Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.17 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

MAI THỊ LÂM

THẨM QUYỀN XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hành chính – Hiến pháp. Mã số: 60380102

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ luật học với đề tài: “Thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính” là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp. Luận văn có kế thừa các tư
tưởng, kết quả nghiên cứu từ những người đi trước. Các tài liệu, số liệu sử dụng
trong luận văn này là trung thực, có căn cứ và được trích dẫn nguồn rõ ràng, đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Mai Thị Lâm


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân: Chủ tịch UBND
2. Hội đồng nhân dân: HĐND


3. Liên bang Nga: LB Nga
4. Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012: Luật XLVPHC 2012
5. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989: Pháp lệnh XPVPHC 1989
6. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995: Pháp lệnh XLVPHC 1995
7. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002: Pháp lệnh XLVPHC 2002
8. Ủy ban nhân dân: UBND
9. Vi phạm hành chính: VPHC


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài. ................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..........................................................................................1
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ..........................................................................3
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu .........................................................................3
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu .....................................................................4
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài .................................................4
7. Bố cục của luận văn ............................................................................................4
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ....................................................................5
1.1. Các khái niệm cơ bản .....................................................................................5
1.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính ....................................................5
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền .............................................................................10
1.1.3. Khái niệm thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ...............................14
1.2. Đặc điểm của thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ..........................18
1.3. Quy định pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hàn
................................22
1.3.1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các văn bản pháp luật
đến trước Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 ...........................22
1.3.2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các Pháp lệnh xử lý vi

phạm hành chính ..............................................................................................24
...........................................................................28
1.4.1. Chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và phạm vi thẩm
quyền của các chức danh ..................................................................................29
1.4.2. Nguyên tắc phân định và xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính ..................................................................................................................33
1.4.3. Giao quyền xử phạt vi phạm hành chính ................................................39


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THẨM QUYỀN XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN .............................................................41
2.1. Những kết quả đạt đƣợc trong việc thực hiện quy định của pháp luật về
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính .........................................................41
2.2. Bất cập trong quy định pháp luật, thực hiện quy định pháp luật về thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính ...................................................................44
2.2.1. B
và phạm vi thẩm quyền của các chức danh ......................................................44
2.2.2. B

............59

2.2.3. Bất cập về giao quyền xử phạt vi phạm hành chính ...............................68
2.3. Một số giải pháp hồn thiện quy định của pháp luật và bảo đảm thực
hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính .................................................75
2.3.1. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính ...................................................................................75
vi phạm
hành chính .........................................................................................................91
KẾT LUẬN ...................................................................................................................................... 95



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật XLVPHC 2012 có hiệu lực là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động
xử phạt VPHC trong phạm vi cả nước. Vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất của hoạt động xử
phạt là thẩm quyền xử phạt. Vì trước khi tiến hành các giai đoạn tiếp theo của quá
trình xử phạt với các đối tượng vi phạm thì điều cần thực hiện trước tiên là xác định
thẩm quyền xử phạt (cụ thể là xác định chức danh nào trong cơ quan nhà nước nào
được quyền xử phạt đối với một hành vi VPHC cụ thể, phạm vi xử phạt đến giới
hạn nào). Tất cả các giai đoạn của quá trình xử phạt VPHC hướng đến mục đích
cuối cùng là ban hành quyết định xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm và hoạt
động này phải được thực hiện thông qua người có thẩm quyền xử phạt. Một quyết
định xử phạt khơng được ban hành bởi người có thẩm quyền thì quyết định đó sẽ vơ
hiệu, mục đích của xử phạt không đạt được, trật tự quản lý nhà nước trên các lĩnh
vực không được thiết lập lại.
Với sự thay đổi về cơ chế điều chỉnh của thẩm quyền xử phạt trong Luật
XLVPHC 2012 so với các Pháp lệnh XLVPHC trước đó phần nào đem lại hiệu quả
thiết thực cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trên thực tế. Tuy nhiên, nội
dung các điều luật quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chưa thực
sự rõ ràng, đầy đủ, chưa là “phương án tối ưu” để giải quyết hành vi vi phạm hành
chính xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, đồng thời cũng gây khó khăn, lúng túng
cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng trong thực tiễn. Xuất phát từ những nguyên
nhân khác nhau mà thẩm quyền xử phạt còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo pháp chế.
Những vấn đề về mặt pháp lý và thực tiễn trong thẩm quyền xử phạt này gây ảnh
hưởng lớn đến tính hiệu quả của hoạt động xử phạt, từ đó làm giảm hiệu quả quản
lý nhà nước nói chung.
Do đó, tác giả chọn đề tài “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính” nhằm
nghiên cứu và tìm giải pháp xác đáng khắc phục tình trạng hiện hành về thẩm quyền

xử phạt, nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt trên thực tiễn, góp phần nhanh chóng
ổn định trật tự quản lý nhà nước trên các lĩnh vực.
2. Tình hình nghiên cứu
Rà sốt các cơng trình nghiên cứu ở phạm vi trong và ngoài trường Đại học
Luật TP.HCM, tác giả thấy rằng, cho đến thời điểm hiện nay đã có một số cơng
trình nghiên cứu có liên quan đến thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính như sau:


2

Trong giới hạn đề tài, có các đề tài về xử lý vi phạm hành chính trên các lĩnh
vực như: đề tài “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh” – Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Phú, năm
2012; đề tài “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động hành nghê luật sư”
– Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Đăng Vương, năm 2013”; đề tài “Pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao tơng đường bộ” – Luận văn thạc sĩ của
tác giả Ngô Thị Hồng Loan, năm 2014; đề tài “Pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan” – Luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Đức Sinh, năm
2012…Các công trình này có đề cập đến thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
nhưng chỉ nghiên cứu một phần nhỏ về thẩm quyền (cụ thể là chỉ xác định các chức
danh có thẩm quyền xử phạt) trong một lĩnh vực quản lý cụ thể mà không mở rộng
phạm vi nghiên cứu trên tất cả các lĩnh vực và không mở rộng nội dung nghiên cứu
về thẩm quyền (như phạm vi thẩm quyền của các chức danh, vấn đề ủy quyền, trao
quyền xử phạt, xác định và phân định thẩm quyền xử phạt).
Trong giới hạn bài viết tạp chí, có các bài viết về thẩm quyền xử phạt hoặc
liên quan đến thẩm quyền xử phạt như: “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính”
– Th.S Nguyễn Thị Nhàn, tạp chí Khoa học pháp lý tháng 4/2011; “Thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính trong pháp luật hiện hành và một số kiến nghị”- Th.S
Đặng Thanh Sơn, tạp chí dân chủ và pháp luật tháng 5/2007; “Thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính và việc xây dựng Bộ luật xử lý vi phạm hành chính” – Đỗ

Hồng Yến, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 99/2007; “Một số vấn đề đổi mới pháp
luật về vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay” – PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 138 tháng 1/2009; “Góp ý dự thảo luật xử lý vi phạm hành
chính” – Th.S Nguyễn Thị Thiện Trí, tạp chí Khoa học pháp lý tháng 2/2012;
“Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và những bất cập trong quy định pháp
luật hiện hành” – Nguyễn Ngọc Bích – Tạp chí Luật học số 8/2007; “Một số vấn đề
đổi mới pháp luật về vi phạm hành chính ở nước ta” – Nguyễn Cửu Việt – Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 1/2009; “Xử phạt hành chính trong pháp luật cộng hịa
Pháp” – Nguyễn Hồng Anh – Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 1/2013. Các bài viết
này nghiên cứu dựa trên văn bản pháp luật là các pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính (đến thời điểm hiện nay đã hết hiệu lực) hoặc bản dự thảo Luật và cũng chỉ
nghiên cứu một phần nhỏ của thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà khơng
nghiên cứu tổng quát, chuyên sâu.


3

Với đề tài “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính” là một hướng đi mới
mang tính chuyên sâu về thẩm quyền xử phạt. Ở cơng trình này, tác giả không
nghiên cứu riêng biệt về thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực cụ thể mà nghiên cứu
tổng quát các quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nói chung trên
tất cả các lĩnh vực dựa trên văn bản chủ yếu là quy định của Luật XLVPHC 2012
kết hợp đối chiếu với nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trên
các lĩnh vực. Các vấn đề cốt lõi của thẩm quyền sẽ được tác giả “mổ xẻ” nghiên cứu
chuyên sâu như: lý luận về thẩm quyền xử phạt (các khái niệm, đặc điểm, lịch sử
pháp lý), pháp luật về thẩm quyền xử phạt (chức danh có thẩm quyền xử phạt và
phạm vi xử phạt của các chức danh, xác định và phân định thẩm quyền xử phạt,
giao quyền xử phạt vi phạm hành chính), thực trạng về thẩm quyền xử phạt và đưa
ra giải pháp hoàn thiện thẩm quyền. Như vậy, đề tài của tác giả nghiên cứu toàn
diện, tổng quát hơn đồng thời cũng chi tiết, chuyên sâu hơn về thẩm quyền xử phạt

vi phạm hành chính. Do đó, đây là đề tài mang tính mới và tính ứng dụng cao.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Với việc nghiên cứu về “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính”, tác giả
hướng đến mục đích sau đây:
Làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, thực trạng về thẩm quyền xử phạt từ đó
đề ra giải pháp nhằm hồn thiện quy định của pháp luật cũng như hồn thiện cơng
tác thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trên thực tiễn. Từ đó, giúp ổn
định trật tự xã hội và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân bị ảnh hưởng
trực tiếp từ hoạt động xử phạt của người có thẩm quyền.
Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng các
giải pháp nhằm khắc phục bất cập của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính.
Tạo ra nguồn tài liệu tham khảo chuyên sâu cho sinh viên hoặc độc giả có
quan tâm, nghiên cứu về pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, tác giả dự kiến tập trung nghiên cứu, giải quyết 3 mảng vấn
đề lớn về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo nội dung được quy định
trong Luật XLVPHC 2012 bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu giải quyết vấn đề về các chức danh có thẩm quyền xử
phạt và phạm vi xử phạt của các chức danh theo quy định của Luật XLVPHC 2012.


4

Thứ hai, nghiên cứu giải quyết vấn đề về nguyên tắc xác định và phân định
thẩm quyền xử phạt của các chức danh theo quy định Luật XLVPHC 2012.
Thứ ba, nghiên cứu giải quyết vấn đề giao quyền xử phạt vi phạm hành chính
theo quy định của Luật XLVPHC 2012.
Các vấn đề trên sẽ được đối chiếu với Nghị định xử phạt vi phạm hành chính
trên các lĩnh vực do Chính phủ ban hành.

Đồng thời, tác giả cũng nghiên cứu thực trạng triển khai thực hiện thẩm
quyền xử phạt trên thực tế (ở một số lĩnh vực tại một số địa phương làm ví dụ điển
hình). Qua đó đúc rút ra giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Với những nội dung đã triển khai trong đề tài, tác giả sử dụng chủ yếu cách
tiếp cận định tính bằng việc triển khai các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: tổng
hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, mơ tả nhằm làm rõ vấn đề lý luận, thực trạng và
giải pháp của đề tài. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng cách tiếp cận định lượng với
phương pháp thống kê, lập bảng biểu trong phần thực trạng của luận văn nhằm tăng
độ tin cậy khi đánh giá thực trạng của thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, làm
căn cứ đưa ra những giải pháp có tính khả thi.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính” với tư cách là cơng trình
nghiên cứu khoa học mang tính mới và chuyên sâu, là tài liệu tham khảo chuyên
ngành luật hành chính về vấn đề thẩm quyền xử phạt cho các học giả có quan tâm.
Những giải pháp mang tính trước mắt và lâu dài, tính khả thi cao được đề
xuất trong nội dung của luận văn có giá trị ứng dụng trực tiếp cho hoạt động ban
hành văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và hoạt động triển
khai thi hành pháp luật về thực hiện thẩm quyền xử phạt của chủ thể.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
-

Phần mở đầu
Nội dung gồm 2 chương
Kết luận


5


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THẨM
QUYỀN XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1.1 . Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
VPHC
vì nội hàm của khái niệm xử phạt VPHC quy định những nội
dung của thẩm quyền xử phạt VPHC với tính chất là chế định của pháp luật xử phạt
VPHC
Xử phạt vi phạm hành chính được áp
dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý
nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính”1. Pháp lệnh XLVPHC 2002 kế thừa gần như
nguyên vẹn khái niệm xử phạt VPHC
“Xử phạt vi phạm hành chính
được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ
chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính”2. Q

ối vớ
hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính”
VPHC. Phần thơng tin phía sau
khơng phải để làm rõ nghĩa khái niệm xử phạt VPHC mà là cụm từ nhằm giải thích
đối tượng bị xử phạt
, tổ chức nói chung trong
xã hội hay nhữ
ác

.
Trước đó, Pháp lệnh XPVPHC 1989 không quy định xử phạt VPHC áp dụng
đối với ai hay định nghĩa xử phạt VPHC là gì vì khơng cần thiết. Bởi Pháp lệnh này
chỉ quy định về xử phạt VPHC (như chính tên của Pháp lệnh) mà không quy định
về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác (lúc bấy giờ là 5 biện pháp) nên
không cần phải phân biệt hai loại biện pháp (như các Pháp lệnh sau này). Logic hơn
so với Pháp lệnh 1995 và Pháp lệnh 2002, đó là: Pháp lệnh 1989 có một điều riêng
nêu định nghĩa VPHC là gì, và đây là cách nhận thức rất đúng của nhà làm luật, là
điểm nổi bật của Pháp lệnh này.
1
2

Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995.
Khoản 2 điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.


6

Luật XLVPHC 2012 là văn bản pháp luật đầu tiên nêu định nghĩa VPHC là gì
và cũng giải thích lại khái niệm xử phạt VPHC là gì. Việc nêu hai định nghĩa riêng
biệt như vậy là hoàn toàn hợp lý, có tính khoa học, khắc phục nhầm lẫn trong nhận
thức về hai khái niệm này vốn đã tồn tại trong Pháp lệnh 1995 và Pháp lệnh 2002
như đã nói ở trên.
Luật XLVPHC 2012 định nghĩa: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người
có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối
với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính”3.
xử phạt VPHC. Nói
rằng đúng bản chất vì định nghĩa này cho thấy yếu tố quan trọng nhất, không thể
thiếu trong nội hàm của khái niệm này là việc áp dụng các chế tài hành chính đối

với chủ thể VPHC (gồm hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả) mà
không bao gồm việc áp dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế khác (chẳng hạn
như biện pháp phòng ngừa hay ngăn chặn vi phạm). Các chế tài này thể hiện sự
đánh giá cuối cùng của nhà nước đối với hành vi và chủ thể VPHC, là “hậu quả kết
cục” của vi phạm và là sự giải quyết thực chất vụ việc vi phạm4. Khơng có nội dung
này thì khơng thể có khái niệm xử phạt VPHC.
Tuy nhiên, khái niệm xử phạt VPHC sẽ bao quát một cách toàn diện hơn nếu
xem xét như là một hoạt động gồm nhiều hành vi pháp lý khác nhau vì khái niệm
này vẫn chưa nêu đầy đủ các nội dung đủ để đưa ra khái niệm chuẩn về thẩm quyền
xử phạt VPHC, cụ thể vẫn còn một số bất cập sau:
Thứ nhất,
ểu mộ
theo nghĩa rộng
việc ra quyết định xử
phạt chỉ là khâu cuối cùng nằm trong chuỗi các hoạt động về xử phạt VPHC. Tuy
nhiên để ban hành đượ

Các nghị định của Chính
phủ quy định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực cũng sử dụng thuật ngữ xử phạt
VPHC ngay trong tên gọi của nghị định nhưng nội dung khơng chỉ quy định về việc
áp dụng hình thức, mức xử phạt và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả mà
về
vi phạm cụ thể, hình thức, mức xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi, sau đó mới là thẩm quyền và thủ
3
4

Khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính: Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, tr.21.



7

tục xử phạt. Ngay trong Luật 2012 (và các pháp lệnh trước đây) khi quy định thủ
tục xử phạt VPHC (mục 1 Chương III) thì cũng hiểu đó là các thủ tục gồm lập biên
bản, lập hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ, v.v... chứ không chỉ là áp dụng hình
thức và mức xử phạt.
Thứ hai, việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả có thể nằm trong khái
niệm xử phạt VPHC (nếu thuộc trường hợp ban hành quyết định xử phạt VPHC)
nhưng cũng có thể nằm ngồi khái niệm xử phạt VPHC (khi khơng ban hành quyết
định xử phạt mà chỉ ban hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả). Vì
khi rơi vào
XLVPHC
.
“khơng xác định được đối tượng VPHC; hết thời hiệu xử phạt VPHC
quy định tại Điều 6 hoặc hết thời hạn ra quyết định xử phạt quy định tại Khoản 3
Điều 63 hoặc Khoản 1 Điều 66 của Luật này; cá nhân vi phạm hành chính chết,
mất tích, tổ chức vi phạm hành chính đã giải thể, phá sản trong thời gian xem xét ra
quyết định xử phạt; chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm theo quy định tại
Điều 62 của Luật này”. Trong c
,
ết đị

.

còn nếu chỉ áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả thuộc các trường hợp quy định tại Điều 65 thì khơng gọi là xử
phạt VPHC5.
Thứ ba,
,

thu bao nhiêu. Vì

xử phạ
hơn trong đó có thêm yếu tố về mức xử phạt.
Thứ tƣ, khái niệm xử phạt VPHC được Luật giải thích là hoạt động áp dụng
đối với “cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính”. Quy định như vậy
5

Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Luật xử lý vi phạm hành chính, NXB Đại học
Quốc gia TP.HCM, tr.58.


8

là khơng chính xác vì khơng phải thực hiện hành vi VPHC thì được xem là VPHC
và sẽ bị xử phạt VPHC. Nếu hành vi vi phạm đó được thực hiện bởi chủ thể khơng
có năng lực hành vi, mất năng lực hành vi hay chủ thể thực hiện hành vi khơng có
lỗi; thực hiện trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, phịng vệ chính đáng thì cũng
khơng đủ yếu tố để cấu thành VPHC. Do đó cũng khơng phát sinh hoạt động xử
phạt VPHC. Vì vậy, nên thay cụm từ “cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm
hành chính” bằng cụm từ “cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính” sẽ chính xác hơn,
xác định được đầy đủ yêu cầu về chủ thể của VPHC, nghĩa là có sự phân biệt giữa
người thực hiện hành vi VPHC với chủ thể VPHC tức chủ thể có năng lực trách
nhiệm hành chính.
ệnh
ệnh
nhóm các biện pháp xử lý hành chính (gồm 4 biện pháp: Giáo
dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng; Đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc; Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc)6 vẫn đang được quy định chung trong
Luật XLVPHC 2012 mà chưa được tách ra quy định bằng văn bản riêng. Đồng thời

cịn
cả nhóm các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt VPHC thì việc
định khái niệm xử phạt VPHC là cần thiết, giúp phân biệt
Điều này
đối với cả chủ thể hướng dẫn thi hành luật lẫn chủ
thể có thẩm
xử lý các vi phạm phát sinh trên thực
Khi hiểu được xử phạt
VPHC
đối tượng
thì việc ban hành các Nghị định của Chính phủ về xử phạt
VPHC trên các lĩnh vực mới rõ ràng, chính xác, khơng nhập nhằng với biện pháp
xử lý hành chính. Muốn hướng dẫn về
xử lý hành chính thì Chính
phủ phải ban hành một văn bản riêng để quy định. Chủ thể áp dụng pháp luật cũng
sẽ không nhầm lẫn trong việc xác định phạm vi thẩm quyền, nguyên tắc giải quyết
và biện pháp cưỡng chế nào được áp dụng khi có hành vi vi phạm trên thực tế nếu
hiểu rõ được nội hàm khái niệm xử phạt VPHC.
Tuy nhiên, ý nghĩa
của định nghĩa về “xử phạt vi phạm hành chính”
K
để phân biệt với khái niệm “áp dụng biện
pháp xử lý hành chính”. Nếu không quy định về
xử lý
chung trong Luật này mà chỉ quy định về xử phạt VPHC (như Pháp lệnh XPVPHC
1989) thì tên của Luật sẽ chỉ cần ghi là Luật
tồn bộ
các quy định của Luật sẽ đều
về xử phạt VPHC. Lúc này, phạm vi điều chỉnh
sẽ

ghi: luật này quy định về
VPHC
. Trong
6

Điều 89 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.


9

trường hợp này sẽ không cần
thuật ngữ xử phạt VPHC. Điều đáng lưu ý
là, trong khi Khoản 2 Điều 2 định nghĩa xử phạt VPHC là gì (với tính chất là một
động) thì Khoản 3 Điều 2 lại định nghĩa biện pháp xử lý hành chính là gì (với
tính chất là danh từ) mà không định nghĩa áp dụng biện pháp xử lý hành chính là gì.
Tức là sử dụng các thuật ngữ khơng đồng loại. Nếu như vậy thì tại Điều 1 - phạm vi
điều chỉnh của Luật, phải ghi là: “Luật này quy định về xử phạt VPHC và áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính” thì mới logic. Rút ra kết luận rằng: Khoản 2 Điều 2
của Luật chỉ nên quy định theo cách
đối tượng bị xử phạt VPHC với
đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
các
khác

nhiê
tuy

K
nội dung
nhưng


nhất

.
Từ những phân tích trên, theo tác giả, trong bối cảnh hiện nay khi nhóm các
biện pháp xử lý hành chính tiếp tục được quy định chung trong Luật thì vẫn
phải
xử phạt VPHC với việc áp dụng
nh. Tuy
nhiên, phân biệt việc xử phạt VPHC và việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính (là
hai hoạt động) hay phân biệt khái niệm biện pháp xử phạt VPHC với biện pháp xử
lý hành chính (là hai loại biện pháp) thì đúng? Có lẽ sẽ c
khi phân biệt
là hai loại biện pháp thì đúng hơn. Do đó, cần xác định “biện pháp xử
VPHC



ử phạt tội phạ

26 (khái niệm
hình phạt)
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội”.
3.1 Bộ
cũng


10


”7

của
ừ đó, giải quyết tiế

, bi
Với những phân tích ở phần trên, khái niệm xử phạt VPHC cần được định
nghĩa lại hợp lý hơn như sau:
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động được tiến hành bởi người có thẩm
quyền xử phạt nhằm áp dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt và biện pháp khắc
phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền
“Thẩm quyền” là một khái niệm
Có thể nói, khơng có thuật
ngữ nào được sử dụng phổ biến trong pháp luật như thuật ngữ “thẩm quyền”8.
Không chỉ trong văn bản pháp luật hành chính mà trong văn bản pháp luật của
nhiều ngành luật khác cũng sử dụng khái niệm thẩm quyền. Cụ thể như: Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 sử dụng rất nhiều thuật ngữ thẩm quyền
“người có thẩm quyền trình dự án, dự thảo”, “người có thẩm quyền ban hành văn
bản”, “người có thẩm quyền được đề nghị tham gia góp ý kiến” (Điều 7); Luật Tổ
chức Chính quyền địa phương 2015 sử dụng: “phân định thẩm quyền” (Điều 11);
“Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của
địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp
cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách
liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của
mình...” (Điều 13); Luật Tổ chức Chính phủ 2015: “Quyết định chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách và các chương trình, dự án khác theo thẩm quyền”
(Điều 7), “Xây dựng chính sách chăm sóc sức khỏe của Nhân dân trình Quốc hội

7

“Административное наказание является установленной государством мерой ответственности за
совершение административного правонарушения и применяется в целях предупреждения совершения
новых правонарушений как самим правонарушителем, так и другими лицами.
8
Nguyễn Cửu Việt (2005), Cải cách hành chính: Về khái niệm thẩm quyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp
8/2005.


11

quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền…” (Điều 14); thẩm quyền giải quyết
khiếu nại (trong các văn bản pháp luật về khiếu nại). Thuật ngữ thẩm quyền cũng
được sử dụng trong rất nhiều văn bản quy định về hoạt động tư pháp như thẩm
quyền xét xử, thẩm quyền điều tra … trong pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân
sự, tố tụng hành chính… Tuy nhiên, rà sốt các văn bản pháp luật thì vẫn khơng có
một văn bản nào đưa ra khái niệm về thẩm quyền. Tương tự như vậy, trong văn bản
Luật XLVPHC và các Nghị định của Chính phủ về xử phạt VPHC trên các lĩnh vực
cũng thường xuyên sử dụng thuật ngữ thẩm quyền như “thẩm quyền xử phạt”,
“thẩm quyền xử lý”, “thẩm quyền giải quyết”, “thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước”, “thẩm quyền ban hành quyết định”… nhưng cũng giống như các văn bản
khác: không đưa ra khái niệm riêng về thẩm quyền.
"Thẩm quyền" là một từ gốc Hán Việt. Từ điển Từ và Ngữ của GS Nguyễn
Lân giải thích “thẩm quyền là quyền chính thức được quyết định về một vấn đề”9.
Theo Từ điển luật học thì thẩm quyền là: “Quyền chính thức được xem xét để
kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề. Thẩm quyền gắn liền với quyền và
nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ.
Thẩm quyền của mỗi cơ quan và cá nhân được phân định theo lĩnh vực, khu vực

hành chính, cấp hành chính”10.
Như vậy, nhìn chung nội dung giải thích trong các tài liệu nói trên cơ bản đều
khẳng định thẩm quyền là quyền xem xét, quyết định, gắn với quyền hạn, nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức.
Trong tiếng Anh “thẩm quyền” là “competence”, tiếng Pháp là “compétence”
đều có nguồn gốc từ tiếng Latin là "competentia" với hai nghĩa là: 1) Phạm vi các
quyền hạn của cơ quan hoặc người có chức vụ nào đó; 2) Phạm vi những kiến thức
và kinh nghiệm mà ai đó có11.
Khi nói đến thẩm quyền của cơ quan hành pháp, giáo trình Luật Hành chính
Liên bang Nga của Khoa Luật Đại học quốc gia mang tên M.Lô-mô-nô-xốp quan
niệm: “thẩm quyền (khác với năng lực pháp luật) là một hệ thống các quyền hạn
của cơ quan hành pháp, gồm các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho phép nó thực hiện
được các nhiệm vụ và chức năng trong lĩnh vực quyền hành pháp. Nội dung của
thẩm quyền là các quyền hạn tạo điều kiện để cơ quan hành pháp ban hành các văn
9

Nguyễn Lân (2006), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, NXB Tổ hợp TP Hồ Chí Minh, tr.1702.
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB từ điển bách khoa, NXB Tư pháp,
Tr.701.
11
Nguyễn Cửu Việt (2005), Cải cách hành chính: Về khái niệm thẩm quyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp
8/2005.
10


12

bản pháp luật (pravovưe actư) hoặc các hành động pháp lý (iuriđicheskie đêistvia)
khác, kể cả việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế”12.




” như GS.

”13

ẩm

quyền được hiểu là một hiện tượ

ức tạp, là một hệ thống (chứ không phải là một tập hợp giản đơn)
các yếu tố cấu thành bao gồm hai nhóm lớn sau đây: một là, các quyền và nghĩa vụ
để thực hiện các chức năng nhất định mà cơ quan nhà nước được trao để giải quyết
những vấn đề
ản lý những đối tượng/khách thể nhất định trong những
lĩnh vực nhất định của đời sống nhằm đạt những nhiệm vụ nhất định (cịn gọi là
nhóm quyền và nghĩa vụ chung); hai là các quyền hạn cụ thể để thực hiện những
quyền và nghĩa vụ chung nói trên14.
PGS.TS Nguyễn Cửu Việt quan niệm, cấu thành của thẩm quyền gồm hai yếu
tố: những quyền và nghĩa vụ chung và các quyền hạn cụ thể để thực hiện quyền và
nghĩa vụ chung15. Với các chủ thể quản lý ở cơ quan nhà nước khác nhau thì sẽ có
những thẩm quyền khác nhau và do đó cũng sẽ có những quyền, nghĩa vụ chung và
các quyền hạn cụ thể khác nhau. Trong cùng một chủ thể quản lý, ở các lĩnh vực
khác nhau cũng sẽ có phạm vi thẩm quyền khác nhau. Các yếu tố của thẩm quyền
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau tạo
thành khối thống nhất là thẩm quyền của một cơ quan nhà nước hoặc một chức
danh cụ thể trong cơ quan nhà nước.

12


A.P. Aliôkhin và A.A. Karmôliski (2012), Giáo trình Luật Hành chính Liên bang Nga, NXB. Zersalo,
tr.117.
13
163/8-2009,
tr.10.
14
Dẫn theo Nguyễn Cửu Việt (2005), “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp tháng 8/2005.
15
Nguyễn Cửu Việt (2005), “Các yếu tố cấu thành và tính hệ thống của thẩm quyền”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp tháng 9/2005.


13

ít

q


TAND.
Có thể lấy ví dụ về thẩm quyền tăng thêm của UBND TP Hồ Chí Minh khi
căn cứ vào Nghị định số 93/2001/NĐ-CP về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho
thành phố Hồ Chí Minh trong đó về tổ chức bộ máy và quản lý cán bộ, công chức,
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố được Chính phủ ủy quyền quyết
định số lượng cụ thể cơ quan chun mơn thuộc UBND Thành phố16. Như vậy,
ngồi nhiệm vụ, quyền hạn chung của HĐND và UBND cấp tỉnh thì HĐND và
UBND TP Hồ Chí Minh có thêm thẩm quyền này mà các tỉnh khác khơng có. Ở đây
là phân cấp về thẩm quyền chứ không phải phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn.
Các quan điểm trên về thẩm quyền có hai điểm chung: 1/ Thẩm quyền gắn với

yếu tố quyề
(đây là yếu tố không thể thiếu, là cốt lõi của thẩm
quyền)
ẩm quyền gắn liền với chủ thể quả

cùng với đó là

gồm các quyền, nghĩa vụ chung và


16

Điểm a, Khoản 1 Điều 20 Nghị định đã dẫn.

hạn cụ thể


14

cơ quan
1.1.3. Khái niệm thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
VPHC

VPHC
trong những vấn đề
và có
vi phạm cụ thể? Phạm vi thẩm quyền xử phạt

nghĩa vụ
đế


đúng
v.v…
Vậy thì, nên hiểu khái niệm thẩm quyền xử phạt VPHC theo nghĩa rộng (bao
gồm cả nhiệm vụ, quyền hạn chung và quyền cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn chung) hay theo nghĩa hẹp của khái niệm thẩm quyền (chỉ gồm các quyền cụ
thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung) như cách hiểu về thẩm quyền ở phần
trên?
Ở đây cần hiểu thẩm quyền xử phạt VPHC theo nghĩa thứ hai (nghĩa hẹp) vì
Luật XLVPHC và các nghị định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực chỉ quy định
quyền cụ thể của từng chức danh trong xử phạt VPHC mà không quy định nhiệm
vụ, quyền hạn chung nào khác. V

“thực
tiễn cho thấy vẫn có nhiều trường hợp xử phạt khơng đúng thẩm quyền và phần lớn
là vì hiểu khơng đúng quy định về thẩm quyền xử phạt, ảnh hưởng và có nguy cơ
xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức”17.

17

Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật xử lý vi phạm hành chính, NXB Đại học Quốc gia
TP.HCM, 2015, tr.238.


15

t
XL
ật XLVPHC 2012 và
các nghị định hướng dẫn thi hành đều khơng có điều khoản nào giải thích về khái

niệm “thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính” mặc dù nhiều điều khoả
ử dụng khái niệm này18.
Tuy nhiên khi hiểu thẩm quyền xử phạt theo nghĩa hẹp thì cũng cần tiếp cận ở
hai góc độ:
:
K
xử phạt vi phạm hành chính là việc người
có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối
với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính
VPHC
có thể hiểu
phạm vi các q
khi
(ví dụ như quyền lập biên bản vi phạm, quyền và nghĩa vụ xác minh thu thập tài liệu
chứng cứ, quyền tiến hành giải trình, quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm cho việc xử lý vi phạm hành chính, ...) cũng như những vấn đề khác như
nguyên tắc xác định, phân định thẩm quyền xử phạt…

18

Ví dụ: Điều 52 Luật XLVPHC 2012 “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của những người được quy
định tại các điều từ 38 đến 51 của Luật này…”; Điều 53 “Trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính quy định tại Luật này…”; Điều 54 “Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy
định tại Điều 38; các khoản …”.


16

Cũng cần lưu ý là

theo
thẩm quyền xử phạt, mức phạt
tiền cụ thể theo từng chức danh...”. Theo diễn đạt ở đây thì nhà làm luật đã khơng
đúng khi để “mức phạt” bên cạnh “thẩm quyền xử phạt”, không coi mức phạt là yếu
tố của thẩm quyền xử phạt là không đúng.
phải đượ
đề cậ
C

c
tức là trước hết phải xác định vi phạm đó thuộc
ngành, lĩnh vực nào và do loại cơ quan nào xử phạt,
sau đó mới là thẩm quyền
áp dụng hình thức và mức xử phạt cụ thể của các chức danh.
sau:
của các cơ quan và chức danh quản lý
theo lĩnh vực
thì


thẩm quyền xử phạt,

mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh...”
Hội
đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương quyết định khung tiền phạt hoặc
mức tiền phạt cụ thể đối với hành vi vi phạm trong các lĩnh vực quy định tại đoạn 2
khoản 1 Điều này”.


17


ẩm quyề

xử phạt, mức xử
phạt

khi
VPHC

C
ẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả”. N
,
hai
n
K

C
, liệu có
hay khơng
, và do đó tên
chương 2 chỉ cần ghi thẩm quyền xử phạt VPHC (cho đúng với giải thích thuật ngữ
xử phạt VPHC tại khoản 2 Điều 2 của Luật)?
tác giả
VPHC
.
ẩm quyền xử phạt vi phạ
ổng thể

h



18

19
những chức danh
ện pháp khắc phục hậ
ối với cá nhân, tổ chức
vi phạm hành chính trong các lĩnh vực cụ thể của quản lý nhà nước và các
nhằm bảo đảm
các nguyên tắc xử phạt VPHC.

n và nghĩa vụ

các vấn đề
sau:
1) Thẩm quyền xử phạt về các loại hành vi VPHC. Có nghĩa là: vi phạm nào
và trong lĩnh vực nào thì do ai xử phạt. Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên của thẩm
quyền xử phạt. Vấn đề giao quyền xử phạt với mục đích cuối cùng cũng nhằm xác
định ai có thẩm quyền xử phạt.
2) Phạm vi q
được áp dụng về

đây là thẩm quyền xử phạt theo nghĩa hẹp, gắn với khái
niệm xử phạt VPHC nói trong Luật XLVPHC 2012.
3) Các n
vi phạm. Các
nguyên tắc này là căn cứ để xác định và phân định ai là người có thẩm quyền xử
phạt đối với hành vi VPHC cụ thể.
căn cứ


Với cách diễn giải về thẩm quyền như trên, l

XLVPHC
1.2. Đặc điểm của thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Thứ nhất, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chỉ thuộc về những
ngƣời chức danh cụ thể trong
cơ q
.
Luật XLVPHC 2012 đã dành riêng Chương II Phần thứ 2 để quy định về các
chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC. Theo đó, từ Điều 38 đến Điều 51 Luật
XLVPHC 2012 liệt kê các chức danh có thẩm quyền xử phạt là cán bộ, công chức
19

T
2012.


19

làm việc trong cơ quan nhà nước mà không quy định cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xử phạt. Hơn nữa, việc liệt kê các chức danh này là một “danh sách đóng”.
Khơng có điều khoản nào của Luật cho phép chủ thể nào khác (như Chính phủ, Hội
đồng nhân dân…) được quyền ban hành văn bản pháp luật để quy định thêm các
chủ thể có thẩm quyền xử phạt khác. Ngay cả trong trường hợp các chức danh có sự
thay đổi về tên gọi thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc về cá nhân cụ thể mà không
thuộc về cơ quan hay tập thể người.
Khác với việc xử lý hành vi VPHC, hành vi vi phạm pháp luật trong hình sự
và dân sự được trao cho Hội đồng xét xử là một tập thể người (3 người hoặc 5
người). Có sự khác biệt này vì xuất phát từ đặc trưng của VPHC. So với vi phạm

hình sự (tội phạm) và dân sự thì VPHC có số lượng lớn hơn gấp nhiều lần (vi phạm
dân sự cũng diễn ra nhiều nhưng thường các chủ thể tự thỏa thuận giải quyết với
nhau mà ít viện đến cơ quan nhà nước để giải quyết). Hơn nữa, VPHC cũng có tính
chất, mức độ nguy hiểm không cao so với các vi phạm pháp luật khác. Các quan hệ
hành chính cũng diễn ra thường xun và có số lượng lớn địi hỏi chủ thể quản lý
phải giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhằm tránh tồn đọng cơng việc. Trong khi đó,
nếu giao cho cơ quan, tổ chức xử phạt thì quy trình xử phạt sẽ tốn kém nhiều thời
gian hơn mà lại không đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động xử phạt. Với các lý do
đó nên thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được giao cho cá nhân thực hiện mà
không quy định cho cơ quan hay tổ chức.
Thứ hai, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đa phần thuộc về các
chức danh trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc.
Từ Điều 38 đến Điều 51 Luật XLVPHC 2012 quy định các chức danh có
thẩm quyền xử phạt làm việc ở nhiều cơ quan nhà nước khác nhau như: Ủy ban
nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp, Cục quản lý lao động ngoài nước, Thi
hành án dân sự, Công an nhân dân, Kiểm lâm, Hải quan, Quản lý thị trường… Tuy
nhiên, phần lớn các chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC đều làm việc trong hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong tổng
số 185 chức danh có thẩm quyền xử phạt đã có 176 chức danh làm việc trong cơ
quan hành chính nhà nước20, (tức chiếm khoảng 95% số lượng các chức danh có
thẩm quyền xử phạt), chỉ có 9 chức danh thuộc Tịa án khơng nằm trong cơ quan
hành chính (chiếm khoảng 5 % các chức danh có thẩm quyền xử phạt). Trong khi
đó, thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật hình sự, dân sự lại chỉ thuộc về cơ quan
tư pháp, cơ quan hành chính nhà nước khơng tham gia vào (nếu có thì chỉ là hỗ trợ
cho cơ quan tư pháp ban hành quyết định).
20

Thống kê do tác giả thực hiện căn cứ vào Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.



20

các chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC phụ thuộc quan
điểm của nhà lập hiến, lịch sử văn hóa pháp lý. Bởi VPHC
cơ quan hành chính nhà nước
ậy, cơ quan
hành chính phải là cơ quan phát hiệ
nhiều nhất. Các chức danh làm việc
trong cơ quan nhà nước khác cũng có thẩm quyền xử phạt VPHC vì các lý do sau:
Một là, VPHC

tuy hệ thống các cơ quan hành chính là rất lớn nhưng các quan hệ hành chính
rất đa dạng, phát sinh, thay đổi hàng ngày, hàng giờ ở khắp mọi nơi và trên khắp
các lĩnh vực, cơ quan hành chính và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
khơng thể nào giải quyết được tất cả nên phải giao cho cơ quan nhà nước khác và
trao quyền cho cả các tổ chức, cá nhân khác nhằm giúp phát hiện và xử lý kịp thời
các VPHC phát sinh ở mọi lúc mọ
ử phạt
đối với những vi phạm xảy ra tại phiên xét xử của tòa).
Hai là, xuất phát từ nguyên tắc trong tổ chức quyền lực của nhà nước ta đó là:
quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ
quan lập pháp, hành pháp, tư pháp do đó các cơ quan nhà nước khác cùng với cơ
quan hành chính nhà nước tham gia vào hoạt động xử phạt VPHC là sự thể hiện của
yếu tố “phối hợp” quyền lực.
Thứ ba, thẩm quyền xử phạt VPHC mang tính linh hoạt.
So với thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử các vi phạm hình sự, dân sự thì
thẩm quyền xử phạt VPHC biến động nhiều hơn. Điều này được thể hiện qua sự
biến động tăng lên gấp nhiều lần số lượng chủ thể được quyền xử phạt trong văn
bản pháp luật quy định về xử lý VPHC (Nghị định 143/CP về Điều lệ phạt vi cảnh
năm 1977; Pháp lệnh XPVPHC 1989; Pháp lệnh XLVPHC 1995; Pháp lệnh

XLVPHC 2002 - sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008; Luật XLVPHC 2012). Không
chỉ tăng lên về số lượng các chức danh có thẩm quyền xử phạt mà tên gọi của các
chức danh cũng bị thay đổi do sự thay đổi, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của cơ quan
hành chính nhà nước (Ví dụ: thay đổi chức danh nhân viên thuế vụ, nhân viên hải
quan, Trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện, Trưởng cơ quan Thi hành án
dân sự cấp tỉnh - Pháp lệnh XLVPHC 2002 thành công chức thuế, công chức hải
quan; Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự; Cục trưởng Cục Thi hành án dân
sự – Luật XLVPHC 2012…).


×