 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn tác giả sẽ bám sát những lý luận của Chủ
nghĩa Mác – LêNin về phép biện chứng duy vật, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp. Ngồi ra
trong luận văn tác giả cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học thông
thường như phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp; phương pháp
lịch sử; phương pháp thống kê; phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để hoàn
thành luận văn của mình.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài góp phần bổ sung và hoàn thiện hơn vấn đề lý luận về tranh luận tại
phiên tồ hình sự sơ thẩm. Trên cơ sở đó hoàn thiện quy định của Bộ luật TTHS
năm 2003 về thủ tục tranh luận tại phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, giúp
cho những nhà thực thi pháp luật có cái nhìn tồn diện hơn và đầy đủ hơn về hoạt
động này, từ đó nâng cao chất lượng tranh luận, giúp cho việc giải quyết vụ án đạt
hiệu quả cao nhất.
7. Bố cục luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có ba chương với cơ cấu như sau:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tranh luận tại phiên tồ hình sự sơ thẩm.
Chương 2. Một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tranh luận tại
phiên tồ hình sự sơ thẩm.
Chương 3. Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả tranh luận tại
phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự


9

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN TẠI
PHIÊN TỒ HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm tranh luận tại phiên tồ hình sự sơ thẩm
Nhìn chung, hiện vẫn nay chưa có một khái niệm thống nhất về tranh luận tại
phiên tồ hình sự sơ thẩm. Đứng ở mỗi góc độ nghiên cứu, mỗi góc độ nhìn nhận
khác nhau về hoạt động này mà có một số tác giả đã đưa ra khái niệm về tranh luận
tại phiên tồ hình sự sơ thẩm.
Trước tiên chúng ta tìm hiểu khái niệm về tranh luận. Tranh luận theo từ điển
Việt Nam được hiểu là “bàn cãi để tìm ra lẽ phải”3. Như vậy từ khái niệm này
chúng ta có thể hiểu tranh luận chính là sự bàn cãi, đưa ra lý lẽ giữa các bên về một
vấn đề nào đó, từ đó các bên bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình về vấn đề được
tranh luận. Ở đây việc tranh luận có thể diễn ra ở bất cứ đâu, giữa bất kỳ chủ thể
nào về bất cứ vấn đề gì mà các bên cảm thấy cần tranh luận, bàn cãi để bảo vệ quan
điểm cá nhân, để tìm ra lẽ phải.
Đó là tranh luận nói chung, cịn tranh luận trong tố tụng hình sự được tiến
hành theo trình tự quy định của pháp luật. Trong đó chủ thể, phạm vi, nội dung
tranh luận được pháp luật quy định cụ thể 4. Trước khi tìm hiểu về khái niệm tranh
luận tại phiên tồ sơ thẩm hình sự, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “phiên tồ sơ
thẩm”.
Dưới góc độ của ngơn ngữ pháp lý thì phiên tồ chính là “hình thức hoạt

động xét xử của Tồ án” 5. Đây là một hình thức xét xử mang tính đặc thù, được
tiến hành theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Theo Bộ luật TTHS hiện hành thì phiên tồ hình sự được phân thành bốn
loại: phiên tồ sơ thẩm, phiên toà phúc thẩm, phiên toà giám đốc thẩm và phiên toà

3

Từ điển tiếng việt (2002), Nxb Đà Nẵng, tr.1024.
Bộ luật TTHS (2003), Điều 217, 218.
5
Từ điển luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.620.
4


10

tái thẩm. Trong đó, phiên tồ sơ thẩm và phúc thẩm là hai cấp xét xử của Tồ án,
cịn phiên tồ giám đốc và tái thẩm là trình tự thủ tục đặc biệt trong tố tụng.
Phiên toà HSST là một hình thức thực hiện chức năng xét xử của Tồ án. Sau
khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 176, 178 BL TTHS) trong thời hạn luật
định Toà án phải mở phiên toà để tiến hành xét xử vụ án 6. Tại phiên toà xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tất cả các chứng cứ đều được xem xét, đánh giá và trên cơ sở
các chứng cứ đã được xem xét, thẩm tra tại toà HĐXX sẽ ra quyết định giải quyết
đối với vụ án đó. Bắt đầu phiên toà Chủ tọa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử,
kiểm tra căn cước của những người triệu tập đến phiên tồ, giải thích quyền và
nghĩa vụ của họ, cho đến thủ tục xét hỏi, tranh luận và cuối cùng là nghị án và tuyên
án.
Phiên toà sơ thẩm được coi là cấp xét xử thứ nhất và là trung tâm của q
trình tố tụng nói chung. Tại phiên tồ này HĐXX có nhiệm vụ giải quyết toàn bộ
những vấn đề thuộc nội dung của vụ án trên cơ sở cáo trạng truy tố của Viện kiểm

sát. Có thể nói PTHSST là phiên tồ trọng tâm nhất của tồn bộ tiến trình tố tụng,
bởi lẽ các hoạt động trước khi xét xử như hoạt động điều tra, truy tố đều nhằm mục
đích đưa người thực hiện hành vi phạm tội ra xét xử bằng một phiên toà công bằng,
dân chủ, với mong muốn giải quyết vụ án (ra bản án) công minh, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Toà án là chủ thể duy nhất được giao nhiệm vụ xét xử và tổ
chức phiên toà. Đây cũng là giai đoạn Toà án xem xét lại toàn bộ chứng cứ, đánh
giá những kết quả mà các giai đoạn tố tụng trước đó đã làm có hiệu quả và đúng
quy định khơng.
Phiên tồ sơ thẩm cịn là nơi tập trung đầy đủ ba chức năng cơ bản trong tố
tụng hình sự đó là chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử. Chỉ thơng qua phiên tồ
mới xác định được người nào có tội hay khơng, nếu có tội thì là tội gì, hình phạt
như thế nào. Trong phiên tồ HSST, Tồ án với vai trị là người trung gian, là trọng
tài điều khiển phiên toà và đánh giá chứng cứ, dựa trên kết quả tranh luận tại phiên

6

Bộ luật TTHS (2003), Điều 176, 178.


11

tồ mà HĐXX đưa ra một phán quyết cơng bằng nhất, đảm bảo pháp luật và phù
hợp nhất, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên. Thông qua phiên tồ chúng ta cịn
xác định được ngun nhân, điều kiện của tình hình tội phạm từ đó có các kiến nghị
và có biện pháp phịng ngừa tội phạm xảy ra.
Như vậy trong PTHSST chúng ta thấy, thủ tục tranh luận là một thủ tục có ý
nghĩa rất quan trọng, kết quả của tranh luận có tính chất quyết định trong việc đưa
ra phán quyết về vụ án. Vậy tranh luận tại phiên tồ sơ thẩm hình sự là gì, chúng ta
tìm hiểu khái niệm này.
Hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về tranh luận tại phiên tồ hình

sự sơ thẩm, mà tuỳ từng góc độ nghiên cứu, tuỳ vào sự nhận thức, đánh giá khác
nhau mà các chủ thể nghiên cứu đưa ra những khái niệm khác nhau về tranh luận tại
phiên tồ hình sự sơ thẩm. Theo tài liệu tập huấn của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao về kỹ năng, đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên…có đưa ra khái niệm “Tranh
luận của Kiểm sát viên tại phiên tồ sơ thẩm về hình sự là sự trả lời, sự bàn cãi
giữa Kiểm sát viên với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác nhằm làm rõ sự thật khách quan về mọi tình tiết buộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ
của vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật” 7. Còn theo tiến sĩ Dương Thanh Biểu thì đưa ra khái niệm tranh luận
trong tố tụng hình sự như sau: tranh luận là việc các bên (Kiểm sát viên, Luật sư và
những người tham gia tố tụng khác) đưa ra quan điểm về giải quyết vụ án, nhằm
làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Hay nói cách khác, tranh luận không chỉ là
“được thua” mà cái quan trọng là thông qua nó để làm rõ sự thật, làm rõ các tình
tiết của vụ án” 8.
Theo quy định tại Chương XXI BLTTHS (từ Điều 217 đến Điều 221) về
tranh luận tại phiên tồ hình sự cho chúng ta thấy, tranh luận là một thủ tục tố tụng

7

Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Tài liệu tập tập huấn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về kỹ năng, đối
đáp, tranh luận của Kiểm sát viên”, tr4.
8
Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr258.


12

được diễn tại phiên toà xét xử sơ thẩm về hình sự. Tranh luận diễn ra giữa Kiểm sát
viên với Luật sư và những người tham gia tố tụng khác.
Trong tranh luận, Tồ án (HĐXX) với vai trị là người điều khiển, là trọng tài

ngồi nghe ý kiến của các bên tranh luận. Thẩm phán (Chủ toạ) có quyền cắt những
ý kiến khơng có liên quan đến vụ án, có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại
những ý kiến có liên quan của người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Về phía các chủ thể tham gia tranh luận, để được HĐXX chấp nhận ý kiến
của mình các bên tham gia tranh luận phải đưa ra những lý lẽ, những ý kiến, những
dẫn chứng cụ thể để bảo vệ quan điểm của mình và phản bác lại quan điểm của bên
đối lập, để từ đó thuyết phục được HĐXX chấp nhận ý kiến của mình. Căn cứ vào
mục đích, vai trị và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tranh luận, chúng ta có
thể chia ra thành các nhóm chủ thể sau:
Thứ nhất là các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội: bao gồm Kiểm sát
viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp và người bảo vệ
quyền lợi của của người bị hại, nguyên đơn dân sự.
Thứ hai là các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa: bao gồm bị cáo, người
bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của bị cáo và bị đơn dân sự.
Riêng đối với chủ thể là Toà án (HĐXX-gồm Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân) không thực hiện việc tranh luận mà thực hiện chức năng xét xử.
Về nội dung tranh luận: Nội dung tranh luận tại PTHSST bao gồm toàn bộ
quan điểm, lập luận về các vấn đề cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà các bên
chủ thể đưa ra để đề nghị HĐXX chấp nhận hoặc bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án.
Tuỳ thuộc vào tính chất xét xử các vụ án hình sự (sơ thẩm, phúc thẩm) mà nội dung
tranh luận có thể khác nhau. Nhìn chung nội dung mà các chủ thể tranh luận với
nhau là những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại
Điều 63 Bộ luật TTHS, như: có hành vi phạm tội xảy ra hay khơng, thời gian và địa
điểm xảy ra; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay khơng có lỗi, lỗi vô ý
hay cố ý; người thực hiện hành vi phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự không;


13


mục đích, động cơ thực hiện tội phạm là gì; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, những đặc điểm khác về nhân thân bị cáo; tính chất và mức độ
thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Thông thường những nội dung
này của vụ án được Kiểm sát viên trình bày qua lời luận tội và từ đó các chủ thể
khác (Bị cáo, Luật sư…) có quyền có ý kiến về lời luận tội của Kiểm sát viên và
đưa ra đề nghị của mình, sau đó Kiểm sát viên phải đưa ra lập luận của mình đối với
từng ý kiến.
Từ những phân tích về phạm vi, chủ thể và nội dung tranh luận trên, tác giả
đưa ra khái niệm về tranh luận tại phiên tồ sơ thẩm hình sự như sau: Tranh luận tại
phiên tồ hình sự sơ thẩm là một thủ tục tố tụng bắt buộc, được quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam, trong đó các chủ thể tham gia tranh luận đưa ra
quan điểm, lý lẽ về việc đánh giá các chứng cứ của mình, từ đó bác bỏ các quan
điểm của các chủ thể đối lập về việc giải quyết vụ án hình sự, giúp cho HĐXX ra
bản án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
1.2. Phân biệt giữa tranh luận và tranh tụng
“Tranh tụng” là khái niệm cũng còn khá mới mẻ trong nền tư pháp nước ta,
nó chỉ thật sự được nhắc đến nhiều sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08NQ/TW, ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp và
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, trong đó có xác định “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Tuy đây là thuật ngữ pháp lý
được sử dụng khá phổ biến nhưng trong các văn bản pháp lý, kể cả trong Bộ luật
TTHS 2003 đều không đề cập đến khái niệm này. Cũng chính vì vậy trong khoa học
luật TTHS có rất nhiều quan điểm và nhận thức khác nhau về khái niệm “tranh
tụng” và cả “tranh luận” tại phiên tịa.
Xuất phát từ nhận thức và mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, có rất nhiều
quan điểm về tranh tụng được đưa ra, dưới đây là một số quan điểm về tranh tụng,
tranh luận trong tố tụng hình sự Việt Nam.


14


Nhóm quan điểm thứ nhất, cho rằng: “Tranh tụng chính là quá trình tranh
luận, trao đổi giữa các bên. Trong tranh tụng các quan điểm pháp lý khác nhau
được cọ sát và chân lý khách quan xuất hiện” 9. Hay “Tranh tụng là hoạt động của
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, tham
gia vào việc làm rõ thật sự của vụ án và cơ sở áp dụng pháp luật, làm căn cứ để
Hội đồng xét xử xem xét, quyết định” 10.
Còn theo quan điểm của TS. Nguyễn Sơn – Phó Chánh án Tịa án nhân dân
tối cao, thì tranh tụng trong tố tụng hình sự: “là sự tranh luận của bên buộc tội và
bên bào chữa, dựa trên những chứng cứ được đưa ra trước phiên tòa do các bên
thu thập theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là cơ
sở để Tịa án ra phán quyết có hiệu lực thi hành, nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của
con người”11.
Nhìn chung, theo các quan điểm trên thì “tranh tụng” và “tranh luận” có thể
là một, nó diễn ra giữa các chủ thể đối lập với nhau, qua tranh luận chân lý và sự
thật khách quan trong vụ án hình sự sẽ được sáng tỏ, làm cơ sở cho Toà án ra phán
quyết về vụ án.
Nhóm quan điểm thứ hai, cho rằng tranh luận được hiểu là :“Một thủ tục một phần độc lập của phiên tòa sơ thẩm... Thủ tục tranh luận thể hiện rõ nét nhất,
tập trung nhất nội dung của nguyên tắc tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn
tranh tụng, là một phần của tranh tụng”12.
Còn theo quan điểm của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu “Tranh tụng là hoạt
động của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên

9

Phạm Hồng Hải (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb
Đại học Quốc Gia, Hà Nội, tr126.
10
Nguyễn Thị Tuyết(2010), “Kiểm sát viên tham gia tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Toà
án nhân dân, (4).

11
/>12
Nguyễn Thái Phúc (2003), “Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật số (9), tr10.


15

toà, tham gia vào việc làm rõ sự thật của vụ án và cơ sở áp dụng pháp luật, làm căn
cứ để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định” 13.
Như vậy theo quan điểm này thì tranh tụng khơng chỉ là tranh luận tại phiên
tòa mà tranh tụng còn cả ở các phần thủ tục khác (xét hỏi, nghị án), tranh luận chỉ là
một phần của tranh tụng. Tranh luận cơng khai tại phiên tịa thể hiện một cách tập
trung và rõ nét nhất q trình tranh tụng.
Về nhóm quan điểm thứ ba, đây là nhóm quan điểm đã được “từ điển hố”,
cho rằng “Tranh tụng” có nghĩa là “Sự kiện cáo nhau giữa hai bên (bên nguyên và
bên bị) có lập trường tương phản u cầu Tồ án phân xử” 14.
Hay “Tranh tụng là các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham
gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc
thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác
lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tịa là những
hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng,
nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía
bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng
tài”15.
Quan điểm của tác giả Nguyễn Thái Phúc trong cuốn Dự thảo Bộ luật TTHS
(sửa đổi) “Tranh tụng là quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh giữa hai chức
năng đối trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi
ích của phía bên kia: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa”16.
Có thể xem đây là những quan điểm đúng nhất, đầy đủ nhất về tranh tụng.

Theo đó q trình tranh tụng khơng chỉ là tranh luận tại phiên tồ, nó được tiến
hành trong suốt q trình giải quyết vụ án. Và tại phiên tồ, thì tranh tụng được đặc
trưng bằng hoạt động tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội (giữa Kiểm sát
viên, bị haị…với bị cáo, Luật sư…), ngồi ra tranh tụng tại phiên tồ khơng chỉ thể
13

Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr 2.
Từ điển Tiếng Việt (1991), Nxb Khoa học Xã hội, tr1288.
15
Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp và Nxb Từ điển Bách Khoa, tr807-808.
16
Nguyễn Thái Phúc (2003), “Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật số (9), tr7.
14


16

hiện ở tranh luận mà tranh tụng đã có từ khi khai mạc phiên toà cho đến khi kết thúc
phiên toà.
Như vậy cần hiểu như thế nào cho đúng về tranh tụng. Theo chúng tôi phải
hiểu về tranh tụng theo ba góc độ sau đây thì mới có thể nhìn nhận đúng nhất về
tranh tụng trong khoa học về tố tụng hình sự, đó là tranh tụng đưới góc độ là quá
trình tranh tụng, là nguyên tắc tranh tụng và mơ hình tranh tụng.
Xét ở một góc độ chung nhất, thì tranh tụng chính là q trình đối trọng
nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội (bào
chữa). Điều này cũng đồng quan điểm với TS.Nguyễn Thái Phúc được nêu ở trên.
Có thể nói chức năng buộc tội làm xuất hiện và kéo theo chức năng bào
chữa, như vậy khi bắt đầu có sự buộc tội (có thể là ngay khi khởi tố bị can) thì bào
chữa cũng bắt đầu và cũng từ đó bắt đầu q trình tranh tụng. Q trình này sẽ kết

thúc khi buộc tội và bào chữa khơng cịn. Các chủ thể tham gia vào quá trình tranh
tụng bao gồm bên buộc tội (Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn
dân sự…) và bên bào chữa (Bị can, bị cáo, Luật sư, bị đơn dân sự…). Riêng với
phần thủ tục tranh luận trong phiên Toà xét xử hình sự, thì Tồ án chỉ với vai trị là
trọng tài, là người điều khiển và kết quả của tranh luận được Toà án xem xét, ghi
nhận khi ra bản án.
Có thể nói dưới góc độ khoa học về pháp luật tố tụng hình sự, “tranh tụng”
có thể xem là một quy luật mang tính khách quan, vì q trình tranh tụng chính là
q trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Do đó tranh tụng cần được ghi nhận
như là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Hiện nay trong Bộ luật tố tụng hình sự
của chúng ta chưa ghi nhận nguyên tắc tranh tụng. Cần nhận thức rõ ràng rằng, việc
ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc không phải là chúng ta đi theo mơ hình tố
tụng tranh tụng. Nghiên cứu tổng thể trong pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam,
cụ thể là trong Bộ luật TTHS có rất nhiều nguyên tắc mang tính chỉ đạo và xun
suốt trong q trình chúng ta áp dụng pháp luật (như Nguyên tắc bảo đảm pháp chế
XHCN; Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà
án…; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án; Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng


17

trước Toà án; Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng…), thì việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng cũng chỉ là một nguyên tắc
mang ý nghĩa nhất định trong pháp luật tố tụng hình sự mà thơi (tranh tụng để làm
rõ sự thật khách quan của vụ án).
Còn đối với “tranh luận”, đây là khái niệm được quy định trong Chương
XXI BLTTHS 2003, cụ thể từ Điều 217 đến Điều 221. Theo đó có thể hiểu tranh
luận là “một thủ tục độc lập của phiên tồ hình sự sơ thẩm, trong đó các bên buộc
tội và bào chữa thơng qua trình bày bằng lời nói của mình tổng hợp và đánh giá kết
quả của phần xét hỏi, phân tích đánh giá các chứng cứ của vụ án, đưa ra những

đánh giá chính trị-xã hội và đánh giá pháp lý đối với hành vi bị truy tố của bị cáo,
đề nghị hình phạt, mức hình phạt cùng những vấn đề liên quan mà Toà án phải giải
quyết khi nghị án” 17. Từ khái niệm trên cho thấy, tranh luận là một thủ tục độc lập
trong phiên tồ sơ thẩm về hình sự, diễn ra giữa bên buộc tội và bên bào chữa để
đánh giá kết quả phần xét hỏi, đánh giá tất cả các chứng cứ buộc tội và gỡ tội trong
vụ án để HĐXX xem xét, cân nhắc khi nghị án và ra phán quyết về việc giải quyết
vụ án.
Từ tất cả những phân tích trên có thể khẳng định rằng “tranh tụng” và “tranh
luận” là hai khái niệm không đồng nhất và giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Tranh tụng là khái niệm rộng hơn tranh luận, tranh luận là một phần của tranh
tụng. Tranh luận chính là sự thể hiện tập trung nhất, đặc trưng nhất của tranh tụng,
nó là kết quả của cả q trình tranh tụng từ đầu cho đến cuối của vụ án. Có thể phân
biệt tranh tụng và tranh luận qua các tiêu chí sau:
Thứ nhất là về phạm vi:
Tranh tụng có từ giai đoạn điều tra (khi khởi tố bị can) cho đến khi kết thúc
vụ án. Còn tranh luận được bắt đầu bằng lời luận tội hoặc phát biểu của KSV về
quan điểm giải quyết vụ án và kết thúc trước khi bị cáo nói lời sau cùng.
17

Nguyễn Thái Phúc (2003), “Vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên và thủ tục tranh luận tại phiên tồ sơ

thẩm”, Tạp chí kiểm sát, (9), tr18.


18

Thứ hai là về chủ thể: Chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng gồm bên
buộc tội (Điều tra viên, Kiểm sát viên, bị hại, nguyên đơn dân sự…) và bên bào
chữa (Bị can, bị cáo, Luật sư, bị đơn dân sự…) và cả HĐXX và những chủ thể khác
(người giám định, người phiên dịch…) tham gia vào quá trình tranh tụng. Cịn chủ

thể tham gia tranh luận thì hẹp hơn, cụ thể bên buộc tội khơng có Điều tra viên;
khơng có chủ thể là HĐXX tham gia tranh luận và bên bào chữa trong tranh luận
chủ thể không còn là bị can mà là bị cáo tham gia tranh luận.
Thứ ba là về nội dung:
Nội dung của tranh tụng bao gồm tất cả các vấn đề khác nhau cần giải quyết
trong tồn bộ q trình giải quyết vụ án, như: điều tra thu thập chứng cứ buộc tội,
chứng cứ gỡ tội; thu thập vật chứng; tham gia bào chữa từ đầu; hoạt động truy tố;
đưa ra chứng cứ mới, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng; thay đổi thành viên
HĐXX, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch, xem xét
giải quyết việc hỗn phiên tịa,...
So với tranh tụng, tranh luận có nội dung hẹp hơn rất nhiều. Tranh luận chỉ
bao gồm các vấn đề mà bên buộc tội và bên bào chữa tranh luận, đối đáp với nhau
như quan điểm, lập luận về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án (về đánh giá
chứng cứ, về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về áp
dụng pháp luật, hình phạt đối với bị cáo, về phần dân sự, về xử lý vật chứng,...) đề
nghị HĐXX chấp nhận hay bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án.
1.3. Ý nghĩa của hoạt động tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
Ý nghĩa chính trị
Trong thời kỳ đất nước ta đang hội nhập và phát triển như hiện nay, bên cạnh
việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội thì cũng kéo theo mặt trái của nó là tội phạm
ngày càng gia tăng cả về số lượng, tính chất và quy mơ, đặc biệt là các tội phạm có
tổ chức, tội phạm có yếu tố nước ngồi, tội phạm cơng nghệ cao và những nhóm tội
phạm hoạt động mang tính chất mafia…Chính vì tội phạm ngày càng gia tăng và
nguy hiểm hơn nên vấn đề đấu tranh phòng chống và xử lý tội phạm rất được Đảng
và Nhà nước ta quan tâm.


19

Nhận thức được vai trò quan trọng của các cơ quan tư pháp nói chung trong

việc xử lý tội phạm, giúp cho sự ổn định và phát triển chung của xã hội, trong
những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến hoạt động điều tra,
truy tố và xét xử các vụ án hình sự, trong đó đặc biệt là hoạt động xét xử tại các
phiên tồ hình sự. Trong các phiên tồ sơ thẩm về hình sự thì thủ tục tranh luận dân
chủ, cơng khai tại phiên tồ là vấn đề mang tính thời sự, nóng bỏng nhất. Qua tranh
luận giúp cho việc xét xử được khách quan, công bằng và đảm bảo quy định của
pháp luật hơn. Tuy nhiên trong thời gian qua việc điều tra, truy tố và đặc biệt là hoạt
động xét xử của chúng ta nói chung và xét xử tại các phiên tồ HSST nói riêng cũng
cịn nhiều bất cập, chưa đảm bảo được tính chính xác, tính khách quan và chưa đem
lại hiệu quả cao trong việc xử lý tội phạm.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác
tư pháp trong thời gian tới” và Nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có ghi rõ "Nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp” nhằm mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả trong cơng tác đấu
tranh phịng chống và xử lý tội phạm. Hoạt động tranh luận tại phiên toà sơ thẩm về
hình sự là nhân tố quan trọng giúp đạt được mục đích nói trên.
Như vậy hoạt động tranh luận tại phiên tồ sơ thẩm về hình sự có ý nghĩa
chính trị rất quan trọng. Qua tranh luận giúp cho kết quả việc điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm được khách quan, công bằng hơn; đảm bảo các quy định của pháp luật,
tránh bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội; đảm bảo tất cả tội phạm tội
phạm đều được xử lý nghiêm minh, từ đó tạo ra sự ổn định về an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội, góp phần phát triển mọi mặt về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội
của đất nước.
Ý nghĩa xã hội


20

Ngoài ý nghĩa to lớn giúp cho sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an tồn

xã hội nói chung thì hiệu quả qua các phiên tồ HSST, mà đặc trưng là hoạt động
tranh luận tại phiên toà còn mang lại nhiều ý nghĩa xã hội to lớn khác.
Thông qua việc tranh luận công khai, dân chủ, giúp cho HĐXX ra một phán
quyết công bằng, bảo vệ các lợi ích hợp pháp và các quyền cơ bản của cơng dân,
như: bảo vệ tính mạng, của cải của cơng dân, bảo vệ sức khoẻ, nhân phẩm và danh
dự của họ, tránh mọi sự xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp nói trên, qua
đó tạo sự bình yên, ổn định trong cuộc sống của nhân dân. Bên cạnh đó việc xử lý
tội phạm có hiệu quả sẽ làm giảm bớt gánh nặng cho xã hội, tránh những thiệt hại to
lớn về kinh tế xã hội nói chung do tội phạm gây ra.
Ý nghĩa pháp lý
Hoạt động tranh luận tại PTHSST có một ý nghĩa và giá trị pháp lý rất quan
trọng. Trước tiên nó đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc trong tố tụng hình
sự của chúng ta. Thông qua tranh luận giúp cho việc giải quyết vụ án được khách
quan hơn, công bằng hơn, đảm bảo các quy định của pháp luật hơn, qua đó bảo vệ
tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân và cũng là
đảm bảo các nguyên tắc trong tố tụng hình sự như Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa (Điều 3 BLTTHS), Ngun tắc khơng ai bị coi là có tội khi chưa có
bản án kết tội của Tồ án có hiệu lực pháp luật (Điều 9 BLTTHS), , Nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16
BLTTHS), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo (Điều 11 BLTTHS), , Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tồ án (Điều
19 BLTTHS) …
Thứ hai hoạt động tranh luận tại phiên tồ sơ thẩm cịn góp phần rất quan
trọng trong việc giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện. Trong thực tiễn
việc giải quyết các vụ án hình sự cho chúng ta thấy do xuất phát từ các lợi ích khác
nhau mà các chủ thể tham gia tranh luận đưa ra những kết quả đánh giá về chứng cứ
rất khác nhau, nhằm bảo vệ cho mục đích của mình. Tồ án phải làm sao thật sự là
người cầm cân mẫu mực, phải thật công minh trong khi phán quyết về các chứng



×