Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Cấp dưỡng theo pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam thực trạng và giải pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.71 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

CẤP DƢỠNG THEO PHÁP LUẬT HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ

GVHD: TH.S LÊ THỊ MẬN
SVTH: DƢƠNG THỊ HƢƠNG LY
MSSV: 0955020082
NIÊN KHÓA: 2009 – 2013
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013


LỜI CẢM ƠN

Khóa luận tốt nghiệp được hồn thành ngồi sự nỗ lực của bản thân, tác giả còn
được sự giúp đỡ, động viên của gia đình, thầy cơ, bạn bè. Tác giả xin gửi lời cảm ơn
chân thành nhất đến:
 Các thầy cô trong trường Đại học Luật TP.HCM đã truyền đạt kiến thức, đặc
biệt là cô Lê Thị Mận đã tận tình trực tiếp hướng dẫn em trong suốt q trình
thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
 Các anh, chị là chấp hành viên, thư ký Tòa án đang công tác tại Chi cục Thi
hành án dân sự TP.Pleiku, Tịa án nhân dân TP.Pleiku, Tịa án nhân dân quận
Bình Thạnh, Tòa án nhân dân huyện Bến Cát; thư viện trường Đại học Luật
TP.HCM trong quá trình tìm kiếm tài liệu.


 Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã ln bên cạnh động
viên, hỗ trợ tác giả hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLDSTM

Bộ luật dân sự và thương mại

LHNGĐ

Luật hơn nhân và gia đình

Nghị định

Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết

70/2001/NĐ-CP

thi hành Luật hơn nhân gia đình 2000

TAND

Tịa án nhân dân



MỤC LỤC

Lời mở đầu ............................................................................................................... 01
Chƣơng 1. Lý luận chung về chế định cấp dƣỡng
1.1 . Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ cấp dƣỡng ............................................. 04
1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng ...................................................................................... 04
1.1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng .................................................................. 06
1.2. Ý nghĩa của chế định cấp dƣỡng .................................................................... 08
1.3. Lịch sử phát triển của chế định cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam .... 09
1.3.1. Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945 .......................................................................................................... 09
1.3.2. Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm
1945 đến nay ............................................................................................................. 10
1.4. Pháp luật về cấp dƣỡng của một số nƣớc trên thế giới ................................ 12
Chƣơng 2. Pháp luật HNGĐ Việt Nam hiện hành về cấp dƣỡng
2.1. Những quy định chung về cấp dƣỡng ........................................................... 16
2.1.1. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng ........................................................ 16
2.1.2. Mức và phương thức cấp dưỡng ..................................................................... 19
2.1.3. Chủ thể của quan hệ cấp dưỡng ...................................................................... 21
2.1.3.1. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ và chủ thể được cấp dưỡng .............................. 21
2.1.3.2. Chủ thể có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ........................... 23
2.1.4. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng ....................................................................... 24
2.1.5. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ........................................ 25
2.2. Các trƣờng hợp cấp dƣỡng ............................................................................. 28
2.2.1. Cấp dưỡng giữa cha, mẹ, con.......................................................................... 28
2.2.2. Cấp dưỡng giữa anh, chị, em .......................................................................... 30
2.2.3. Cấp dưỡng giữa ông, bà, cháu ........................................................................ 31
2.2.4. Cấp dưỡng giữa vợ chồng ............................................................................... 32
Chƣơng 3. Thực trạng áp dụng pháp luật về cấp dƣỡng và giải pháp đảm bảo

thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng.


3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về cấp dƣỡng ................................................ 34
3.1.1. Thực trạng xác định mức và phương thức cấp dưỡng .................................... 35
3.1.2. Thực trạng xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng ....................... 38
3.1.3. Thực trạng về tạm ngừng cấp dưỡng .............................................................. 39
3.1.4. Thực trạng về quy định cấp dưỡng bổ sung.................................................... 40
3.1.5. Thực trạng trong hoạt động thi hành án dân sự về cấp dưỡng........................ 41
3.1.6. Thực trạng khác .............................................................................................. 44
3.2. Nguyên nhân của bất cập, vƣớng mắc ........................................................... 45
3.2.1. Nguyên nhân khách quan ................................................................................ 45
3.2.2. Nguyên nhân chủ quan.................................................................................... 46
3.3 Một số giải pháp đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng .................... 47
3.3.1. Giải pháp pháp lý ............................................................................................ 47
3.3.2. Giải pháp đảm bảo thi hành án dân sự về cấp dưỡng ..................................... 50
3.3.3. Giải pháp khác ................................................................................................ 52
Kết luận .................................................................................................................... 53
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, nền kinh tế thị trường phát triển đem lại rất nhiều lợi ích cho con
người, cho xã hội, nhưng mặt trái của nó cũng ảnh hưởng theo hướng tiêu cực đến các
quan hệ trong xã hội nói chung, đến quan hệ hơn nhân gia đình nói riêng. Nền kinh tế
thị trường phát triển nhanh, cạnh tranh gay gắt, con người phải toan tính, nỗ lực hết
sức để đảm bảo cuộc sống. Nhiều người trở nên thực dụng, ích kỷ; các thành viên
trong gia đình khơng có nhiều thời gian để chia sẻ cùng nhau, quan tâm, chăm sóc

nhau. Mà gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng con người, là mơi trường
quan trọng để hình thành và giáo dục nhân cách con người. Gia đình tốt thì xã hội mới
tốt. Ở Việt Nam hiện nay, tình trạng ly hôn xảy ra ngày càng nhiều. Khi quan hệ hơn
nhân chấm dứt thì theo ngun tắc quan hệ nhân thân giữa vợ chồng cũng chấm dứt
theo nhưng quan hệ tài sản trong đó có quan hệ cấp dưỡng giữa vợ chồng không hẳn
đã chấm dứt. Khi một bên vợ hoặc chồng gặp khó khăn, túng thiếu mà có lý do chính
đáng thì có quyền u cầu chồng cũ hoặc vợ cũ cấp dưỡng theo khả năng của họ. Và
khi vợ chồng ly hôn những đứa con là người phải gánh chịu thiệt thịi nhiều nhất, vì
hoản cảnh, vì mâu thuẫn giữa cha mẹ mà con cái của họ không thể cùng lúc nhận
được sự ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục của cả cha lẫn mẹ. Để bù đắp phần nào thiếu
sót đó, pháp luật hơn nhân gia đình Việt Nam quy định bên nào không trực tiếp nuôi
con sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Ngồi ra, pháp luật còn quy định các trường
hợp cấp dưỡng giữa các thành viên khác trong gia đình như cấp dưỡng giữa ông bà
cháu, giữa anh chị em với nhau khi nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ con không thực
hiện được. Cơ chế này đã góp phần bảo đảm quyền lợi cho những người được cấp
dưỡng. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
vì các quy định của pháp luật hơn nhân gia đình hiện hành cịn bỏ ngõ hoặc quy định
chưa đầy đủ, chưa rõ ràng. Điều đó ảnh hưởng đến quyền lợi của người được cấp
dưỡng cũng như của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì vậy, việc đảm bảo quyền và lợi
ích của các bên trong quan hệ cấp dưỡng rất quan trọng, có ý nghĩa thiết thực và việc
hồn thiện về chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân gia đình là địi hỏi tất yếu.
Từ những điều đã phân tích ở trên, tác giả đã chọn đề tài “Cấp dƣỡng theo pháp luật

1


hơn nhân gia đình Việt Nam : Thực trạng và giải pháp đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ cấp dƣỡng” để nghiên cứu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: là các vấn đề pháp lý về cấp dưỡng, thực trạng

về cấp dưỡng bao gồm những vấn đề về thực tiễn và bất cập trong việc áp dụng
pháp luật về cấp dưỡng, từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hơn
nhân gia đình Việt Nam về chế định cấp dưỡng; cấp dưỡng giữa các thành viên
trong gia đình; và đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu quan hệ cấp dưỡng giữa các cá
nhân là công dân Việt Nam, khơng có yếu tố nước ngồi.
3. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu về đề tài giúp tác giả hiểu sâu và củng cố thêm kiến thức chun
ngành cho bản thân; hồn thành tốt khóa luận tốt nghiệp, tìm ra những điểm bất cập,
vướng mắc, chưa phù hợp với thực tế của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
hiện hành về chế định cấp dưỡng. Qua đó đưa ra các quan điểm, đề xuất góp phần
hồn thiện chế định cấp dưỡng trong pháp luật hơn nhân gia đình Việt Nam, nhằm bảo
đảm tốt nhất quyền lợi của các bên trong quan hệ cấp dưỡng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành bài luận, tác giả đã sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp so sánh, phân tích,
thống kê, tổng hợp…
5. Cơ cấu đề tài:
Nội dung của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chế định cấp dưỡng
Chương 2: Pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam hiện hành về cấp dưỡng
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về cấp dưỡng và giải pháp đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng
2


Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, dù được sự hướng dẫn tận tình
của giáo viên, được sự giúp đỡ của bạn bè nhưng do có sự giới hạn về thời gian và khả
năng nên bài luận khơng tránh khỏi những sai sót, tác giả mong nhận được sự thơng

cảm và đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn độc giả.
Xin chân thành cảm ơn!

3


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH CẤP DƢỠNG
1.2 . Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ cấp dƣỡng
1.1.1. Khái niệm cấp dƣỡng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: mỗi sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Khái niệm về cấp dưỡng cũng vậy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về nó tùy thuộc
vào phạm vi, mức độ và định hướng nghiên cứu.
Trong Việt Nam tự điển do Nhà sách Khai trí xuất bản năm 1970, tác giả Lê Văn
Đức cho rằng cấp dưỡng (động từ) là nuôi, cho tiền hàng tháng cho đủ sống.
Theo Từ điển mở Wiktionary cấp dưỡng (động từ) là cung cấp cho người già yếu
những thứ cần thiết cho đời sống.
Còn trong Đại từ điển tiếng Việt do Bộ giáo dục đào tạo – Trung tâm ngôn ngữ và
văn hóa Việt Nam – Nhà xuất bản văn hóa thông tin năm 1999 tác giả Nguyễn Như Ý
cho rằng cấp dưỡng (động từ) là nuôi dưỡng người già yếu, bệnh tật.
Các thành viên trong gia đình yêu thương, chăm sóc, gắn bó với nhau vì đó là nhu
cầu tình cảm của họ. Nhu cầu chăm sóc, yêu thương, giúp đỡ nhau xuất phát từ trách
nhiệm đạo lý của các thành viên trong gia đình với nhau. Những trách nhiệm đạo lý
này là cơ sở để pháp luật quy định nâng lên thành trách nhiệm pháp lý về nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa các thành viên trong gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên
trong gia đình được điều chỉnh bởi những quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình.
Trong một gia đình khơng phải mọi thành viên đều có khả năng lao động, có tài sản để
tự nuôi sống bản thân như trẻ em, người mất năng lực hành vi dân sự, người khuyết tật,
khơng có khả năng lao động, khơng có tài sản để tự ni mình. Những người này

khơng thể tự đảm bảo được cuộc sống của mình nên rất cần sự giúp đỡ, cưu mang từ
các thành viên khác. Chính vì lý do đó, chế định cấp dưỡng được quy định trong
LHNGĐ.
Theo quy định tại khoản 11 Điều 8 LHNGĐ 2000: “Cấp dưỡng là việc một
người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
người khơng sống chung với mình mà có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni
dưỡng trong trường hợp đó là người chưa thành niên, là người thành niên mà không có
4


khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình, là người gặp khó khăn túng
thiếu theo quy định của luật này”.
Như vậy có thể thấy, dù theo quan điểm nào thì khái niệm cấp dưỡng cũng được
hiểu theo nghĩa thông thường nhất là chu cấp một khoản tiền, tài sản cho một hoặc một
số người để đảm bảo cuộc sống, nhu cầu thiết yếu của họ.
Tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều người nhầm lẫn khái niệm cấp dưỡng với
nuôi dưỡng. Cấp dưỡng và nuôi dưỡng đều là những quan hệ cơ bản gắn liền với lợi
ích tài sản trong pháp luật hơn nhân và gia đình. Thực ra LHNGĐ khơng chính thức
phân biệt nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng từ câu chữ của LHNGĐ
hiện hành, ta có thể thấy ni dưỡng và cấp dưỡng là hai khái niệm khác nhau. Nuôi
dưỡng được hiểu theo nghĩa thông dụng nhất là cho ăn uống, chăm sóc sức khỏe, ni
dưỡng tinh thần, tình cảm để duy trì và phát triển sự sống của cá nhân. Nghĩa vụ cấp
dưỡng chỉ xảy ra khi nghĩa vụ nuôi dưỡng không được thực hiện, các bên trong quan
hệ nuôi dưỡng không sống chung với nhau. Nuôi dưỡng mang tính chất của một nghĩa
vụ tự nhiên, nghĩa vụ đạo đức, việc thực hiện dựa vào ý thức tự giác, trong khi đó cấp
dưỡng là một nghĩa vụ pháp lý, nếu các bên khơng tự nguyện thực hiện thì sẽ bị áp
dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Khác với nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi
dưỡng không phụ thuộc vào nhu cầu thiết yếu của người được nuôi dưỡng và khả năng
chu cấp của người nuôi dưỡng mà phụ thuộc vào tình cảm thân thuộc giữa các bên. Do
đặc điểm của quan hệ ni dưỡng là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người được nuôi

dưỡng sống chung với nhau, chi phí cho các nhu cầu hàng ngày của họ được trích từ
quỹ tiêu dùng chung của gia đình nên việc xác định khả năng tài chính của người có
nghĩa vụ ni dưỡng hầu như khơng cịn ý nghĩa. Chẳng hạn như trong quan hệ cha mẹ
con, ông bà cháu nghĩa vụ ni dưỡng hình thành một cách đương nhiên, dù một bên
có thể khơng có khả năng vật chất để đáp ứng một cách thỏa đáng các nhu cầu của bên
kia. Mặt khác, nghĩa vụ nuôi dưỡng có thể chuyển giao cho người khác nhưng nghĩa
vụ cấp dưỡng thì khơng được chuyển giao1. Ví dụ như vợ chồng phải đi làm ăn xa
trong thời gian dài có thể giao con cho ông bà nuôi dưỡng nhưng người có nghĩa vụ
cấp dưỡng thì khơng thể nhờ người khác thực hiện nghĩa vụ thay mình.

1

Khoản 1 Điều 50 LHNGĐ 2000

5


1.1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dƣỡng
Quan hệ cấp dưỡng là một quan hệ pháp lý, có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Nghĩa vụ cấp dưỡng có tính tài sản nhưng khơng mang tính đồng thời
và tuyệt đối. Trong nghĩa vụ cấp dưỡng có sự chuyển giao tài sản từ bên có nghĩa vụ
cấp dưỡng sang cho bên được cấp dưỡng vì lợi ích của bên được cấp dưỡng. Tài sản
được chuyển giao có thể là tiền hoặc những tài sản khác nhằm bảo đảm việc đáp ứng
nhu cầu của bên được cấp dưỡng theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quyết định của
tòa án. Quan hệ cấp dưỡng được thực hiện thông qua hành vi chuyển giao tài sản nên
nghĩa vụ cấp dưỡng là quan hệ có tính tài sản. Dù có tính tài sản nhưng nghĩa vụ cấp
dưỡng khơng mang tính đồng thời và tuyệt đối, khơng mang tính đền bù ngang giá như
các quan hệ dân sự khác. Người được cấp dưỡng nhận tiền và tài sản từ người có nghĩa
vụ cấp dưỡng để duy trì cuộc sống của họ, họ khơng có nghĩa vụ trả lại tiền hoặc các
tài sản khác có giá trị tương đương. Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ pháp lý của người

được cấp dưỡng, nếu họ không thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng thì phải thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng. Người được cấp dưỡng thường là người có hồn cảnh khó khăn, túng
thiếu khơng có tài sản, khơng thể tự lo cho mình, họ cần số tiền cấp dưỡng để duy trì
cuộc sống. Vì vậy việc hồn trả lại giá trị vật chất tương đương nhận được từ việc cấp
dưỡng là điều không thể. Mặt khác, các thành viên trong gia đình do yếu tố tình cảm
chi phối, từng gắn bó, chăm sóc nhau nên nghĩa vụ cấp dưỡng trước hết được thực hiện
dựa trên sự tự nguyện của các chủ thể, trách nhiệm đạo đức thôi thúc họ thực hiện
nghĩa vụ mà khơng toan tính đến giá trị đền bù tương ứng.
Thứ hai: Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các chủ thể có quan hệ đặc biệt,
đó là các thành viên trong gia đình với nhau dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc
nuôi dưỡng: Đó là quan hệ giữa cha mẹ con, giữa ơng bà cháu, giữa anh chị em và
giữa vợ chồng với nhau. Quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng là cơ sở hình
thành, tồn tại và phát triển của gia đình tạo mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa các thành
viên trong gia đình. Trong phạm vi quan hệ cấp dưỡng, họ có quyền và nghĩa vụ tương
trợ nhau, đảm bảo cho cuộc sống về vật chất, tinh thần cho người cần được cấp dưỡng.
Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành thừa nhận mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình gồm có quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ con, anh chị em, ông bà cháu.
Chỉ trong phạm vi những quan hệ này, quan hệ cấp dưỡng mới phát sinh và được pháp
luật bảo vệ.
6


Thứ ba: Nghĩa vụ cấp dưỡng luôn gắn liền với nhân thân của người có nghĩa vụ
cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng không chuyển giao, khơng
thay thế bằng nghĩa vụ khác. Bởi vì nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa các chủ
thể đặc biệt trong phạm vi các quan hệ hôn nhân và gia đình như quan hệ cha mẹ con,
anh chị em, ơng bà cháu. Đây là những quan hệ gắn liền với nhân thân của mỗi cá
nhân. Nghĩa vụ cấp dưỡng luôn thuộc về những cá nhân riêng biệt. Chính vì vậy, nghĩa
vụ này không thể chuyển giao cho người khác và không thể thay thế bằng nghĩa vụ dân
sự khác. Nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền nhận cấp dưỡng là những quyền và nghĩa vụ

không thể chuyển giao. Điều này cũng được quy định trong BLDS 2005, cụ thể tại
điểm a khoản 1 Điều 309 quy định bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có
thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận, trừ trường hợp
quyền yêu cầu cấp dưỡng; khoản 3 Điều 379 còn quy định trong trường hợp nghĩa vụ
dân sự là nghĩa vụ cấp dưỡng thì khơng được thay thế bằng nghĩa vụ khác. Bên cạnh
đó, nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được pháp luật dân sự liệt kê vào những trường hợp
không được bù trừ nghĩa vụ dân sự 2.
Thứ tư: Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Xét
về bản chất, nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra nhằm mục đích tương trợ. Bản thân
“tương trợ” bao hàm sự không đầy đủ của một bên về phương diện vật chất, kinh tế.
Chính vì sự khơng đầy đủ đó mà nghĩa vụ tương trợ mới có cơ sở để phát sinh. Do đó,
quan hệ cấp dưỡng gắn liền với yếu tố tài sản cũng chỉ phát sinh khi một bên rơi vào
hoàn cảnh nhất định, cụ thể là người được cấp dưỡng là người gặp khó khăn, túng
thiếu trong cuộc sống,người khơng có khả năng lao động và tài sản để tự nuôi mình,
người chưa thành niên, người khuyết tật3, người mất năng lực hành vi dân sự.
1.2. Ý nghĩa của chế định cấp dƣỡng
Về mặt pháp lý, cấp dưỡng là một chế định quan trọng trong LHNGĐ 2000, nó
góp phần đảm bảo nguyên tắc cơ bản của luật trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ
hơn nhân gia đình tiến bộ; là những quy định về nghĩa vụ pháp lý có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc đảm bảo cho cuộc sống cho các chủ thể được cấp dưỡng. Ngoài
2

Khoản 3 Điều 381 Bộ luật dân sự 2005
Năm 2010 Quốc hội Việt Nam đã chính thức sử dụng từ khuyết tật thay cho tàn tật trong các văn bản pháp luật
có liên quan. Luật người khuyết tật được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011.
Luật người khuyết tật thay thế cho Pháp lệnh người tàn tật năm 1998. Vì vậy, để phù hợp với các quy định của
pháp luật, tác giả sẽ sử dụng từ khuyết tật thay cho từ tàn tật.
3

7



ra, chế định cấp dưỡng còn là cơ sở pháp lý nhằm gắn kết các thành viên gia đình trong
một cộng đồng trách nhiệm, khi giá trị đạo đức bị thay đổi thì các quy phạm pháp luật
sẽ là sợi dây gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau, làm thức tỉnh ở mỗi cá
nhân ý thức trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đối với những người có quan hệ gia
đình thân thuộc.
Về mặt xã hội, chế định cấp dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố
chức năng của gia đình. Gia đình trong thời kỳ đổi mới có sự đan xen giữa yếu tố
truyền thống và hiện đại, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn là tái sản xuất ra
con người, tái sản xuất sức lao động thông qua việc nuôi dưỡng chăm sóc các thành
viên trong gia đình. Chế định cấp dưỡng đã góp phần củng cố chức năng chăm sóc
người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng khơng có khả năng lao động, khơng
có tài sản để tự ni mình khi việc ni dưỡng đã khơng thực hiện được. Chế định cấp
dưỡng rất cần thiết để đảm bảo cho việc nuôi dạy tốt con cái trong những trường hợp
đặc biệt như cha mẹ ly hôn, người mẹ sinh con ngồi giá thú. Chế định cấp dưỡng góp
phần củng cố mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, tăng cường sự gắn bó,
nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân với việc chăm sóc, đảm bảo những điều tốt đẹp
nhất cho trẻ em; giúp người già sống vui, khỏe, có ích; người khuyết tật hịa nhập được
với cộng đồng.
Về mặt đạo đức, thơng qua việc cấp dưỡng, tình cảm giữa người được cấp dưỡng
và người có nghĩa vụ cấp dưỡng thêm gắn bó, họ sẽ trở nên gần gũi hơn khi khơng cịn
sống chung với nhau, họ sẽ quan tâm và biết được cuộc sống của nhau nhiều hơn, từ
đó tạo điều kiện cho sự duy trì tình cảm của các bên. Ngoài ra, nghĩa vụ cấp dưỡng thể
hiện truyền thống đạo lý quý báu của gia đình Việt Nam như “Uống nước nhớ nguồn”,
“Thờ mẹ kính cha”, “Phụ tử tình thân”, “Chị ngã em nâng”…Qua đó có ý nghĩa giáo
dục tinh thần “tương thân tương ái”, giúp đỡ, đùm bọc nhau khi gặp hoạn nạn, khó
khăn.
1.3. Lịch sử phát triển của chế định cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam
Pháp luật về hơn nhân và gia đình là một bộ phận của pháp luật nói chung nên

nội dung của nó cũng thể hiện ý chí và nguyện vọng của giai cấp thống trị. Dưới các
chế độ xã hội khác nhau, với lợi ích của các giai cấp thống trị khác nhau, quan hệ cấp
dưỡng được pháp luật điều chỉnh trong các thời kỳ cũng có nội hàm không giống nhau.
8


1.3.1. Chế định cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945
 Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến
Trong xã hội phong kiến, mơ hình gia đình được pháp luật xây dựng là đại gia
đình theo chế độ phụ hệ, quyền uy của người gia trưởng rất lớn để đảm bảo nền tảng
vững chắc cho gia đình. Sự quy định chặt chẽ quy chế pháp lý giữa các thành viên
trong gia đình đã tạo ra nề nếp, tơn ty trật tự, tinh thần tương trợ, tương thân tương ái.
Điều 506 Bộ luật Hồng Đức quy định: “con cháu trái lời dạy bảo và không phụng
dưỡng bề trên, mà bị ông bà, cha mẹ trình lên quan thì xử tội đồ làm khao đinh, con
nuôi, con kế tự mà thất hiếu cha ni, cha kế thì xử giảm tội trên một bậc và mất
những tài sản đã được chia”. Bộ luật Gia Long cũng quy định nghĩa vụ của con cháu là
phải phụng dưỡng ông bà cha mẹ (Điều 307).
Như vậy, pháp luật thời kỳ phong kiến quan tâm đặc biệt đến nghĩa vụ phụng
dưỡng của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Pháp luật thời kỳ này có quy định nghĩa
vụ nuôi dưỡng mà không quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng.
 Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
Dưới thời Pháp thuộc, gia đình vẫn chịu sự chi phối của người gia trưởng và ảnh
hưởng bởi tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Vấn đề cấp dưỡng mới chỉ giới hạn ở quy
định về tiền cấp dưỡng cho vợ sau ly hôn tại Điều 142 và Điều 144 Dân luật Bắc kỳ
năm 1931, Điều 143 Dân luật Trung kỳ năm 1936. Cụ thể, Điều 144 Dân luật Bắc kỳ
quy định “án ly hôn sẽ xử cả về tiền cấp dưỡng cho người vợ, về sự trông coi con cái,
và về quyền lợi tài sản của người vợ”. Điều 143 Dân luật Trung kỳ quy định “người vợ
ly dị, bất cứ trước là chính thất hay thứ thất mà đã được tiền cấp dưỡng, nếu đã tái giá
hoặc đã cấu hợp với ai bị coi là thời dâm thời không được lãnh tiền cấp dưỡng nữa”.

Vấn đề cấp dưỡng chỉ mới giới hạn ở quy định tiền cấp dưỡng cho vợ con sau khi ly
hôn, cịn đối với các thành viên khác trong gia đình thì hai bộ luật này chỉ đề cập một
cách chung chung về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong việc ni dưỡng,
chăm sóc lẫn nhau.
Ở miền Nam, văn bản chính yếu về dân luật là tập Dân luật giản yếu được ban
hành do Sắc lệnh ngày 3/10/1883. Dân luật giản yếu 1883 chịu nhiều ảnh hưởng của
Bộ dân luật năm 1804 của Cộng hịa Pháp nên nhìn chung nội dung của nó khác với

9


tinh thần pháp luật truyền thống của Việt Nam. Vấn đề cấp dưỡng giữa các thành viên
trong gia đình khơng được ghi nhận trong bộ luật.
1.3.2. Chế định cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam từ sau cách mạng tháng
Tám năm 1945 đến nay
 Chế định cấp dưỡng từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến ngày 2/1/1987
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Nhà nước ta đã ban hành
một số văn bản pháp lý điều chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đình. Trên cơ sở Hiến pháp
năm 1946 với nguyên tắc xóa bỏ bất bình đẳng nam nữ, Sắc lệnh số 97 ngày 22/5/1950
của Chủ tịch nước về sửa đổi một số quy lệ và chế định dân luật đã tuyên bố một số
ngun tắc mới trong hơn nhân gia đình như quyền tái giá (Điều 3), quyền bình đẳng
vợ chồng (Điều 5). Sau đó là Sắc lệnh số 159 ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước đã
quy định rõ về vấn đề ly hôn, về duyên cớ ly hôn, thủ tục ly hôn và trách nhiệm của vợ
chồng trong việc cấp dưỡng nuôi con tại Điều 6 như sau: “Tòa án sẽ căn cứ vào quyền
lợi của các con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng;
hai vợ chồng đã ly hơn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người tùy
theo khả năng của mình”.
Ngày 29/12/1959, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 được Quốc hội khóa I
thơng qua, quan hệ cấp dưỡng đã được quy định cụ thể hơn. Điều 30 LHNGĐ 1959
quy định: “Khi ly hôn, nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia phải cấp

dưỡng tùy theo khả năng của mình. Khoản cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng sẽ do hai
bên thỏa thuận, trường hợp hai bên không thỏa thuận được với nhau thì TAND sẽ
quyết định. Khi người được cấp dưỡng lấy vợ lấy chồng khác thì sẽ khơng được cấp
dưỡng nữa”. Điều 32 quy định trách nhiệm của vợ chồng đối với con chưa thành niên
sau ly hôn: “vợ chồng đã ly hơn phải cùng chịu phí tổn về việc ni nấng và giáo dục
con, mỗi người tùy theo khả năng của mình. Khi cần thiết có thể thay đổi việc ni giữ
hoặc việc góp phần vào phí tổn ni nấng, giáo dục con cái”.
Việc quy định như trên thể hiện tính dân chủ, tiến bộ của chính quyền mới trong
xét xử và giải quyết ly hôn nhưng quan hệ cấp dưỡng chỉ dừng lại ở các quy định
chung về cấp dưỡng giữa cha mẹ với con sau ly hôn.
 Chế định cấp dưỡng từ ngày 3/1/1987 đến nay
10


Ngày 29/12/1986, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 được Quốc hội thông
qua. LHNGĐ 1986 là bước phát triển khá hồn thiện của pháp luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam, xóa bỏ căn bản những tàn dư của chế độ hơn nhân và gia đình phong
kiến lạc hậu; xác lập, củng cố và hồn thiện chế độ hơn nhân gia đình Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. LHNGĐ 1986 quy định khá cụ thể về quyền, nghĩa vụ
của các thành viên trong gia đình về ni dưỡng, chăm sóc nhau. Nhưng quy định về
cấp dưỡng vẫn chỉ dừng lại ở việc cấp dưỡng giữa vợ chồng, cha mẹ với con khi ly
hôn tại Điều 43, Điều 45. Ngoài ra trong giai đoạn này, Nhà nước ta đã ban hành các
văn bản pháp luật khác để hướng dẫn các quy định của LHNGĐ 1986 về vấn đề cấp
dưỡng. Đó là Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, trong đó mục 8 quy định khá chi tiết về việc cấp dưỡng cho
vợ chồng và việc nuôi dưỡng cha mẹ, ông bà, anh chị em.
Khi xã hội càng phát triển, đời sống xã hội ngày được nâng cao đòi hỏi pháp luật
cũng thay đổi phù hợp để điều chỉnh. Vì vậy Luật Hơn nhân và gia đình 2000 được
Quốc hội khóa X thơng qua ngày 09/6/2000. LHNGĐ 2000 đã kế thừa các quy định
còn phù hợp của LHNGĐ 1986 và bổ sung thêm nhiều quy định về quyền và nghĩa vụ

giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt LHNGĐ 2000 đã dành một chương riêng
quy định về chế định cấp dưỡng một cách hệ thống, đầy đủ và cụ thể hơn. Các quy
định về cấp dưỡng trong LHNGĐ 2000 sẽ được trình bày ở chương 2.
1.4. Pháp luật về cấp dƣỡng của một số nƣớc trên thế giới
 Quy định về cấp dưỡng trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan
Vấn đề hơn nhân gia đình ở Thái Lan được điều chỉnh trong Bộ luật dân sự và
Thương mại của nước này. Trước hết, nhà làm luật Thái Lan cũng thừa nhận trách
nhiệm nuôi dưỡng lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái: “Các con có trách nhiệm ni
dưỡng bố mẹ4”. Ngồi việc ni dưỡng con chưa thành niên thì cha mẹ cịn có nghĩa
vụ ni dưỡng với con đã thành niên: “Bố mẹ có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái và
chu cấp việc học hành cho con cái khi chúng chưa trưởng thành. Khi những đứa trẻ đã
đủ tuổi thành niên tự lập, thì bố mẹ chỉ có trách nhiệm ni dưỡng khi chúng bị tàn tật
và khơng thể tự kiếm sống cho mình được 5”. Pháp luật Thái Lan quy định cấp dưỡng

4
5

Điều 1563 BLDSTM Thái Lan
Điều 1564 BLDSTM Thái Lan

11


được phát sinh trong quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ con. Riêng về vấn đề cấp dưỡng
cho con, nghĩa vụ này không những được quy định ở trường hợp ly hơn mà cịn ở
trường hợp hơn nhân bị tun là vô hiệu (trường hợp vợ hoặc chồng là người khơng có
năng lực hành vi dân sự, hơn nhân cùng huyết thống, hơn nhân khơng có đăng ký kết
hơn…). Khi giải quyết vấn đề về con cái, cha mẹ thỏa thuận việc giao con và cấp
dưỡng nuôi con. Nếu các bên không thỏa thuận được hoặc hôn nhân chấm dứt theo
phán quyết của tịa án thì vấn đề sẽ do cơ quan này quyết định.

Những vấn đề trong chế độ cấp dưỡng như mức và phương thức cấp dưỡng, thay
đổi mức cấp dưỡng…cũng được quy định cụ thể. Chẳng hạn như mức trợ cấp được
quyết định trên cơ sở xem xét đến khả năng của người có trách nhiệm ni dưỡng,
điều kiện sinh sống của người được nuôi dưỡng6. Khi có sự thay đổi về hồn cảnh điều
kiện sinh sống của các bên, việc cấp dưỡng có thể hủy bỏ, tăng thêm, giảm bớt hoặc
đặt lại mức cấp dưỡng 7 . Pháp luật Thái Lan còn dự liệu một trường hợp ngoại lệ: Tịa
án có thể quyết định việc trợ cấp mới mà trước đó đã khơng đặt ra, vào thời điểm quyết
định không cấp dưỡng, khả năng thực hiện của một bên là khơng có. Sau đó hồn
cảnh, phương thức hoặc điều kiện sinh sống của người này thay đổi, tức là có khả năng
trợ cấp thì tịa án có thể buộc họ thực hiện nghĩa vụ trên cơ sở xem xét khiếu nại của
bên yêu cầu.
Về phương thức cấp dưỡng được thực hiện bằng cách trả tiền theo định kỳ trừ
khi các bên thỏa thuận với nhau trả tiền bằng cách khác 8.
 Quy định về cấp dưỡng trong Bộ luật dân sự Cộng hịa Pháp
Pháp luật hơn nhân gia đình ở Pháp được quy định trong Bộ luật dân sự Pháp –
một bộ luật có nền tảng lâu đời, được chia làm 3 quyển, mỗi quyển được chia ra thành
nhiều thiên. Những thiên về hôn nhân gia đình như: Kết hơn, ly hơn, quan hệ giữa cha
mẹ và con, quyền của cha mẹ đối với con…đều có những quy định điều chỉnh quan hệ
cấp dưỡng. BLDS Pháp cũng ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con cái
(Điều 203), về nghĩa vụ cấp dưỡng thì nghĩa vụ khơng những phát sinh giữa con với
cha mẹ, cháu với ơng bà mà cịn phát sinh giữa con rể, con dâu với bố mẹ vợ, bố mẹ
chồng (Điều 205, 206). Nghĩa vụ cấp dưỡng có thể phát sinh giữa vợ chồng, giữa cha
mẹ con, giữa những người hưởng thừa kế của người vợ hoặc chồng chết trước với
6

Điều 1598/38 BLDSTM Thái Lan
Điều 1598/39 BLDSTM Thái Lan
8
Điều 1598/40 BLDSTM Thái Lan
7


12


người vợ, người chồng cịn sống và đang gặp khó khăn… Các quan hệ này là quan hệ
phái sinh, xuất hiện khi nghĩa vụ chính khơng được thực hiện.
Pháp luật cộng hòa Pháp cho phép Thẩm phán Tòa án quyết định giao con cho
người thứ ba trong trường hợp đặc biệt và nếu quyền lợi của các con đòi hỏi, người vợ
hoặc chồng nào khơng ở cùng các con thì có nghĩa vụ đóng góp vật chất ni con.
Nghĩa vụ này không chỉ thực hiện đối với con chưa thành niên mà cả với con đã thành
niên nhưng chưa thể tự túc được. Các vấn đề khác trong quan hệ cấp dưỡng như mức
cấp dưỡng, thay đổi cấp dưỡng, việc quản lý khoản cấp dưỡng…cũng được BLDS
Pháp quy định. Mức cấp dưỡng cho con phụ thuộc vào khả năng kinh tế của người
phải cấp dưỡng và người nuôi con. Khoản cấp dưỡng này có thể thực hiện trực tiếp
hoặc thơng qua một cơ quan có trách nhiệm, “cơ quan này trả lợi tức cho con tính theo
tỉ lệ khoản tiền trên, cho quyền hưởng dụng hoặc thu lợi phát sinh từ hoa lợi đó 9”. Nếu
khoản cấp dưỡng trên khơng đủ đáp ứng những nhu cầu của con thì bên cha hoặc mẹ
ni con có quyền u cầu bên kia bổ sung thêm một khoản cấp dưỡng khác.
BLDS Pháp còn quy định cả về trường hợp được miễn nghĩa vụ tại Điều 207:
“Khi người được cấp dưỡng vi phạm nghĩa vụ nghiêm trọng nghĩa vụ đối với người
cấp dưỡng thì Thẩm phán có thể miễn cho người cấp dưỡng tồn bộ hoặc một phần
nghĩa vụ cấp dưỡng”. Đây được xem là quy định rất tiến bộ, đảm bảo lợi ích cho bên
phải cấp dưỡng.
 Quy định về cấp dưỡng trong Bộ luật dân sự Đài Loan
Pháp luật Đài Loan quy định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ với con, giữa vợ
chồng sau khi ly hôn, cả trong quan hệ nuôi con nuôi. Cụ thể:
Điều 1055 quy định: “Người không ni con vẫn có nghĩa vụ chăm sóc, ni
dưỡng, cấp dưỡng cho con đến khi thành niên”.
Về cấp dưỡng giữa vợ chồng Điều 1057 khẳng định: “Khi một bên vợ hoặc chồng
khơng có lỗi nhưng do ly hơn rơi vào hồn cảnh khó khăn thì bên kia dù khơng có lỗi

cũng phải chi trả một khoản tiền cấp dưỡng tương đương”.
Điều 1082 còn quy định: “Khi chấm dứt quan hệ ni con ni, bên khơng có lỗi
gặp khó khăn trong cuộc sống thì có quyền u cầu bên kia chu cấp 1 khoản tiền tương
đương”.

9

Điều 294 BLDS Cộng hòa Pháp

13


Như vậy, quy định của mỗi nước về cấp dưỡng đều có nét đặc trưng riêng do điều
kiện kinh tế- xã hội và văn hóa ở các nước là khác nhau, nhưng nhìn chung pháp luật
các nước đều thừa nhận nghĩa vụ của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng con cái và cấp
dưỡng cho con sau khi ly hôn; đều quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng đối với những
người gặp khó khăn, cơ sở quan trọng để đảm bảo cho cuộc sống của người được cấp
dưỡng.

14


CHƢƠNG 2
PHÁP LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ CẤP DƢỠNG
2.1. Những quy định chung về cấp dƣỡng
2.1.1. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dƣỡng
Quan hệ cấp dưỡng chỉ xuất hiện khi có những căn cứ pháp lý sau:
Thứ nhất, quan hệ cấp dưỡng chỉ có thể phát sinh giữa những người có quan hệ
hơn nhân gia đình.

Điều 50 LHNĐ 2000 quy định: “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ
và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại với cháu; giữa vợ
chồng theo quy định của luật này”. Chính vì vậy, quan hệ cấp dưỡng chỉ có thể phát
sinh giữa những người có quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ của vợ chồng sau khi kết hôn. Quan hệ đó phải hợp
pháp, tức là tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hơn, có đăng ký kết hôn hoặc không
đăng ký kết hôn nhưng sống chung với nhau như vợ chồng và đủ điều kiện để xác định
hôn nhân thực tế theo Nghị quyết 35/2000. Hôn nhân hợp pháp mới làm phát sinh quan
hệ cấp dưỡng. Quan hệ giữa cha mẹ con hình thành dựa trên sự kiện sinh con hoặc
nhận ni con ni. Cha mẹ có nghĩa vụ ni dưỡng con, do đó có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho con khi không trực tiếp nuôi con. Ngược lại, con có nghĩa vụ ni dưỡng cha mẹ
và cấp dưỡng cho cha mẹ khi không trực tiếp nuôi cha mẹ.
Thứ hai, người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau.
Khi người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng sống chung với nhau thì người cấp
dưỡng đã trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng người được cấp dưỡng, do đó việc cấp dưỡng
khơng được đặt ra. Trừ trường hợp người có nghĩa vụ ni dưỡng đang sống chung với
người được nuôi dưỡng và họ không thực hiện nghĩa vụ thì có thể phải “buộc thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng” theo phán quyết của tòa án. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi
người có nghĩa vụ ni dưỡng vì những hồn cảnh nhất định khơng trực tiếp ni
dưỡng người kia, do đó người có nghĩa vụ ni dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc
tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người cần được cấp dưỡng, bảo đảm cuộc
sống của họ.
15


Nhưng các quy định về cấp dưỡng trong LHNGĐ 2000 không quy định rõ thế nào
là “không sống chung”. Vấn đề đặt ra là, cần phải hiểu thế nào là sống chung và không
sống chung. Thông thường, người Việt Nam có thuật ngữ “ở chung” chỉ những người
cùng sống chung dưới một mái nhà hoặc khơng sống chung nhưng có quỹ tiêu dùng
chung với nghĩa đen là “ăn chung”. Đối lập với ở chung là “ở riêng”, chỉ những người

không sống chung dưới một mái nhà hoặc có thể vẫn ở chung nhưng lại “ăn riêng”, tức
là có quỹ tiêu dùng độc lập. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định về nơi cư
trú, nơi tạm trú nhưng khơng có quy định thế nào là sống chung. Có quan điểm cho
rằng, những người sống chung là những người có cùng nơi đăng ký hộ khẩu thường
trú. Quan điểm khác lại cho rằng, chỉ coi là sống chung khi họ cùng sinh sống thường
xuyên dưới một mái nhà mà không phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của
họ. Thực tế cho thấy, những người có cùng nơi đăng ký hộ khẩu thường trú có thể
khơng cùng “ăn chung, ở chung” với nhau. Ngược lại, có trường hợp những người có
nơi đăng ký hộ khẩu khác nhau lại “ăn chung, ở chung” với nhau. Vì vậy việc xác định
thế nào là những người không sống chung vơi nhau không phụ thuộc vào nơi đăng ký
hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú mà căn cứ vào nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu
vật chất hàng ngày của họ. Do đó, những người được coi là sống chung với nhau khi
họ có quỹ tiêu dùng chung. Ngược lại, những người khơng sống chung là những người
khơng có quỹ tiêu dùng chung.10
Thứ ba, người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, người đã thành niên
nhưng khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình. Nghĩa vụ cấp
dưỡng được đặt ra nhằm đáp ứng nhu cầu sống thiết yếu của người được cấp dưỡng
nên nó chỉ nảy sinh khi người được cấp dưỡng khơng có khả năng về kinh tế, khơng có
tài sản, khơng thể tự lo cho mình được. Pháp luật hơn nhân và gia đình khơng có quy
định rõ thế nào là “khơng có khả năng lao động”, “khơng có tài sản để tự ni mình”.
Vì thế, ta có thể hiểu “khơng có khả năng lao động” là những người bị mất năng lực
hành vi dân sự, những người bị ốm đau, bệnh tật nằm liệt giường hoặc những người đã
thành niên nhưng khơng có sức khỏe, trí lực để làm việc hoặc đã cố làm mọi việc mà
vẫn khơng có đủ thu nhập cần thiết cho cuộc sống của bản thân và gia đình mình.
Theo Điều 163 BLDS 2005 thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản. Như vậy, người khơng có tài sản được hiểu theo đúng nghĩa là người
10

Ngô Thị Hường (2005), “Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật hơn nhân
và gia đình”, dân chủ và pháp luật, (04), tr.17


16


khơng có vật, tiền, khơng có giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tuy nhiên nếu hiểu
theo nghĩa này thì sẽ có rất ít người được cấp dưỡng và không phù hợp với tinh thần
tương trợ của chế định cấp dưỡng. Vì vậy ta có thể hiểu “khơng có tài sản để tự ni
mình” là tình trạng một người khơng có một tài sản nào hoặc tuy có nhưng tài sản có
giá trị q nhỏ khơng đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho họ hoặc tài sản đó được một
số đáp ứng nhu cầu của họ nhưng tài sản đó khơng thể khai thác để sinh lợi hoặc
không thể mang đi bán.
Thứ tư, người cấp dưỡng phải có khả năng cấp dưỡng. Về ngun tắc thì giữa
những người có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng phải có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho nhau khi một bên gặp túng thiếu, khó khăn hoặc khi đối tượng thuộc diện
được cấp dưỡng. Nhưng nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ có thể được thực hiện khi người có
nghĩa vụ có khả năng kinh tế, trước hết là đủ để đảm bảo cuộc sống cho chính họ, và
sau đó có khả năng để chu cấp cho người khác. Vì vậy việc cấp dưỡng phải căn cứ vào
khả năng, thu nhập thực tế của người cấp dưỡng. Điều 16 Nghị định 70/2001/NĐ-CP
quy định: “Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu
nhập thường xun hoặc tuy khơng có thu nhập thường xun nhưng cịn tài sản sau
khi đã trừ đi chi phí thơng thường cần thiết cho cuộc sống của người đó”. Như vậy,
đánh giá khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thể dựa trên hai yếu tố:
thu nhập thường xuyên và tài sản hiện có. Một người hiện đang có thu nhập thường
xuyên, ổn định và thu nhập đó là cao so với nhu cầu sinh hoạt tại địa phương thì được
coi là có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Hoặc một người tuy khơng
có thu nhập thường xun nhưng lại cịn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí cần thiết cho
bản thân thì cũng được coi là có khả năng để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.11
2.1.2. Mức và phƣơng thức cấp dƣỡng
 Mức cấp dưỡng
Cấp dưỡng cho một người có thể hiểu là đảm bảo nhu cầu thiết yếu, tối thiểu trong

sinh hoạt, cuộc sống của họ. Người cấp dưỡng phải đưa một khoản tiền hoặc tài sản
khác cho người được cấp dưỡng trong phạm vi, mức độ, giới hạn nào đó để đảm bảo

11

Ngơ Thị Hường (2005), “Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật hơn nhân
và gia đình”, dân chủ và pháp luật, (04), tr.16

17


cuộc sống cho người được cấp dưỡng. Vấn đề này được giải quyết trên cơ sở quy định
của pháp luật về mức cấp dưỡng.
Mức cấp dưỡng là một khoản tiền, lương thực hoặc tài sản khác mà bên có nghĩa
vụ cấp dưỡng chu cấp cho bên được cấp dưỡng để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của bên
được cấp dưỡng.
Pháp luật không quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho mọi trường hợp vì mỗi con
người đều tồn tại những hồn cảnh khác biệt nhau. Chính vì vậy trong từng trường hợp
cụ thể, tùy vào điều kiện hoàn cảnh của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được
cấp dưỡng mà các bên thỏa thuận một mức cấp dưỡng cụ thể hoặc tòa án quyết định
trong trường hợp các bên khơng thỏa thuận được. Ngồi ra mức cấp dưỡng được xác
định dựa trên khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu
của người được cấp dưỡng 12.
Khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu nhập thường
xuyên hoặc tuy khơng có thu nhập thường xun nhưng cịn tài sản sau khi trừ đi chi
phí thơng thường cần thiết cho cuộc sống của người đó

13

. Thu nhập của người cấp


dưỡng bao gồm toàn bộ thu nhập của người đó, gồm có thu nhập theo lương và thu
nhập ngồi lương. Trong các trường hợp thu nhập của người cấp dưỡng khơng ổn định
thì mức thu nhập của họ được xác định là mức thu nhập bình quân hàng tháng.
Pháp luật quy định mức cấp dưỡng căn cứ vào khả năng thực tế của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo tính khả thi của nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền lợi của
người được cấp dưỡng.
Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh
hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú bao gồm các chi phí
thơng thường cần thiết về ăn ở, mặc, học hành, khám chữa bệnh và các chi phí thơng
thường cần thiết khác để đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng 14 . Do chi phí
cần thiết cho các nhu cầu trên rất khác nhau giữa các vùng miền và khác nhau giữa
những người cấp dưỡng, vì vậy việc xác định các chi phí thơng thường cần thiết phải
dựa vào độ tuổi, điều kiện sống, học tập, sinh hoạt, giải trí và sức khỏe của người được
cấp dưỡng. Nếu mức cấp dưỡng được xác định một cách thận trọng và chính xác dựa
trên các tiêu chí nêu trên thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới có thể được thực thi trên thực tế.
12
13
14

Điều 53 LHNGĐ 2000
khoản 1 Điều 16 Nghị định 70/2001/NĐ-CP
khoản 2 Điều 16 Nghị định 70/2001/NĐ-CP

18


Mức cấp dưỡng không nhất định phải tồn tại ở một mức cố định mà có thể thay
đổi dựa theo sự thỏa thuận của các bên hoặc quyết định của tịa án. Khi có lý do chính
đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống dựa vào hồn cảnh gia

đình, tình trạng tài sản của các bên hoặc một số tình trạng đặc biệt khác.
 Phương thức cấp dưỡng
Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là phương pháp, cách thức mà các bên
trong quan hệ dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật để thỏa thuận việc thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng có thể thực hiện bằng tiền hoặc tài sản, tùy theo sự lựa chọn
của vợ chồng, nếu không thỏa thuận được thì tịa án giải quyết theo u cầu của các
bên. Theo Điều 54 LHNGĐ 2000 thì việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ
hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Thông thường nghĩa vụ cấp
dưỡng được ưu tiên thực hiện theo định kỳ theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị
định 70/2001/NĐ-CP. Trong trường hợp đặc biệt, nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng
có khả năng thực tế và người được cấp dưỡng cũng đồng ý thì nghĩa vụ cấp dưỡng có
thể thực hiện một lần 15.
Khi phương thức cấp dưỡng được thực hiện một lần thì giá trị tiền hoặc tài sản
cấp dưỡng được xác định dựa trên khoảng thời gian người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trị giá khoản tiền và tài sản cấp dưỡng sẽ không giống
nhau trong các trường hợp cấp dưỡng khác nhau. Tuy nhiên phần lớn các trường hợp
cấp dưỡng một lần thì giá trị khoản cấp dưỡng tương đối lớn. Mặc dù việc cấp dưỡng
đã thực hiện một lần, nhưng nếu người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn
trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì họ vẫn có quyền u cầu cấp
dưỡng tiếp 16.
Ngồi ra, Điều 54 LHNGĐ 2000 cịn quy định về việc thay đổi phương thức cấp
dưỡng, đặc biệt là việc tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp
dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà khơng có khả năng thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng, nếu khơng thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết.

15
16

khoản 2 Điều 18 Nghị định 70/2001/ NĐ-CP

Điều 19 Nghị định 70/2001/NĐ-CP

19


2.1.3. Chủ thể của quan hệ cấp dƣỡng
2.1.3.1. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ và chủ thể đƣợc cấp dƣỡng
 Chủ thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Về nguyên tắc, quan hệ cấp dưỡng là quan hệ giữa các cá nhân là thành viên trong
gia đình với nhau, họ phải nuôi dưỡng nhau khi sống chung với nhau. Khi không cịn
sống chung với nhau thì thay vì thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, người nuôi dưỡng sẽ
phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng là người có nghĩa
vụ đóng góp tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho người khác. Để trở
thành chủ thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì họ phải đáp ứng điều kiện về tình trạng
nhân thân và tài sản. Trong đó, người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải là người đã thành
niên, tức là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực chủ thể để tham gia vào các
quan hệ pháp luật, có khả năng lao động và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Về phương diện tài sản, muốn tương trợ cho người khác thì người đó trước hết phải có
khả năng kinh tế, đảm bảo được cho cuộc sống của chính mình và thực hiện được việc
cấp dưỡng cho người khác.
 Chủ thể được cấp dưỡng
Chủ thể được cấp dưỡng là người được trợ cấp một khoản tiền hoặc tài sản để đáp
ứng các nhu cầu thiết yếu, đảm bảo cuộc sống. Đó là:
+

Người chưa thành niên. Về nguyên tắc, người chưa thành niên luôn được cấp

dưỡng trong trường hợp quyền được nuôi dưỡng của họ không được thực hiện. Bởi vì
người chưa thành niên chưa có đầy đủ khả năng về tâm sinh lý và nhận thức để tham
gia vào các quan hệ xã hội, không có đủ năng lực để tham gia vào các quan hệ pháp

luật và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
+ Người đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, bị khuyết tật, khơng có
khả năng lao động, khơng có tài sản để tự ni mình.
+ Người gặp khó khăn, túng thiếu.
Những người khuyết tật, mất năng lực hành vi dân sự không thể tự lao động ni
mình như người bình thường được và họ cũng khơng có tài sản. Người gặp khó khăn,
túng thiếu trong cuộc sống cũng vậy. Họ rất cần sự trợ giúp về mặt vật chất để đảm
bảo, duy trì cuộc sống. Những điều kiện về tình trạng nhân thân và tài sản đối với
người được cấp dưỡng đòi hỏi phải chặt chẽ hơn so với chủ thể phải cấp dưỡng nhằm

20


×