Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luật thuế thu nhập cá nhân và các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả áp dụng trên thực tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.72 KB, 94 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TRÊN THỰC TẾ

SINH VIÊN THỰC HIỆN : TRẦN THỊ ÁNH MINH
KHÓA : 29
MSSV : 2920121
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : ThS. NGUYỄN THỊ THU HIỀN

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008

Trang 1


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CQSDĐ

:

chuyển quyền sử dụng đất



ĐTNT
GTGC
GTGT
MST
NK
NSNN
TNC
TNCN
TNDN
TTCK
TTĐB
UBTVQH
XK

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

đối tượng nộp thuế

giảm trừ gia cảnh
giá trị gia tăng
mã số thuế
nhập khẩu
Ngân sách Nhà nước
thu nhập cao
thu nhập cá nhân
thu nhập doanh nghiệp
thị trường chứng khoán
tiêu thụ đặc biệt
Uỷ ban thường vụ Quốc hội
xuất khẩu

Trang 2


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

MỤC LỤC
---------Trang
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1.

Khái niệm thuế TNCN .................................................................................. 4

1.2. Đặc điểm thuế TNCN ..................................................................................... 5
1.2.1. Thuế TNCN là loại thuế trực thu................................................................5
1.2.2.


Thuế TNCN có đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập chịu thuế ......6

1.2.3.

Thuế TNCN là loại thuế điều tiết vào thu nhập của các cá nhân ...............7

1.2.4.

Thuế TNCN thường điều tiết theo biểu thuế suất lũy tiến từng phần........8

1.3. Vai trò của thuế TNCN .................................................................................. 9
1.3.1. Thuế TNCN là một công cụ hữu hiệu đảm bảo nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước ........... ........................................................................................9
1.3.2.

Thuế TNCN là công cụ phân phối thu nhập đảm bảo công bằng
xã hội ........................................................................................................ 10

1.3.3.

Thuế TNCN được sử dụng như công cụ hữu hiệu để điều tiết vĩ mơ nền
kinh tế, kích thích tiêu dùng và khuyến khích tiết kiệm của
người dân ................................................................................................. 11

1.3.4.

Thuế TNCN góp phần khắc phục được tính lũy thối của các sắc thuế
gián thu .............. ......................................................................................11

1.3.5.


Thuế TNCN quản lý thu nhập “ngầm” và góp phần phịng chống
tội phạm ............. ......................................................................................12

1.4. Q trình hình thành và phát triển của thuế TNCN ở Việt Nam ...........13
1.4.1. Giai đoạn từ 27/12/1990 trở về trước (trước khi Pháp lệnh thuế thu nhập
cao ra đời) .......... ......................................................................................13
1.4.2.

Giai đoạn từ 27/12/1990 đến trước 27/11/2007 (giai đoạn thực hiện Pháp
lệnh thuế thu nhập cao và giai đoạn trước khi Luật thuế thu nhập cá nhân
được Quốc hội thông qua) .......................................................................16

1.4.3.

Giai đoạn từ khi Quốc hội ban hành Luật thuế TNCN cho đến nay........17

Kết luận chương 1 ................................................................................................24

Trang 3


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THUẾ TNCN VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ THỰC THI LUẬT THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN TRÊN THỰC TẾ
2.1. Nội dung cơ bản của Luật thuế TNCN ......................................................25
2.1.1. Đối tượng nộp thuế ...................................................................................25
2.1.2.


Đối tượng chịu thuế ..................................................................................27

2.1.3.

Căn cứ tính thuế . ......................................................................................31

2.1.3.1

Thu nhập chịu thuế ...............................................................................31

2.1.3.2. Thuế suất ...............................................................................................37
2.1.4.

Quản lý thuế TNCN..................................................................................39

2.1.4.1. Đăng ký thuế .. ......................................................................................40
2.1.4.2. Kê khai thuế ... ......................................................................................41
2.1.4.3. Nộp thuế ......... ......................................................................................42
2.1.4.4. Quyết toán thuế .....................................................................................43
2.1.5.

Xử lý vi phạm pháp luật về thuế thu nhập cá nhân ..................................44

2.2.

Một số giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi Luật thuế TNCN trong
thực tiễn ..............................................................................................................46
2.2.1. Tính khả thi của việc áp dụng Luật thuế TNCN ......................................46
2.2.1.1. Nhận định về tính khả thi của Luật thuế TNCN ..................................46

2.2.1.2. Điều kiện thực thi hiệu quả Luật thuế TNCN .....................................50
2.2.2. Những bất cập giữa quy định của Luật thuế TNCN so với thực tiễn
và một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi Luật thuế
TNCN trên thực tế .................................................................................55
2.2.2.1. Về đối tượng nộp thuế là cá nhân kinh doanh chuyển sang nộp thuế
TNCN.............. ....................................................................................56
2.2.2.2. Về thu nhập chịu thuế ...........................................................................58
2.2.2.3. Về mức thuế suất thuế TNCN ..............................................................64
2.2.2.4. Về chế độ giảm trừ gia cảnh .................................................................65
2.2.2.5. Về vần đề quản lý thuế TNCN .............................................................70

Kết luận chương 2 ............... ....................................................................................74
KẾT LUẬN ....................................................................................... 75

Trang 4


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

LỜI NĨI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, thuế TNCN được coi là sắc thuế cơ bản
và giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực hiện phân phối
thu nhập đảm bảo công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đây là loại thuế trực thu, trực
tiếp điều tiết vào thu nhập của cá nhân và được áp dụng rất sớm trong lịch sử thuế khóa.
Tại Việt Nam, một thời gian rất dài, do thu nhập dân cư thấp, nên chưa có thuế TNCN. Từ
sau đổi mới (1986) bắt đầu xuất hiện một bộ phận người có TNC, thậm chí là rất cao trong một số

ngành so với mức thu nhập trung bình, đặc biệt là những người làm việc ở các xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi. Do đó, Pháp lệnh thuế TNDVNCTNC (gọi tắt là: Pháp lệnh thuế TNC) được
ban hành vào 27/12/1990 mục đích trước mắt là động viên một phần thu nhập của tầng lớp dân cư
có TNC cho NSNN, từng bước tập dượt để người dân quen dần với sắc thuế này. Pháp lệnh đã trải
qua nhiều lần sửa đổi bổ sung, nhưng cũng chỉ dừng lại ở chỗ là một sắc thuế TNC, có phạm vi áp
dụng hẹp, chỉ đánh thuế vào thu nhập của một bộ phận những người có TNC mà vẫn chưa đề cập
đến vấn đề đánh thuế thu nhập vào đại bộ phận dân cư.
Hiện nay, Luật thuế TNCN Quốc hội đã thông qua vào 27/11/2007 chính thức thay thế
cho Pháp lệnh thuế TNC và đến thời điểm nghiên cứu vẫn chưa có hiệu lực thi hành. Theo đó, có
rất nhiều vấn đề liên quan đến Luật thuế TNCN được đặt ra như: Luật đã mở rộng đối tượng chịu
thuế và đối tượng nộp thuế theo hướng nào? Căn cứ tính thuế thay đổi ra sao? Vấn đề đăng ký, kê
khai, nộp thuế, quyết toán thuế TNCN được thực hiện như thế nào? Với tốc độ phát triển kinh tế
xã hội ở nước ta hiện nay, cùng với tình trạng lạm phát tăng cao, liệu những quy định của Luật
thuế TNCN có phù hợp khơng, có khả năng dự báo khơng, có linh hoạt cùng với sự thay đổi
nhanh chóng của các điều kiện kinh tế- xã hội không? Những quy định ấy sẽ được “đón nhận” như
thế nào trên thực tế ở thời điểm Luật có hiệu lực vào 2009?
Những vấn đề trên hiện có tính thời sự rất cao, là tâm điểm chú ý của rất nhiều chủ thể
khác nhau, nhất là đông đảo người lao động, do Luật thuế TNCN sẽ chính thức điều tiết vào thu
nhập của hầu hết mọi thành phần dân cư từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Chính vì vậy, việc làm
sáng tỏ những vướng mắc trên thông qua một công nghiên cứu khoa học nghiêm túc, cẩn trọng và
hệ thống về những quy định của Luật thuế TNCN thật sự là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng về
cả lý luận và thực tiễn.
2.

Tình hình nghiên cứu

Nhận thức được tầm quan trọng của thuế TNC đối với nền kinh tế, trong những năm gần
đây đã có một số cơng trình nghiên cứu về các quy định của Pháp luật thuế TNC như: đề tài
Trang 5



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

nghiên cứu của Nguyễn Trọng Hạnh về “Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thực trạng
và việc hồn thiện chính sách, biện pháp quản lý thu” hay đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về:
“Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001-2010” do ông Trần Xuân Thắng làm chủ
nhiệm; Luận án Phó Tiến Sĩ của Phan Thị Tuyết Hằng nghiên cứu về ”Thuế và cải cách thuế ở
Việt Nam”…. Ngoài ra, các tạp chí chun ngành cũng có đăng tải nhiều bài viết nêu lên những
hạn chế trong quy định của Pháp luật thuế TNC. Tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu về
thuế TNC vẫn chưa nhiều và chủ yếu là tập trung vào nghiên cứu chính sách TNC; các bài viết
chuyên ngành chỉ đưa ra được một số khía cạnh của vấn đề, chưa mang tính tồn diện và đầy đủ.
Do vậy, tuy Luật thuế TNCN được ban hành và sẽ có hiệu lực trong tương lai gần (2009) trong bối
cảnh nền kinh tế của ta đang rơi vào tình trạng lạm phát nghiêm trọng, thị trường chịu sự tác động
mạnh của các cơn bão giá chóng mặt nhưng vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về các
quy định của Luật thuế TNCN nhằm dự báo về tính khả thi của Luật khi áp dụng trên thực tế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả nhận thấy đề tài: “Luật thuế thu nhập cá nhân và
các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả áp dụng trên thực tế” vừa mang tính lý luận, vừa mang
tính thực tiễn rất cao trong thời điểm hiện nay nên tác giả chọn đề tài này làm đề tài Khóa luận tốt
nghiệp của mình.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Pháp luật thuế TNC qua một thời gian áp dụng cũng gặt hái được nhiều kết quả nhưng bên
cạnh đó cũng bộc lộ nhiều bất cập nhất định làm hạn chế vai trò của thuế trong việc điều tiết thu
nhập, điều tiết vĩ mô nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Hiện nay, Luật thuế TNCN đã
được Quốc hội ban hành nhưng đến đầu năm 2009 mới có hiệu lực nhằm khắc phục những hạn
chế của Pháp luật thuế TNC. Vì vậy, tác giả đã chọn quy định pháp lý về Luật thuế TNCN và khả
năng áp dụng của Luật thuế TNCN trong tương lai làm đối tượng nghiên cứu. Đây là một vấn đề
lớn nên trong phạm vi khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu về các vấn đề sau:


Thứ nhất, những vấn đề lý luận chung của Pháp luật thuế TNCN.
Thứ hai, tiến hành phân tích, đánh giá quy định của Luật thuế TNCN đồng thời so sánh
với quy định pháp luật hiện hành về thuế TNC về đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế và căn
cứ tính thuế và quản lý thuế TNCN, với mong muốn tìm ra những ưu thế cũng như những bất cập
của những quy định đó.
Thứ ba, căn cứ vào quy định của Luật thuế TNCN và điều kiện kinh tế xã hội của Việt
Nam nhằm đánh giá tính khả thi của Luật, đồng thời đưa ra một số kiến nghị góp phần đảm bảo
hiệu quả thực thi của Luật thuế TNCN trên thực tế.

Trang 6


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

4.

Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận được nghiên cứu và thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, sử dụng phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để
làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê
dựa trên những số liệu thực tiễn để đánh giá khách quan, và phản ánh đúng thực trạng Pháp luật
thuế TNCN ở Việt Nam, nhằm đưa ra những kiến nghị phù hợp.
5.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Nền kinh tế Việt Nam đang có nhiều chuyển biến rõ nét nhất là trong điều kiện hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì việc ban hành Luật thuế TNCN là cần thiết nhưng với tốc độ

phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, cùng với tình trạng lạm phát tăng cao thì những quy
định của Luật sẽ được đón nhận như thế nào? Vì vậy, khóa luận sẽ tiến hành so sánh quy định của
Luật thuế TNCN với các điều kiện kinh tế-xã hội để rút ra kết luận về những vấn đề: thứ nhất, tính
khả thi của việc áp dụng Luật thuế TNCN; thứ hai, những bất cập giữa quy định của Luật thuế
TNCN và thực tiễn, thứ ba, kiến nghị các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi Luật thuế
TNCN trên thực tế.
6.

Bố cục của Khóa luận
Khóa luận gồm các phần sau:


Lời nói đầu



Chương 1: Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân



Chương 2: Nội dung cơ bản của Luật thuế thu nhập cá nhân và những giải pháp nhằm
đảm bảo hiệu quả thực thi Luật thuế TNCN trên thực tế.



Kết luận



Danh mục tài liệu tham khảo


Trang 7


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế ra đời từ lâu trong lịch sử thuế khóa và được coi là loại
thuế công bằng nhất trong phân phối thu nhập xã hội. Thuế TNCN xuất hiện lần đầu tiên ở Anh
vào năm 1941, khi đó Chính phủ Anh ban hành một đạo luật bắt buộc những người có TNC phải
nộp một phần cho Nhà nước dưới hình thức thuế. Tư tưởng chủ đạo mà dựa vào đó người Anh
xây dựng chế định thuế TNCN đầu tiên của lồi người, là “có thu nhập(1) thì phải chịu thuế”. Sau
đó, thuế TNCN nhanh chóng được áp dụng ở các nước cơng nghiệp khác như: Nhật Bản(1887),
Mỹ(1913), Pháp(1916), Trung Quốc(1955), Hàn Quốc(1974)… Hiện nay, sắc thuế này đã có mặt
trong hệ thống pháp luật của hơn 180 quốc gia trên thế giới(2).
Ở Việt Nam, xuất phát từ những đặc thù về kinh tế, xã hội (nền kinh tế đang trong quá
trình phát triển, thu nhập bình qn đầu người cịn thấp, trình độ quản lý thuế còn hạn chế…), nên
trong khoảng thời gian dài từ những năm đầu thập niên 90 (1991) đến cuối năm 2008 thuế TNCN
chỉ điều tiết vào thu nhập của những cá nhân được Nhà nước xem là có TNC trong xã hội dưới cái
tên là thuế TNC. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 27/11/2007, Quốc Hội
đã ban hành Luật thuế TNCN, Luật sẽ chính thức có hiệu lực từ 01/01/2009.
Nghiên cứu về thuế TNCN, trước hết cần phải hiểu thuế TNCN là gì? Để có khái niệm đầy
đủ về thuế TNCN, cần xem xét loại thuế này dưới hai góc độ sau:
Dưới góc độ kinh tế: thuế TNCN là loại thuế đánh vào thu nhập của đại bộ phận dân cư
trong xã hội nhằm điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thể hiện rõ qua những ảnh hưởng nhất định của
nó đến đời sống kinh tế – xã hội như khả năng tạo ra cạnh tranh trong lao động, khả năng khuyến
khích tiết kiệm, tích lũy và hướng dẫn tiêu dùng của mỗi cá nhân. So với các sắc thuế khác thì thuế
TNCN là sắc thuế có tính ổn định cao, có tỉ lệ đóng góp tài chính lớn vào ngân sách quốc gia. Đặc

biệt ở các nước phát triển, đây còn là sắc thuế mang tính đại chúng, trước chiến tranh thế giới lần
thứ nhất số người nộp thuế TNCN mới chỉ chiếm khoảng gần 1 triệu người, năm 1939 tăng lên 5
triệu, đến năm 1980 con số này là 100 triệu người(3).

1

2
3

Thu nhập được hiểu là khoản lợi ích vật chất có giá trị tiền tệ gia nhập một cách hợp pháp vào khối tài sản của một người, làm tăng thêm giá trị của
khối tài sản đó
Lê Thị Thủy (2007), “Những vấn đề nền tảng khi xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”, Nghiên cứu Lập pháp, (8), tr.18.
PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.13.

Trang 8


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Cịn dưới góc độ xã hội, thuế TNCN là loại thuế trực thu, điều tiết phần thu nhập nhận
được của các cá nhân trong một khoản thời gian nhất định (thường là một năm) vào NSNN, qua
đó hạn chế sự chênh lệch về thu nhập của các cá nhân, góp phần thực hiện cơng bằng xã hội.
Từ việc xem xét thuế TNCN dưới hai góc độ kinh tế và xã hội nói trên, có thể hiểu thuế
TNCN: là một loại thuế trực thu, thu vào một số khoản thu nhập mà cá nhân nhận được trong
khoảng thời gian một năm, một tháng, hoặc từng lần phát sinh thu nhập, mà không phân biệt
nguồn gốc phát sinh thu nhập nhằm điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp phần
thực hiện cơng bằng xã hội, đảm bảo nguồn thu ổn định cho NSNN.
Qua khái niệm thuế TNCN thấy được thuế TNCN là sắc thuế “rất nhạy cảm” vì nó động
viên trực tiếp vào thu nhập của cá nhân và liên quan đến nhiều người trong xã hội. Nhằm làm rõ
hơn khái niệm thuế TNCN tác giả đi vào phân tích đặc điểm cơ bản của thuế TNCN.

1.2. Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân
Xét về tổng thể, thuế TNCN cũng là một sắc thuế trong hệ thống thuế của Nhà Nước nên
nó mang đầy đủ những đặc điểm cơ bản của thuế nói chung như: tính quyền lực, tính bắt buộc,
tính khơng đối giá và khơng hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Ngoài ra với tư cách là một
sắc thuế cụ thể thì thuế TNCN cũng có những đặc điểm riêng biệt giúp phân biệt với các sắc
thuế khác. Bao gồm:
1.2.1. Thuế TNCN là một loại thuế trực thu
Tính chất trực thu của thuế TNCN thể hiện người nộp thuế cũng đồng thời là người chịu
thuế. Hay nói theo một cách khác người nộp thuế không thể chuyển giao gánh nặng thuế cho
người khác. Tức là Nhà nước sẽ trực tiếp đánh thuế vào thu nhập phát sinh của đối tượng nộp thuế,
theo đó đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ tự kê khai và trích nộp phần thu nhập của mình hoặc thông
qua cơ quan chi trả thu nhập để kê khai và nộp thuế vào NSNN. Việc thực hiện nghĩa vụ thuế
TNCN đều ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập bản thân, tình hình tài chính khả năng tiêu dùng cũng
như cuộc sống gia đình của bản thân người nộp thuế. Vì vậy, Nhà nước phải xác định mức thu hợp
lý, phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp thuế.
Thuế TNCN với tính chất trực thu thường đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của người nộp
thuế, dễ gây ra tâm lý phản ứng trong xã hội. Vì vậy, việc điều tiết một phần thu nhập của cá nhân
không đơn giản; thêm vào đó, cơng tác quản lý thuế TNCN cũng vô cùng gian nan. Bởi lẽ, thuế
TNCN được xem là loại thuế khá phức tạp, cơ quan quản lý thuế khó có thể kiểm sốt được hết
các khoản thu nhập của người nộp thuế và càng khó khăn hơn để có thể xác định tính chất từng
loại thu nhập để áp dụng mức thuế suất phù hợp khi tính thuế. Pháp luật hầu hết các nước đều quy
định về các khoản khấu trừ vào thu nhập trước khi tính thuế, trong đó có khoản giảm trừ gia cảnh
(viết tắt: GTGC) bên cạnh ưu điểm tạo mức điều tiết thuế hợp lý thì nó cũng gây khơng ít khó
khăn cho cơ quan quản lý thuế.
Trang 9


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

1.2.2. Thuế TNCN có đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập chịu thuế

Việc xác định đối tượng nộp thuế TNCN phụ thuộc vào phương thức đánh thuế mà mỗi
quốc gia áp dụng. Hiện nay, trên thế giới có hai phương thức đánh thuế TNCN, đó là phương thức
đánh thuế dựa vào tiêu thức “nơi cư trú” và “địa điểm phát sinh thu nhập”.
Theo phương thức đánh thuế trên cơ sở “địa điểm phát sinh thu nhập”, đối tượng nộp
thuế TNCN là mọi cá nhân có thu nhập chịu thuế phát sinh trên lãnh thổ của một quốc gia. Ở đó,
cá nhân chỉ phải nộp thuế TNCN đối với khoản thu nhập phát sinh tại nước sở tại, còn đối với
những khoản thu nhập phát sinh ở nước ngồi thì khơng phải nộp thuế thu nhập. Cách điều tiết
thuế theo phương thức này không phổ biến, nhưng nó lại tạo được sự hấp dẫn về thuế để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, phương thức đánh thuế này chỉ thích hợp với những nước có
nhiều người nước ngồi đến làm việc và đầu tư, cịn bản thân cơng dân nước đó ít làm việc hoặc
đầu tư ở nước ngoài. Hiện nay chỉ duy nhất được áp dụng ở Hồng Kông(4).
Phương thức đánh thuế dựa vào tình trạng “cư trú” lại được sử dụng rộng rãi ở hầu hết
các quốc gia trên thế giới. Theo phương thức này, các cá nhân cư trú ở một nước phải nộp thuế tại
nước sở tại đối với thu nhập phát sinh “trong” và “ngoài lãnh thổ” quốc gia đó; cá nhân khơng cư
trú chỉ bị đánh thuế đối với phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Như vậy, cá nhân là đối tượng cư
trú hay không cư trú nhưng có thu nhập chịu thuế trong năm tính thuế đều là đối tượng phải nộp
thuế TNCN.
Tuy cùng căn cứ vào tiêu thức “nơi cư trú” để đánh thuế nhưng mỗi quốc gia lại có định
nghĩa khác nhau về khái niệm thế nào là một đối tượng cư trú tại một nước trong Luật thuế TNCN
của nước mình. Nhiều nước quy định cá nhân cư trú là người định cư tại nước đó hoặc là những
người khơng sống thường xuyên nhưng có tổng số ngày cư trú tại nước đó vượt q 183 ngày
trong một năm tính thuế (có thể là năm dương lịch hoặc năm tài chính) hoặc trong khoảng thời
gian 12 tháng liên tục(5). Ngoài ra, một số quốc gia lại có quy định một cách cụ thể hơn và có
điểm khác biệt với định nghĩa nêu trên.
Ví dụ: “Luật thuế TNCN của Mỹ quy định cá nhân cư trú là: công dân Mỹ và những người
sinh sống ở Mỹ tối thiểu là 330 ngày đêm(6)”.
Ở Pháp, một người quốc tịch Pháp hoặc quốc tịch nước ngồi được coi là cư trú tại
Pháp nhằm mục đích đánh thuế nếu coi Pháp là nơi ở chính, hành nghề chính hay có các “trung
tâm quyền lợi” đặt tại Pháp hoặc thường xuyên có mặt tại Pháp trên 6 tháng trong một năm hoặc
Pháp là nơi mang lại phần lớn thu nhập. Nếu người nộp thuế không cư trú tại Pháp thì họ nộp

thuế tại nơi hành nghề chính, tức chỉ đánh vào những thu nhập có nguồn gốc phát sinh tại Pháp.(7)

4
5
6
7

PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.28.
PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.100.
Tập thể tác giả (2005), Giáo trình luật thuế Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà nội, tr.183.
TS. Nguyễn Thị Bất, TS. Vũ duy Hào đồng chủ biên (2002), Giáo trình quản lý thuế, NXB Thống kê, Hà Nội, tr.115

Trang 10


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Tại Nhật Bản(8), pháp luật đưa ra khái niệm riêng biệt, phức tạp hơn và chia 3 trường
hợp cụ thể: cư trú thường xuyên (là người định cư thường xuyên ở Nhật được đánh thuế với mọi
nguồn thu nhập nhưng phải thường trú tại Nhật liên tục trong thời gian từ 5 năm trở lên); cư trú
không thường xun (là người khơng có ý định cư trú lâu dài ở Nhật nhưng có thường trú ở Nhật
từ 1-5 năm, thuế sẽ đánh vào nguồn thu nhập có phát sinh tại Nhật); đối tượng không cư trú
(người không có nơi định cư hoặc sống ở Nhật dưới 1 năm phải có hợp đồng lao động hoặc giấy
tờ khác chứng minh thì khơng phải nộp thuế thu nhập). Các cá nhân nước ngoài đến Nhật Bản sẽ
được coi là có nơi cư trú tại Nhật, trừ khi các hợp đồng lao động hoặc các giấy tờ khác chỉ rõ
rằng họ sẽ ở lại Nhật Bản ít hơn 1 năm.
Việc xác định phương thức đánh thuế dựa vào tiêu thức “cư trú” hay “địa điểm phát sinh
thu nhập” không những có ý nghĩa quan trọng khi xác định nghĩa vụ thuế của cá nhân, mà còn là
cơ sở để tiến hành đàm phán, ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa các quốc gia. Bởi lẽ,
việc áp dụng hai tiêu chí này có thể dẫn đến hiện tượng “thuế trùng thuế” khi cùng một thu nhập

của cá nhân nhưng lại là đối tượng nộp thuế của hai quốc gia khác nhau. Trong đó, quốc gia nơi
phát sinh thu nhập thì áp thuế theo tiêu chí “địa điểm phát sinh thu nhập”; còn ở quốc gia mà cá
nhân này mang quốc tịch lại áp dụng tiêu chí “cư trú” để điều tiết thuế TNCN. Nếu việc đánh thuế
trùng không được xử lý triệt để sẽ dẫn đến tình trạng vơ hiệu của các biện pháp ưu đãi, khuyến
khích xuất khẩu lao động, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường. Hơn nữa, với sự phát
triển của công nghệ thông tin, các phương tiện thông tin liên lạc cùng với sự thuận lợi về giao
thơng thì đối tượng nộp thuế có thế thay đổi tình trạng cư trú theo hướng có lợi về nghĩa vụ thuế
cho bản thân. Nếu khơng có sự chú trọng và hợp tác quốc tế nhằm xác định đúng nghĩa vụ thuế
của đối tượng nộp thuế thì rất dễ xảy ra thất thốt thuế do có sự thay đổi, thậm chí là sự biến mất
của đối tượng nộp thuế ở một quốc gia. Chính vì thế, để giải quyết những vấn đề này, các quốc gia
thường thỏa thuận ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần(9).
Như vậy, mỗi quốc gia tùy theo điều kiện kinh tế xã hội, chính sách và trình độ quản lý
của mình mà có thể lựa chọn ngun tắc đánh thuế phù hợp. Ở Việt Nam, Pháp luật thuế TNC từ
khi ban hành đến nay vẫn áp dụng đồng thời hai tiêu chí khi xác định đối tượng nộp thuế. Nhưng
Luật thuế TNCN đã được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế khi quy định
đối tượng nộp thuế dựa vào tiêu chí “nơi cư trú”.
1.2.3. Thuế TNCN là loại thuế điều tiết vào thu nhập của các cá nhân
Đối tượng chịu thuế TNCN là thu nhập của cá nhân. Nhưng không phải tất cả mọi khoản
thu nhập của cá nhân đều là đối tượng chịu thuế. Tùy theo từng quốc gia, theo từng giai đoạn, thời
8
9

Tập thể tác giả (2005), Giáo trình luật thuế Việt Nam, tr.182.
Hiệp định này quy định giới hạn quyền đánh thuế của từng quốc gia trong khổ pháp lý của Hiệp định nhằm xóa bỏ việc đánh thuế 2 lần, bảo vệ đối
tượng nộp thuế không phải chịu thuế tại hai quốc gia trở lên dưới bất kỳ hình thức trực tiếp hay gián tiếp. Nguyên tắc chung của Hiệp định là: quốc
gia thu thuế TNCN sau sẽ chỉ thu phần thuế TNCN chênh lệch nếu có giữa số thuế TNCN theo quy định của quốc gia thu thuế trước với thuế
TNCN theo quy định của quốc gia sau.

Trang 11



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

kỳ cụ thể, mà Luật thuế TNCN của các nước quy định rõ ràng những khoản thu nhập nào của cá
nhân sẽ là đối tượng chịu thuế. Ví dụ: Theo Luật thuế TNCN Hàn Quốc thu nhập chịu thuế được
phân thành 2 loại(10): thu nhập toàn cầu (thu nhập từ lao động, từ cho thuê bất động sản, thu nhập
từ tài sản tạm thời, thu nhập khác) và thu nhập riêng biệt (thu nhập từ lương hưu, từ chuyển
nhượng tài sản, từ trồng gỗ và khai thác gỗ); Luật thuế TNCN Pháp(11)lại xác định 8 loại thu nhập
chịu thuế: thu nhập từ tiền lương, thu nhập từ kinh doanh công thương nghiệp, thu nhập từ nông
nghiệp, thu nhập từ hành nghề độc lập và từ các dịch vụ tư vấn nghề nghiệp, thu nhập từ đầu tư
chứng khoán, từ cho thuê bất động sản, thu nhập từ chuyển nhượng tài sản, thù lao của những
người điều hành cơng ty. Tóm lại, cá nhân có thu nhập phải có nghĩa vụ nộp thuế TNCN cho Nhà
nước.
Ở Việt Nam, việc xác định thu nhập là đối tượng chịu thuế TNCN sẽ phụ thuộc vào quan
điểm của Nhà nước trong mỗi thời kỳ: trước đây thu nhập từ kinh doanh là đối tượng chịu thuế
TNDN, nhưng từ năm tới (2009) nó sẽ là đối tượng chịu thuế TNCN theo Luật thuế TNCN.
1.2.4. Thuế TNCN thường điều tiết theo biểu thuế suất lũy tiến từng phần
Thuế suất là nội dung quan trọng của một sắc thuế. Thông thường, đối với thuế TNCN
người ta áp dụng biểu thuế suất lũy tiến(12). Thuế suất lũy tiến gồm có 2 loại: lũy tiến từng phần(13)
và lũy tiến toàn phần.
Xuất phát từ bản chất của thuế TNCN là loại thuế điều tiết trực tiếp vào thu nhập của đối
tượng nộp thuế theo khả năng của họ nên để đảm bảo điều tiết thuế TNCN một cách cơng bằng và
hợp lý địi hỏi Nhà nước nắm cụ thể hồn cảnh, nhân thân, tình trạng thu nhập của người nộp thuế.
Trong đó, Nhà nước phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm đảm bảo mức độ điều tiết thuế từ những thu
nhập ngang bằng nhau là như nhau, với những phần thu nhập cao hơn mới bị điều tiết thuế mạnh
hơn và chỉ động viên nhẹ sự đóng góp của những người có thu nhập thấp. Kiểu điều tiết thuế thỏa
mãn yêu cầu này chỉ có thể là điều tiết thuế theo phương pháp thuế suất lũy tiến từng phần. Việc
tính tốn và kiểm tra thuế suất lũy tiến từng phần tuy phức tạp nhưng loại thuế suất này được đánh
giá công bằng hơn so với thuế suất lũy tiến tồn phần, khơng gây ra mâu thuẫn vì nó đảm bảo số
thuế phải nộp tăng lên một cách lũy tiến theo mức thu nhập tăng lên mà không bị đột biến cùng tốc

độ tăng của cơ sở thuế. Thêm vào đó, thuế suất lũy tiến từng phần cịn được coi là phương pháp
hiệu quả nhất để đánh thuế theo “khả năng” của đối tượng nộp thuế. Do vậy, đây là loại thuế suất
đảm bảo tính cơng bằng khá cao và có tác dụng lớn trong việc điều tiết thuế thu nhập. Chính vì
vậy, phần lớn các quốc gia (Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc…)(14) đều áp dụng thuế suất lũy tiến từng
10

PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.60.
PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.46.
12
Thuế suất lũy tiến là loại thuế suất được ấn định bằng tỷ lệ phần trăm trên cơ sở tính thuế, tỷ lệ này tăng dần và tỷ lệ thuận với sự gia tăng của cơ sở
tính thuế.
13
Thuế suất lũy tiến từng phần: áp dụng với mức thuế suất tăng dần theo từng phần tăng lên của cơ sở thuế. Trong biểu thuế suất cơ sở thuế được
chia làm nhiều bậc theo mức độ tăng dần. Số thuế mà đối tượng phải nộp bằng tổng số thuế tính theo từng bậc.
14
PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.17.
11

Trang 12


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

phần để điều tiết thuế TNCN. Ở Việt Nam, biểu thuế suất lũy tiến từng phần được thiết kế trong
Luật thuế TNCN với mức thuế suất cao nhất là 35%, thấp hơn so với mức cao nhất là 40% trong
Pháp lệnh thuế TNC (15).
Ngoài ra, thuế TNCN cịn có một số đặc điểm cơ bản khác: thuế TNCN là loại thuế phức
tạp, ln gắn liền với chính sách xã hội của mỗi quốc gia, tuy không tác động nhiều đến sự biến
đổi của cơ cấu kinh tế nhưng nó lại trực tiếp đụng chạm đến lợi ích kinh tế của từng cá nhân trong
xã hội. Vì thế, chính sách thuế TNCN cần phải phù hợp với chính sách xã hội của quốc gia nhằm

đảm bảo cho mọi cá nhân đều nắm rõ nghĩa vụ thuế của mình mà tn thủ nghiêm chỉnh pháp luật.
Thơng qua đó, chính sách thuế TNCN sẽ được thực thi hiệu quả trong đời sống kinh tế xã hội của
nước ta.
Từ những đặc điểm của thuế TNCN, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu vai trò của thuế TNCN
đối với nền kinh tế.
1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN là một bộ phận của hệ thống thuế, nó vừa mang vai trị chủ yếu của thuế nói
chung, vừa có những vai trị đặc trưng mà các sắc thuế khác khơng có. Trải qua nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau, thuế TNCN ngày càng khẳng định được vị thế của mình thơng qua các vai
trị ngày càng to lớn của nó.
1.3.1. Thuế TNCN là một công cụ hữu hiệu đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Trước tiên, xuất phát từ đặc trưng của thuế TNCN là có diện đánh thuế rộng, nên khả
năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Hơn nữa, vì thuế TNCN đánh trực tiếp vào thu nhập
của dân cư, mà thu nhập cao luôn là mong muốn và mục tiêu hướng tới của hầu hết người dân ở
bất kỳ quốc gia nào nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của chính bản thân và gia đình.
Nên trên thực tế, nguồn thu từ thuế TNCN chắc chắn sẽ ngày một tăng lên cùng với sự tăng trưởng
nhanh về thu nhập của dân cư.
Ở nhiều nước phát triển, thuế TNCN rất quen thuộc với người dân do đại bộ phận dân cư
trong độ tuổi lao động, mặt bằng thu nhập bình quân đầu người cao, ý thức nghĩa vụ thuế TNCN
cao, hệ thống quản lý Nhà nước khá chặt chẽ nên thuế TNCN thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong
tổng thu NSNN như: Mỹ (51,35%), Nhật Bản (68,97%), Australia (61,36%), Canada
(52,71%)(16)… Ở các nước đang phát triển, do thu nhập dân cư chưa cao, đồng thời do hệ thống
quản lý còn yếu kém nên thuế TNCN chiếm tỷ trọng nhỏ hơn so với các nước phát triển và tỷ lệ
này không đáng kể (ở các nước Thái Lan, Malayxia, Philippin chiếm khoảng 12-16% tổng thu
ngân sách).(17)
15

Khoản 4 Điều 1 Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH ngày 24/03/2004 sửa đổi bổ sung một số điều về Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao.
16

PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.36.
17
Lê Thị Thủy(2007), “Những vấn đề nền tảng khi xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”, Nghiên cứu Lập pháp, (số 8), tr.19.

Trang 13


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Tại Việt Nam, cho đến nay do trình độ quản lý cịn hạn chế, thất thu thuế TNCN rất nhiều
nên tổng số thu thuế đối với thu nhập của cá nhân (từ cả 3 sắc thuế: thuế TNDN, thuế CQSDĐ,
thuế TNC) chiếm tỷ trọng nhỏ: năm 2005 chiếm khoảng 4 % trong tổng thu NSNN từ thuế, phí, lệ
phí, tương đương 1% GDP(18). Song trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội như hiện nay và tác
động của hội nhập ngày càng sâu rộng, thu nhập của cá nhân có xu hướng tăng nhanh, nên tỷ trọng
thuế TNCN trong tổng thu NSNN sẽ có khả năng tăng lên.
Trong giai đoạn hiện nay, để giải quyết tốt các chính sách xã hội song song với tăng tốc
phát triển kinh tế, phù hợp với yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới(19), trong giới hạn nhất
định nguồn thu NSNN của các quốc gia phải phát triển mạnh và vững chắc hơn nữa. Theo thông
lệ quốc tế, để hệ thống thuế được cơng bằng hơn thì thuế trực thu sẽ chiếm tỷ trọng lớn hơn, đồng
thời giảm dần tỷ trọng thuế gián thu. Vì vậy, hầu hết các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang
phát triển như chúng ta, phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, làm minh bạch hóa các
chính sách tài chính thơng qua việc sửa đổi, ban hành nhiều sắc thuế (trong đó có thuế TNCN),
theo hướng giảm gánh nặng thuế cho các nhà đầu tư để tăng lợi nhuận sau thuế, thu hút hơn nữa
vốn đầu tư nước ngồi, nâng cao sức cạnh tranh của mơi trường đầu tư trong nước.
1.3.2. Thuế TNCN là công cụ phân phối thu nhập đảm bảo cơng bằng xã hội
Có thể nói, thuế TNCN ra đời bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo sự công bằng trong phân
phối thu nhập. Thông qua chức năng phân phối của thuế, thuế TNCN góp phần giảm bớt chênh
lệch giàu nghèo, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. Thực hiện công bằng xã hội là một trong
những vai trị quan trọng của thuế nói chung nhưng ở thuế TNCN thể hiện rõ nét hơn vai trị này.
Trong Pháp luật thuế TNCN, ngun tắc cơng bằng được hiểu ở hai góc độ: là cơng bằng

theo chiều ngang và cơng bằng theo chiều dọc.
Ở góc độ thứ nhất, công bằng theo chiều ngang là sự đối xử về thuế như nhau giữa các
cá nhân. Theo đó, đối với các đối tượng có cùng mức thu nhập, những điều kiện và hồn cảnh
sống như nhau thì họ có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước với số tiền như nhau.
Ở góc độ thứ hai, cơng bằng theo chiều dọc được hiểu: đối với những đối tượng nộp
thuế không có cùng mức thu nhập, có những điều kiện và hồn cảnh sống khác nhau sẽ có nghĩa
vụ nộp các khoản tiền thuế khác nhau cho Nhà nước. Trong đó, đảm bảo người có TNC thì phải
nộp thuế nhiều hơn, ở mức cao hơn so với người có thu nhập thấp, người có thu nhập như nhau
nhưng có hồn cảnh khó khăn hơn thì nộp ít hơn.
Trong bất kỳ xã hội nào cũng có sự phân hóa giàu nghèo, sự phân hóa này càng được thể
hiện rõ nét hơn trong nền kinh tế thị trường với những quy luật vận động vốn dĩ của nó: quy luật
cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá cả... Kinh tế thị trường càng phát triển thì khoảng cách
18
19

Đinh Dũng Sỹ (2007), “Trao đổi về dự án Luật thuế thu nhập cá nhân”, Nghiên cứu Lập pháp, (số 7), tr.31.
Một trong những điều kiện tiên quyết nhất để thực hiện tự do hóa thương mại, hội nhập toàn cầu là tiến hành cắt giảm và xóa bỏ dần các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan sẽ tác động làm nguồn thu thuế XNK giảm xuống đáng kể.

Trang 14


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

giàu nghèo càng có xu hướng gia tăng, kéo theo sự chênh lệch ngày càng lớn về mức sống, về thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư. Do đó, thơng qua việc thuế TNCN đảm bảo được cả nguyên tắc
công bằng theo chiều ngang, lẫn chiều dọc thì nó sẽ góp phần điều tiết TNCN, hạn chế được phần
nào chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo, góp phần tạo cơng bằng xã hội.
1.3.2. Thuế TNCN được sử dụng như công cụ hữu hiệu để điều tiết vĩ mơ nền kinh tế, kích

thích tiêu dùng và khuyến khích tiết kiệm của người dân
Thuế TNCN là một bộ phận của hệ thống thuế, nó khơng chỉ là công cụ huy động nguồn
NSNN, thực hiện công bằng xã hội, mà còn giữ vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ở mỗi thời kỳ
phát triển kinh tế khác nhau, tùy theo yêu cầu điều tiết vĩ mơ nền kinh tế mà chính sách thuế
TNCN ở mỗi nước được xây dựng cho phù hợp. Chẳng hạn: khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm
phát, khơng kiểm sốt được thì một trong những biện pháp mà Nhà nước có thể sử dụng để kiềm
chế lạm phát là tăng mức thuế suất thuế TNCN từ đó có thể hạn chế sức mua của người dân.
Ngược lại, trường hợp nền kinh tế rơi vào thiểu phát thì Nhà nước lại hạ thuế suất kích thích sản
xuất và tiêu dùng từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi nền kinh tế.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng
bộ nhiều công cụ để khắc phục những bất cân đối về mặt về mặt xã hội, trong đó có bất cân đối về
thu nhập. Nhà nước sử dụng thuế TNCN để điều hịa vĩ mơ thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này
thể hiện ở chỗ thông qua các quy định đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, miễn giảm, ưu đãi
về thuế thì thuế TNCN có thể tác động trực tiếp đến định hướng tiêu dùng, định hướng đầu tư theo
hướng có lợi, thực hiện mục tiêu điều chỉnh kinh tế của Nhà nước. M.Keynes(20) (nhà kinh tế học
nổi tiếng người Anh) cho rằng: “Tồn tại một quy luật tâm lý cơ bản mà theo ơng, con người có xu
hướng tăng tiêu dùng của mình theo tốc độ tăng của thu nhập, nhưng khơng phải tăng theo cùng
mức tăng của thu nhập. Cùng với tốc độ tăng của thu nhập thì tốc độ tiết kiệm tăng nhanh hơn.
Bởi vậy, cần phải có chính sách thuế đánh vào thu nhập, đưa vào tiết kiệm để kích thích tiêu dùng
và tăng đầu tư phát triển kinh doanh”.
1.3.4. Thuế TNCN góp phần khắc phục được tính lũy thoái của các sắc thuế gián thu
Nhược điểm của một số sắc thuế gián thu như thuế GTGT, thuế TTĐB là tính lũy thối mà
ở đó tỷ trọng thuế gián thu từ người giàu đôi khi thấp hơn người nghèo. Nhược điểm này là do
thuế gián thu tính trong giá cả của hàng hóa tiêu thụ và dịch vụ, Nhà nước thu thuế gián thu thông
qua giá bán hàng, cung ứng dịch vụ; mức thu cố định trong mỗi đơn vị sản phẩm hàng hóa. Do đó,
khi tiêu thụ cùng một lượng hàng hoá, dịch vụ, bất kể người tiêu dùng không phân biệt giàu nghèo,
TNC hay thấp đều phải chịu mức thuế (mức điều tiết) như nhau. Vì thế, các sắc thuế này đánh vào
người nghèo nhiều hơn người giàu. Bởi lẽ, người có thu nhập càng thấp thì càng phải dành nhiều
20


PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.37.

Trang 15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

tỷ lệ phần trăm từ thu nhập của mình để trả thuế gián thu, thu nhập càng cao thì tỷ lệ thuế này sẽ
khơng đáng kể. Mức chênh lệch về thu nhập càng cao thì tính lũy thoái của thuế gián thu càng lớn.
Do vậy, việc áp dụng thuế gián thu mới chỉ đảm bảo công bằng theo chiều ngang, tất cả mọi người
đều nộp thuế như nhau khơng phân biệt khả năng của họ.
Nhìn chung, các sắc thuế trực thu, điển hình là thuế TNCN có những ưu điểm hơn so với
sắc thuế gián thu. Đặc điểm của sắc thuế trực thu là trực tiếp điều tiết vào thu nhập của các đối
tượng nộp thuế và đối tượng nộp thuế cũng đồng thời là người chịu thuế. Hơn nữa, thuế trực thu
còn xem xét đến các yếu tố tương đối độc lập tác động đến thu nhập của người nộp thuế như hoàn
cảnh bản thân và hồn cảnh gia đình của người nộp thuế. Thơng qua việc biết được nhân thân,
hoàn cảnh, điều kiện sống của đối tượng nộp thuế, Nhà nước có thể đưa ra cách thức tính thuế phù
hợp có tính đến việc chiết giảm gia cảnh và khấu trừ các khoản chi phí gắn liền, cần thiết cho đời
sống và hoạt động tái sản xuất sức lao động của các đối tượng nộp thuế. Nhờ vậy, thuế thu nhập
nói chung và thuế TNCN nói riêng đảm bảo sự điều tiết thu nhập hợp lý và công bằng hơn.
1.3.5. Thuế TNCN quản lý thu nhập “ngầm” và góp phần phịng chống tội phạm
Thu nhập “ngầm” là các khoản thu nhập nhận được từ việc thực hiện các các hoạt động
bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật như: tham ô, nhận hối lộ; lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của công dân; sản xuất buôn bán vận chuyển tàng trữ hàng quốc
cấm (ma túy, thuốc nổ…). Đây được coi là những hành vi vô cùng nguy hiểm cho xã hội. Thuế
TNCN đóng vai trị khơng nhỏ trong việc ngăn chặn, đấu tranh chống lại tiến tới hạn chế và loại
bỏ những hành vi nguy hiểm đó.
Về lý thuyết, các khoản thu nhập “ngầm” là một loại thu nhập được tạo ra từ các hoạt động
bất hợp pháp mà Nhà nước khơng kiểm sốt được, do đó cũng không được pháp luật bảo vệ. Tuy
nhiên, trong quá trình quản lý thu nộp thuế TNCN Nhà nước có thể phát hiện ra những khoản thu

nhập “ngầm”. Thông thường, việc phát hiện có thể xuất phát từ lý do khi có sự chênh lệch giữa thu
nhập kê khai nộp thuế và thu nhập trên thực tế. Khi đó, cơ quan thuế sẽ phối hợp với các cơ quan
chức năng để tiến hành xác minh, làm rõ những khoản chênh lệch đó và nguồn gốc của chúng.
Chính vì những quy định chặt chẽ trong việc kê khai thu nhập mà có rất nhiều khoản thu nhập có
nguồn gốc bất minh được làm sáng tỏ và trở thành một trong những bằng chứng giúp cơ quan điều
tra xác định được tội phạm.
Bên cạnh đó, ở một số nước, khoản thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp có thể thuộc
phạm vi quy định chung trong khái niệm thu nhập toàn bộ hoặc trong hệ thống phân loại thu nhập
có thể coi là một loại thu nhập. Theo đó, các khoản thu nhập “ngầm” vẫn bị đánh thuế song nó
được hiểu theo nghĩa tước đoạt và tịch thu. Quan điểm của một số nhà kinh tế học hiện đại ở các

Trang 16


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

nước phát triển cho rằng khả năng đánh thuế đối với thu nhập bất hợp pháp cung cấp công cụ cho
việc khởi tố với tội danh không thực hiện nghĩa vụ thuế (21).
Qua q trình phân tích và đánh giá vai trị của thuế TNCN, có thể thấy sắc thuế này giữ vị
trí khơng nhỏ trong hệ thống thuế, đồng thời có vai trị rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Đồng thời trải qua nhiều giai đoạn phát triển, thì thuế TNCN càng ngày càng
khẳng định được vị thế và phát huy được vai trị của mình trong thực tiễn. Sắc thuế TNCN ở
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Để hiểu rõ hơn về thuế TNCN ở Việt Nam, chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu cụ thể quá trình
hình thành và phát triển của sắc thuế này ở phần tiếp theo.
1.4 Quá trình hình thành và phát triển của thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
Ở Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới, thuế TNCN đã có một q trình
phát triển lâu dài. Q trình này có thể phân chia thành 3 giai đoạn sau:
1.4.1. Giai đoạn từ 27/12/1990 trở về trước (trước khi Pháp lệnh thuế thu nhập cao ra đời)
Ở nước ta, thuế TNCN thực chất đã tồn tại từ thời Phong kiến dưới dạng tương tự như:

thuế Thân. Thuế Thân(22) còn được gọi là thuế Đinh, là loại thuế đánh theo đầu người, áp dụng với
mọi công dân là nam giới từ 18 tuổi trở lên. Như vậy, đối tượng chịu sự tác động của sắc thuế này
tương đối rộng, trong đó tất cả cá nhân là nam giới khi đến độ tuổi nhất định (18 tuổi) sẽ có nghĩa
vụ đóng thuế theo quy định mà khơng cần biết cá nhân này có tạo ra được thu nhập trên thực tế
hay khơng và cũng khơng có quy định trường hợp nào được miễn giảm thuế. Loại thuế này đánh
cả vào sinh lực của con người mà khơng tính đến việc loại khỏi thu nhập tính thuế giá trị sức lao
động của người chịu thuế. Tóm lại, thuế Thân là một thứ thuế giống như thuế TNCN ngày nay vì
cùng điều tiết thu nhập của đại bộ phận dân cư trong xã hội. Nhưng nó khác biệt ở chỗ điều tiết
thuế theo đầu người, áp dụng một mức thuế như nhau cho cả người có TNC, cũng như người có
thu nhập thấp. Do vậy, việc thực thi thuế Thân là một gánh nặng đè lên đời sống của người dân bởi
lẽ đối tượng nộp thuế phần đông là tầng lớp nông dân và những người lao động nghèo khổ.
Vào thời nhà Lê và Lê -Trịnh, thuế Thân vẫn tiếp tục được áp dụng nhưng có sự điều
chỉnh về mức đóng thuế. Đến thời nhà Nguyễn vẫn giữ nguyên các sắc thuế đã có dưới các triều
đại Phong kiến trước, trong đó có thuế Thân, và cịn đề ra các loại thuế khác(23).
Dưới thời Pháp thuộc, thuế Thân vẫn còn tồn tại(24). Đến năm, 1925 chính quyền bảo hộ
đã hồn chỉnh thuế Thân áp dụng cho tất cả đối tượng cư trú trên lãnh thổ Bắc kỳ và nó đã thực sự
đè nặng lên vai những người dân nghèo. Trước sự phản ứng gay gắt của người dân, nhằm che đậy
21
22
23
24

PGS.TS Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, tr.11.
Bước đầu, thuế Thân thu 3tiền/1suất đinh (tương đương 54 kg thóc).
TS. Nguyễn Thị Bất, TS. Vũ duy Hào đồng chủ biên, Giáo trình quản lý thuế, tr.131-132.
TS. Hồ Tuấn Dung (2003), Chế độ thuế của thực dân Pháp ở Bắc kỳ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.117-118.

Trang 17



KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

hành vi bóc lột đồng thời xoa dịu lịng dân, vào năm 1937-1939 chính quyền thực dân tiến hành
sửa đổi lại chế độ thuế Thân đối với người bản xứ ở Bắc Kỳ. Mãi đến năm 1939, một chính sách
thuế Thân mới cải tiến chính thức được đưa vào thực hiện. Và tất cả những quy chế về thuế Thân
vẫn được chính quyền bảo hộ thực thi cho đến 1945.
Nhìn chung, trong các triều đại Phong kiến và dưới thời Pháp thuộc thuế Thân thực sự là
nỗi kinh hồng của người dân Việt Nam. Thuế Thân ln là gánh nặng của người nơng dân nghèo
vì thứ thuế này đánh cả vào người nghèo lẫn những người giàu có theo một mức thuế duy nhất.
Điều này là bất hợp lý, vì trong hồn cảnh xã hội bấy giờ đại bộ phận người nộp thuế là nông dân
(trên 90% dân số), đời sống rất khó khăn mà vẫn phải nộp thuế như người giàu.
Sau khi cách Mạng tháng Tám thành công, thuế Thân là một trong những loại thuế đầu
tiên bị bãi bỏ do tính chất vơ nhân đạo của nó. Sắc lệnh đầu tiên về vấn đề thuế khóa được Hồ chủ
tịch ký (ngày 7/09/1945), nêu rõ: “Chế độ thuế khóa hiện hành sẽ phải thay đổi dần để dỡ gánh
nặng cho dân chúng và hợp với công lý, thống nhất chế độ thuế khóa. Đầu tiên là bỏ thuế Thân
theo đầu người, giải phóng dân khỏi tấm thẻ sưu đã bao năm ràng buộc người Việt Nam”(25).
Ở Miền Nam Việt Nam, dưới thời chính quyền Sài Gịn, vào năm 1962, thuế TNCN xuất
hiện và bắt đầu được áp dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng vẫn chưa phổ biến và giai cấp thống trị lợi
dụng sắc thuế này làm cơng cụ để bóc lột sức lao động của người dân. Thời điểm này thuế TNCN
tồn tại trong thuế Lợi tức. Thuế Lợi tức thực chất là một khoản thu nhập có sự phân biệt giữa thể
nhân và pháp nhân. Cụ thể: đối với thể nhân(26): là thuế Lợi tức tổng hợp của từng hộ gia đình bao
gồm cả lợi tức doanh nghiệp tư nhân và thuế lương bổng; đối với pháp nhân: có thuế Lợi tức cơng
ty. Chính sách thuế TNCN của chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó tương đối phù hợp với chế độ
thuế của các nước có nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, nền kinh tế miền Nam Việt
Nam thời điểm này vẫn chưa phát triển cao, chỉ có bộ phận dân cư rất nhỏ có TNC, chủ yếu là một
số ít nhà tư bản trong nước, nước ngồi, tầng lớp cơng chức và những người gắn bó với chế độ
Việt Nam Cộng hòa; còn lại đại bộ phận những người lao động, cơng chức cấp dưới có thu nhập
chỉ đủ để đảm bảo cuộc sống bình thường. Do vậy, việc áp dụng thuế TNCN ở thời kỳ này còn
nhiều hạn chế.
Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, Nhà nước ta đã bãi bỏ chế độ thuế TNCN của

chính quyền Sài Gòn cũ, chỉ giữ lại các sắc thuế đánh vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương
mại, dịch vụ(27). Bởi lẽ, những năm đầu của thập niên 80 nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, q trình lưu thơng hàng hóa diễn ra chậm chạp, việc thanh tốn và
phân phối hàng hóa được thực hiện bằng tem phiếu theo nguyên tắc phân phối theo lao động và
25
26

27

TS. Nguyễn Thị Bất, TS. Vũ duy Hào đồng chủ biên, Giáo trình quản lý thuế, tr.133.
Nội dung cơ bản của thuế đối với thể nhân quy định cụ thể về các khoản thu nhập chịu thuế gồm thu nhập từ lao động (tiền lương, tiền công, thù
lao, tiền thưởng, lợi lộc từ kinh doanh cá thể không thuộc diện chịu thuế đối vối pháp nhân…) và thu nhập không từ lao động (lợi tức cổ phiếu, lãi
tiền cho vay, quà tặng); biểu thuế suất lũy tiến từng phần có 7 bậc; tổ chức quản lý thu thuế theo nguyên tắc khấu trừ tại nguồn. Đồng thời, còn quy
định về chế tài xử lý vi phạm về đăng ký, kê khai, nộp thuế của thể nhân.
TS. Nguyễn Thị Bất, TS. Vũ duy Hào đồng chủ biên, Giáo trình quản lý thuế, tr. 135.

Trang 18


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

bình qn chủ nghĩa, sự tư hữu bị coi là bất hợp pháp cho nên trong xã hội khơng có tình trạng kẻ
giàu người nghèo. Vì vậy, thời kỳ này khơng có điều kiện để tính tốn TNCN và Nhà nước cũng
không cần phải ban hành sắc thuế TNCN.
Nghị Quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã xác định nước ta thực hiện
sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước, đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam làm ăn. Do
đó, quan điểm và nguyên tắc phân phối điều tiết thu nhập cũng có những đổi mới, trong đó cốt lõi
là sự thay đổi hệ thống công cụ điều tiết thu nhập của Nhà nước trên cơ sở tôn trọng các quy luật
thị trường, đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu. Hình thức phân phối

bằng hiện vật (phổ biến là chế độ tem phiếu) đã được thay thế hoàn toàn bằng phân phối theo giá
trị. Bao gồm nhiều hình thức phân phối, theo đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết
quả sản xuất kinh doanh và thông qua chính sách điều tiết hợp lý đi đơi với phúc lợi xã hội đã bảo
vệ quyền lợi người lao động, khuyến khích làm giàu hợp pháp. Cơ chế phân phối và điều tiết thu
nhập này đã đem lại hiệu quả đáng kể tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân hăng
hái và an tâm làm việc tạo ra của cải vật chất đóng góp cho xã hội.
Sau một thời gian triển khai, cơ chế thị trường đã bắt đầu hình thành và vận động thuận lợi
ở nước ta, nền kinh tế bước đầu phát triển thuận lợi, đời sống người dân dần được cải thiện. Cuối
những năm 80, xuất hiện một vài doanh nghiệp nước ngoài đến thăm dị đầu tư tại Việt Nam.
Cùng lúc đó thì mặt trái của nền kinh tế thị trường dần lộ rõ, tuy đại bộ phận người dân vẫn còn
thu nhập thấp (80% dân số có thu nhập 200-300 USD/năm) (28) nhưng trong xã hội bắt đầu có một
bộ phận dân cư có thu nhập khá hơn, sự phân hóa giàu nghèo đã manh nha và ngày càng rõ nét.
Hơn nữa, chủ trương thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam kéo theo nguy cơ “chảy máu
chất xám” do tiền lương người lao động làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
cao gấp nhiều lần tiền lương trong khu vực Nhà nước và các xí nghiệp này thì ngày càng phát
triển. Sự chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận lao động là bất hợp lý, do cùng một chất lượng
lao động như nhau nơi này trả lương cao hơn nơi khác đến 5-7 lần. Trong bối cảnh đó, việc xây
dựng và tiến tới ban hành Pháp lệnh để điều tiết thuế TNC là một nhu cầu tất yếu ở nước ta.
Từ năm 1990 ngành thuế bắt đầu xây dựng dự án Pháp lệnh thuế TNCN nhưng sau khi
trình lên Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ), thì rất nhiều quan điểm cho rằng: thu nhập bình
qn của người dân lúc đó rất thấp, đến lương của Thủ tướng mới chỉ có 120.000đồng/tháng nên
Pháp lệnh đưa ra mức khởi điểm chịu thuế 500.000đồng/tháng là q cao. Do đó, tên gọi thuế
TNCN khơng phù hợp nên đã được đổi tên là Pháp lệnh thuế TNC. Cũng ngay từ thời điểm đó,
những khó khăn cho cơng tác quản lý TNCN như tình trạng thanh tốn tiền mặt cịn phổ biến,
khơng có tài khoản cá nhân, khơng có mạng kết nối thơng tin… đã được nhiều đại biểu chất vấn.
28

/>
Trang 19



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Nhưng với sự quyết tâm, sự thuyết phục có tình, có lý của cơ quan chủ trì soạn thảo, tháng 071990 Pháp lệnh thuế TNC đã được thông qua.
1.4.2. Giai đoạn từ 27/12/1990 đến trước 27/11/2007 (giai đoạn thực hiện Pháp lệnh thuế
thu nhập cao và giai đoạn trước khi Luật thuế thu nhập cá nhân được Quốc hội
thông qua)
Để đảm bảo công bằng trong việc điều tiết thu nhập của các cá nhân trong xã hội, tạo
nguồn thu cho NSNN đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân
nhân, ngày 27/12/1990 Hội Đồng Nhà nước đã chính thức ban hành Pháp lệnh thuế TNC đầu tiên
của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chính thức có hiệu lực thi hành từ 01/04/1991.
Pháp lệnh đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần vào các năm: 1992, 1993, 1994, 1997, 1999, 2001 và
lần cuối cùng vào ngày 24/03/2004. Qua các lần sửa đổi, bổ sung, vẫn được giữ nguyên tên gọi là
Pháp lệnh thuế TNC. Nội dung chủ yếu qua các lần sửa đổi là nâng mức khởi điểm chịu thuế, sửa
đổi các quy định về quản lý thuế.
Về cơ bản, sau 15 năm áp dụng vào thực tiễn, thuế TNC đã được hoàn thiện theo
hướng:
Thứ nhất là, biểu thuế đối với người Việt Nam đã sửa đổi theo cả chiều ngang lẫn
chiều dọc, trong đó nâng mức khởi điểm chịu thuế đối với người Việt Nam lên 5 triệu
đồng/tháng (29), bỏ thuế thu nhập bổ sung 30%. Quy định này là hợp lý và phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế xã hội ở nước ta và mức cải thiện đời sống của nhân dân.
Thứ hai, khoảng cách chênh lệch về mức thuế giữa người Việt Nam và người nước
ngoài đã được rút ngắn đáng kể. Điều này được đánh giá là một bước tiến trong việc góp phần
giảm bớt chênh lệch quá lớn về nghĩa vụ nộp thuế giữa người Việt Nam và người nước ngồi,
khuyến khích được doanh nghiệp nước ngồi th lao động Việt Nam. Bởi lẽ, với cùng một công
việc, nếu sử dụng lao động Việt Nam thì doanh nghiệp khơng cịn phải bỏ ra nhiều chi phí hơn so
lao động người nước ngoài. Việc hoàn thiện các quy định của Pháp lệnh thuế TNC trong hơn 15
năm qua đã tạo điều kiện cho người lao động Việt Nam có điều kiện tiếp cận với trình độ cơng
nghệ tiên tiến trên thế giới, nâng cao tay nghề, gia tăng thu nhập.

Thứ ba, việc điều tiết thuế TNCN được thực hiện một cách công bằng và hợp lý hơn
thông qua việc giãn khoảng cách thu nhập chịu thuế và giảm mức điều tiết thuế đối với cả
người Việt Nam lẫn người nước ngoài, đảm bảo. Qua đó, từng bước góp phần phân phối thu
nhập của bộ phận người có thu nhập cao nhằm giảm sự chênh lệch giàu nghè, góp phần thực hiện
cơng bằng xã hội, đồng thời tập dượt cho người dân làm quen dần với sắc thuế này để thuận tiện
cho việc triển khai áp dụng khi Luật thuế TNCN được ban hành.

29

Khoản 4 Điều 1 Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11

Trang 20


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Thứ tư, Pháp lệnh thuế TNC qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đã đưa thêm nhiều quy
định nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thu thuế TNC thơng qua việc hồn thiện dần
các quy định về nguyên tắc khấu trừ tại nguồn. Điển hình, Pháp lệnh thuế TNC 2004 quy định
rõ cơ quan thực hiện chi trả tiền lương, tiền công cho người lao động phải kê khai đầy đủ với cơ
quan thuế và có trách nhiệm khấu trừ, thơng báo số thuế phải nộp cho từng người và nộp vào
NSNN(30). Nếu không khấu trừ, khi bị cơ quan thuế phát hiện thì chủ sử dụng lao động sẽ phải nộp
thay cho người lao động(31). Các quy định này đã đem lại kết quả giảm bớt các thủ tục hành chính
về ủy quyền thu thuế, tăng cường tính chủ động cho các tổ chức chi trả thu nhập và đảm bảo thu
nộp thuế kịp thời cho NSNN. Hơn nữa, tăng cường hoàn thiện các quy định về thủ tục kê khai
thuế, đăng ký thuế, quyết tốn thuế TNC, góp phần đảm bảo thực thi nguyên tắc công bằng không
chỉ trong quy định của pháp luật mà cịn q trình thu thuế TNC. Thơng qua các cơng ty kiểm tốn
Việt Nam và quốc tế thực hiện các biện pháp đối chiếu xác minh lại thu nhập, hoặc trao đổi thông
tin với các cơ quan thuế các quốc gia đã ký hiệp định tránh đánh thuế trùng với Việt Nam, cơ quan
thuế đã truy thu được số lượng tiền thuế khá lớn.

Trải qua hơn 15 năm áp dụng, Pháp lệnh thuế TNC bước đầu đã tạo điều kiện cho mọi

công dân Việt Nam làm quen dần với việc kê khai thu nhập và nhận thức được trách nhiệm và
nghĩa vụ nộp thuế thu nhập, duy trì nguồn thu ổn định NSNN, góp phần đảm bảo hơn nữa cơng
bằng xã hội. Mặc dù vậy, q trình hội nhập và liên kết kinh tế khu vực đòi hỏi nước ta phải có
những điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp với xu thế chung trên thế giới, tiến tới thống nhất
chính sách kinh tế khu vực nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh. Việc nghiên cứu ban hành Luật
thuế TNCN thay cho Pháp lệnh thuế TNC là một trong những nội dung điều chỉnh chính sách,
pháp luật thuế hiện hành ở Việt Nam.
1.4.3. Giai đoạn từ khi Quốc hội ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân đến nay
Thực tiễn Việt Nam cho thấy, đến trước ngày 27/11/2007 chúng ta vẫn chưa có sắc thuế
mang tên thuế TNCN mà chỉ tồn tại một loại thuế điều tiết trực tiếp vào thu nhập của cá nhân được
xem là có TNC trong xã hội. Đó chính là thuế TNC theo Pháp lệnh TNC ban hành lần đầu tiên
vào năm 1990, đã qua nhiều lần sửa đổi bổ sung, vẫn có hiệu lực thi hành đến cuối năm 2008. Hơn
15 năm qua thuế TNCN chỉ tồn tại dưới dạng pháp lệnh, tính pháp lý khơng cao đã ảnh hưởng
khơng nhỏ đến ý thức và tâm lý của các đối tượng nộp thuế, gây khó khăn cho cơng tác quản lý
thuế. Thêm vào đó, q trình hội nhập thu hút số lượng lớn các nhà đầu tư nước ngoài “nhảy” vào
thị trường Việt Nam nên thu nhập của các cá nhân trong xã hội càng trở nên đa dạng và gia tăng
thêm, khoảng cách giàu nghèo càng sâu sắc. Pháp lệnh thuế TNC đã khơng cịn phù hợp. Chúng ta
cũng khơng thể giữ mãi tên gọi là thuế TNC mà cần thiết chuyển sang thuế TNCN, bằng cách ban
hành Luật thuế TNCN nhằm khắc phục nhược điểm tồn tại của Pháp lệnh thuế TNC, đồng thời
30
31

Điều 9,10,12 Nghị Định 147/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (TNDVNCTNC)
Điều 16 Nghị Định 147/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế TNDVNCTNC.

Trang 21



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với thơng lệ quốc tế
và duy trì ổn định nguồn thu đóng góp vào NSNN. Theo đó, sự cần thiết ban hành Luật thuế
TNCN thể hiện:
Thứ nhất, ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm bảo ổn định nguồn lực
cho ngân sách nhà nước
Luật thuế TNCN cần thiết được nghiên cứu để ban hành góp phần tăng nguồn thu NSNN
trong hoàn cảnh Việt Nam đang tham gia xây dựng phát triển khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA)(32) (thơng qua cơng cụ chính là chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT)(33) và đã chính thức là thành viên của WTO. Theo đó, Việt Nam buộc phải thực hiện các
cam kết quốc tế về việc cắt giảm, tiến tới loại bỏ các biện pháp thuế quan và các hàng rào phi thuế
quan sẽ đem đến hệ quả nguồn thuế gián thu từ thuế NK sẽ bị chiết giảm mạnh mẽ. Thực tế, theo
kết quả nghiên cứu của các chuyên gia tài chính đã chỉ ra rằng, q trình hội nhập kinh tế có thể
làm giảm số thu ngân sách đến 2% GDP (10% trong tổng thu NSNN) qua thuế NK(34). Ngoài ra,
nguồn thu từ các doanh nghiệp Nhà nước và dầu thô là nguồn thu có hạn, khơng ổn định do ảnh
hưởng của chu kỳ kinh tế và hiện đang có xu hướng giảm dưới tác động của hội nhập kinh tế(35).
Như vậy, trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế và đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế hiện
nay, vấn đề bổ sung và đảm bảo cơ cấu nguồn thu ổn định và lâu dài cho NSNN đang trở thành
một trong những vấn đề cấp bách đối với nước ta.
Thêm vào đó, chúng ta vẫn chưa có được một cơ chế chặt chẽ cho phép có thể thu đủ các
loại thuế nội địa, đặc biệt là thuế TNDN, thuế GTGT. Tuy nhiên, cơ cấu thu từ thuế trực thu trong
tổng thu NSNN nước ta vẫn cịn nhỏ và vẫn cịn có khả năng huy động thêm nữa do tiềm năng dồi
dào từ thuế TNCN, thuế TNDN. Vì vậy, để đáp ứng những yêu cầu khi gia nhập WTO, bổ sung
thiếu hụt NSNN, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và tính toán tỷ lệ động viên từ thuế cho hợp lý
cho từng thời kỳ, nước ta cần sửa đổi, ban hành nhiều sắc thuế như: thuế hàng hóa, thuế TNDN và
thuế TNCN nhằm đảm bảo tỷ lệ điều tiết thích hợp trong cơ cấu nhóm thuế trực thu, gián thu.
Trong đó, việc nghiên cứu, ban hành thuế TNCN theo hướng mở rộng diện chịu thuế TNCN như
ở nước ta là cần thiết nhằm góp phần giảm tỷ lệ huy động từ thuế gián thu, từng bước đưa sắc thuế
này thành sắc thuế đại chúng.


32

33

34

35

Được ASEAN-6 ký kết vào năm 1992, AFTA tập trung vào cắt giảm thuế quan đối với nhiều sản phẩm đồng thời cố gắng loại bỏ các hàng rào
phi thuế quan, hạn chế về số lượng và các biện pháp qua biên giới khác.
Cơ chế Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung được thiết lập để thực hiện AFTA. Tính đến tháng 4-2006 Việt Nam đã thực hiện đúng lộ trình cam
kết đã cắt giảm thuế quan theo cam kết CEPT cho hơn 10.143 mặt hàng, chiếm 96% tổng số dòng thuế quan của Việt Nam, trong đó gần 8500
dịng thuế (74%) đã đạt mức 0-5%, tăng so với tỷ lệ 65,15% (2002). Qua nghiên cứu, việc thực hiện CEPT làm giảm nguồn thu NSNN Việt Nam
từ thuế NK đối với hàng từ ASEAN giảm 320 triệu USD, tương đương tới 75% tổng số thu thuế quan từ hàng NK ASEAN (Bùi Trường Giang
(2007), “Việt Nam với tiến trình hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN”, Nghiên cứu kinh tế, (số 349), tr. 12)
TS. Đỗ Ngọc Huỳnh – ThS. Nguyễn Văn Phụng (2005), “Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam: Đề xuất về định hướng thiết kế chính sách trong
giai đoạn mới”, Tạp chí Tài chính, (8), tr 47.
/>
Trang 22


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Thứ hai, việc ban hành Luật thuế TNCN nhằm hồn thiện hệ thống chính sách thuế,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo hài hòa các
sắc thuế trong hệ thống thuế
Qua hơn 20 năm đổi mới, tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam đã có những bước phát triển
đáng tự hào: kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao; hoạt động đầu tư kinh doanh không ngừng được
mở rộng và ngày càng phát triển với số lượng các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh ngày càng

gia tăng, đời sống và thu nhập của người dân dần được nâng lên. Thời gian gần đây ở nước ta, nhờ
mở cửa và cải cách, đời sống của người dân đã được cải thiện đáng kể, thu nhập bình quân đầu
người từ 282,1 USD/năm (năm 1995) đã tăng lên 402 USD/năm (năm 2000) và đến năm 2006 đạt
khoảng 640 USD/năm (36). Mặc dù, số hộ thật giàu chỉ mới đạt khoảng 10% tổng số hộ(37), nhưng
đã có sự chênh lệch rõ rệt so với số hộ nghèo về mức thu nhập, mức chi tiêu, về lao động và việc
làm, về giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, về tiện nghi sinh hoạt, khả năng tiết kiệm và tích lũy.
Theo đó, khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có TNC và nhóm người có thu
nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng (trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2004, khoảng
cách này đã tăng từ 3,7 lần lên đến 13,5 lần)(38).
Hơn nữa, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động
sản, lao động, khoa học cơng nghệ có sự phát triển mạnh mẽ; nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng
nhanh tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân bên cạnh thu nhập từ tiền lương, tiền cơng
cịn có thêm nhiều nguồn thu nhập khác từ hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh. Hiện nay, tiến
trình hội nhập kinh tế kéo theo số lượng lớn người nước ngoài đến làm ăn sinh sống tại Việt Nam,
đồng thời số người Việt Nam có thu nhập ở nước ngồi cũng ngày càng tăng. Vì vậy, sự đa dạng
và gia tăng thu nhập của các cá nhân trong xã hội là tác nhân chính càng làm gia tăng khoảng cách
giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đây là điều kiện cần thiết cho Nhà nước ban
hành Luật thuế TNCN điều tiết thu nhập của các cá nhân, góp phần đảm bảo tính hợp lý, cơng
bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa
các tầng lớp dân cư. Thông qua đó, Nhà nước sẽ nắm được thơng tin về thu nhập của cá nhân, vừa
thực hiện động viên nguồn lực và góp phần phịng chống tham nhũng, lãng phí.
Q trình hội nhập và liên kết kinh tế khu vực địi hỏi nước ta phải có những điều chỉnh
chính sách thuế cho phù hợp với xu thế chung trên thế giới, tiến tới thống nhất chính sách kinh tế
khu vực nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh. Hiện nay, việc điều tiết thu nhập của các cá nhân ở
Việt Nam được thực hiện thông qua 3 sắc thuế: một là, thuế TNDN áp dụng đối với cá nhân kinh
doanh; hai là, thuế TNC áp dụng cho người có thu nhập từ tiền lương, tiền công; ba là, thuế
CQSDĐ áp dụng đối với người có thu nhập từ CQSDĐ. Quy định này đã không đảm bảo được sự
36
37


38

/>Hội thảo lý luận giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc (2008), Phát triển kế hoạch hài hòa trong xây dựng kinh tế xã hội
xã hội chủ nghĩa lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.190.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban KT và NS của QH về dự án Luật thuế thu nhập cá nhân tải trên website: />
Trang 23


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

thống nhất trong việc điều tiết TNCN trong xã hội. Nhằm đảm bảo chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và phát triển kinh tế xã hội ổn định và bền vững thì chính sách thuế hiện hành điều tiết TNCN
đã khơng cịn phù hợp nên việc tiếp tục cải cách, hướng tới hoàn thiện hệ thống chính sách thuế
nói chung, thuế TNCN nói riêng là hết sức cần thiết để tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận
lợi, cơng bằng, bình đẳng, góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư, công nghệ và lao động chun
mơn cao trong và ngồi nước. Do đó, việc ban hành Luật thuế TNCN trên cơ sở hợp nhất 3 sắc
thuế trên là góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực; giải quyết tốt các mối quan hệ tiết
kiệm, đầu tư, tiêu dùng, quan hệ giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, ban hành Luật thuế TNCN nhằm hạn chế và khắc phục những bất cập
trong Pháp lệnh thuế TNC hiện hành
Thực tiễn áp dụng Pháp lệnh thuế TNC ở nước ta bên cạnh những thành tựu nói trên cũng
nhận thấy cịn nhiều mặt hạn chế cả về cơ chế chính sách và quản lý hành thu. Cụ thể:
Một là, Pháp lệnh thuế TNC đã không công bằng giữa các đối tượng nộp thuế khi có
sự phân biệt giữa người Việt Nam với người nước ngoài. Pháp lệnh thuế TNC đã lấy tiêu chí
“quốc tịch” và tiêu chí “cư trú” để xác định nghĩa vụ nộp thuế TNC. Trong đó, tiêu chí “quốc tịch”
áp dụng với người Việt Nam, tiêu chí “cư trú” lại áp dụng đối với người nước ngoài. Sự phân biệt
này tạo ra những tiêu thức đánh thuế không công bằng.
Ngay cả giữa người Việt Nam với nhau, cũng không được Pháp lệnh hiện hành (Pháp
lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11) đối xử công bằng trong khi xác định đối tượng nộp thuế TNC.
Pháp lệnh thuế TNC cũng đưa ra tiêu chí “quốc tịch” dùng làm căn cứ xác định nghĩa vụ thuế đối

với người Việt Nam. Do vậy, người mang quốc tịch Việt Nam nhưng cư trú ở nước ngoài cũng
cũng thuộc diện điều chỉnh của thuế TNC. Điều này không những khơng phù hợp với thơng lệ
quốc tế, mà nó cịn tạo ra sự bất bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế đối với người Việt Nam với
nhau. Và thực tế cho thấy, nhiều trường hợp công dân Việt Nam đi lao động, cơng tác ở nước
ngồi thì cơ quan thuế khơng cách gì quản lý được thu nhập của họ.
Hai là, Pháp luật thuế đã không công bằng giữa các cá nhân có thu nhập nhưng nộp
thuế theo những luật thuế có cơ sở đánh thuế khác nhau
Việc quy định cá nhân có thu nhập từ kinh doanh thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
thuế TNDN là bất hợp lý. Rõ ràng, thu nhập của cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh
đều cùng là TNCN, nhưng thu nhập của cá nhân kinh doanh phải chịu thuế suất TNDN ở mức
tương đối cao là 28%, trong khi đó thu nhập mang tính khơng kinh doanh (như: thu nhập từ tiền
lương, tiền công…) chỉ phải nộp thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần theo thuế suất thấp hơn
nhiều (thuế suất từ 0-40% tùy vào mức thu nhập). Thêm vào đó, sự điều chỉnh của pháp luật tản
mạn bao nhiêu thì vấn đề quản lý thu thuế lại càng khó bấy nhiêu. Trên thực tế, việc thu thuế
TNDN của các cá nhân kinh doanh gặp khơng ít khó khăn.

Trang 24


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Ba là, mức khởi điểm chịu thuế TNC theo pháp luật thuế TNC vẫn còn tồn tại một số
hạn chế. Đó là:
Trước tiên, việc xác định mức khởi điểm chịu thuế đối với các thu nhập thường xuyên
trong pháp luật thuế TNC hiện hành vừa cao, vừa bình qn nên chưa bảo đảm cơng bằng trong
điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư. Mức khởi điểm chịu thuế theo Pháp lệnh thuế TNC
năm 2004 đối với người Việt Nam là trên 5 triệu đồng/tháng, người nước ngồi là trên 8 triệu
đồng/tháng mà khơng áp dụng mức GTGC (39). Mức khởi điểm này cao hơn rất nhiều so với GDP
bình quân đầu người (năm 2004 ước khoảng 745.000 đồng/người/tháng) hoặc thu nhập bình quân
đầu người (năm 2004 ước khoảng 489.000 đồng/tháng) và cao hơn mức chiết trừ gia cảnh của

nhiều nước(40). Từ trước tới nay, Pháp luật thuế TNC chỉ mới quan tâm đến việc cá nhân có những
khoản thu nhập nào khơng mang tính kinh doanh và cũng chỉ dừng lại ở việc xác định thu nhập là
bao nhiêu để xác định mức thuế Nhà nước điều tiết. Ở đây, Nhà nước chỉ thực hiện điều tiết thuế
TNC mà chưa quan tâm đến việc khấu trừ chi phí tạo ra thu nhập, cũng khơng tính đến gia cảnh
của người nộp thuế như ở các nước phát triển. Theo đó, dù đối tượng nộp thuế là người độc thân
hay là người phải gánh vác gia đình trong việc nuôi dạy con cái, phụng dưỡng bố mẹ già yếu hoặc
là những người thân thích khơng nơi nương tựa thì đều phải nộp thuế với cùng một mức khởi điểm
chịu thuế. Quy định này làm cho việc điều tiết thuế TNC mang tính “cào bằng” nhiều hơn là “cơng
bằng”, càng làm lộ rõ nhược điểm bình qn của Pháp lệnh thuế TNC.
Hơn nữa, việc xác định mức khởi điểm chịu thuế đối với các thu nhập thường xuyên trong
Pháp lệnh thuế hiện hành chưa tính đến mức độ giá cả khác nhau, điều kiện sinh hoạt khác nhau
của cá nhân ở những vùng khác nhau ở nước ta. Vì ở những địa phương khác nhau thì mức độ giá
cả đắt đỏ cũng như các điều kiện sinh hoạt sẽ có sự khác nhau nên số tiền mà các cá nhân sử dụng
vào phục vụ nhu cầu sinh hoạt của mình sẽ khác nhau. Sự khác nhau này có ảnh hưởng không nhỏ
đến thu nhập của các cá nhân và kéo theo sự ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế của họ.
Bốn là, việc áp dụng hai biểu thuế lũy tiến từng phần khác nhau với những mức khởi
điểm chịu thuế không giống nhau đã dẫn đến sự phân biệt đối xử giữa người Việt Nam và
người nước ngoài. Vì thế, người Việt Nam chỉ cần có thu nhập tới 40 triệu đồng/tháng là đã phải
chịu mức thuế suất cao nhất (40%), trong khi người nước ngoài phải đến 80 triệu đồng mới phải
chịu mức thuế này. Quy định này tạo tâm lý “ngần ngại” cho các nhà tuyển dụng nước ngồi,
khơng khuyến khích doanh nghiệp th lao động Việt Nam, làm mất lợi thế lao động rẻ của ta,
mất cơ hội để lao động trong nước tiếp cận với cơng nghệ tiên tiến. Do đó, q trình tuyển dụng
lao động vào làm việc tại cơng ty nước ngồi, vấn đề thuế TNCN luôn là một rào cản lớn đối với
lao động Việt Nam.

39

Khoản 4 điều 1 Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11 ngày 24/03/2004 sửa đổi một số điều về Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao
40

http: vietnamese-law-consultancy.com/vietnamese/content/browse.php?action=shownews&category=&id=64&topicid=953

Trang 25


×