Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.59 KB, 61 trang )

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

LÊ THANH THUẤN

ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM- 2008
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

1

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH



KHỐ LUẬN TỐT NGHIÊP CỬ NHÂN LUẬT

ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

SINH VIÊN THỰC HIỆN:
LÊ THANH THUẤN
Khoá: 29
MSSV:
2920192
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. HÀ THỊ THANH
BÌNH

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

2

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

LỜI CAM ĐOAN
Tơi là Lê Thanh Thuấn, sinh viên Lớp Thương mại 29B, Trường Đại

học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu do chính tơi thực hiện. Những số liệu trong khóa luận này hồn tồn
trung thực.
LÊ THANH THUẤN

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

3

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Hà Thị
Thanh Bình người đã định hướng, chỉ bảo và tạo điều kiện
cho em hồn thành tốt nhất khố luận.
Em cảm ơn thầy cơ Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh trong suốt bốn năm qua đã chỉ dạy và truyền đạt
cho em kiến thức, những kinh nghiệm quý giá và chuẩn
bị cho em hành trang, nghị lực cùng niềm tin bước vào
cuộc sống.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, anh chị
và bạn bè đã luôn ở bên tôi, động viên, giúp đỡ tơi hồn
thành khố luận tốt nghiệp.

Sinh viên Lê Thanh Thuấn


Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

4

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bên nhượng quyền
Bên nhận quyền
:
Nghị định 35/2006/NĐ-CP :
Nhượng quyền thương mại :
Sở hữu công nghiệp
:

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

5

:

BNQ
BNhQ
NĐ 35

NQTM
SHCN

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

MỤC LỤC
---------------  -----------------Trang
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ ĐỐI
TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI .................. 5

1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ................................... 5
1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương
mại .......................................................................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm về hoạt động nhượng quyền thương mại ......................................
9
1.1.3. Đặc trưng của hoạt động nhượng quyền thương mại ......................................
12
1.1.4. Lợi ích của hoạt động nhượng quyền thương mại ........................................... 15
1.2. ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI ....... 18
1.2.1. Khái niệm ....................................................................................................... 18
1.2.2. Đặc điểm ....................................................................................................... 21

CHƯƠNG 2:

ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN


THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

2.1.

ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ................................................................
23

2.1.1. Quy định của pháp luật về quyền thương mại ................................................. 23
2.1.2. So sánh đối tượng của NQTM với đối tượng của hoạt động CGCN và đối
tượng của hoạt động li-xăng ..................................................................................... 35
2.2. CÁC HÌNH THỨC NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI................................ 38
2.2.1. NHƯỢNG QUYỀN PHÂN PHỐI SẢN PHẨM .............................................. 39

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

6

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

2.2.2. NHƯỢNG QUYỀN SẢN XUẤT (PROCESSING FRANCHISE) ..................... 41
2.3. ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VỚI
VẤN ĐỀ HẠN CHẾ CẠNH TRANH .......................................................................... 43

2.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI TƯỢNG CỦA
HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI.................................................... 45

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 50

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

7

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

LỜI NĨI ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới trong xu thế tồn cầu hố
đang từng giờ, từng ngày tác động lên các quan hệ xã hội tại Việt Nam. Hịa vào
dịng chảy đó, Việt Nam cũng khơng ngừng đổi mới, phát triển kinh tế, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, mở cửa “chào đón làn sóng đầu tư mới tràn vào Việt Nam” và
hội nhập với khu vực và thế giới. Theo bước các nhà đầu tư nước ngoài là những
phương thức kinh doanh mới du nhập vào Việt Nam, trong đó có hoạt động nhượng
quyền thương mại.
Trong suốt hai thập kỉ qua, hoạt động nhượng quyền thương mại đang dần
hình thành và phát triển tại Việt Nam. Nhưng hoạt động này còn quá mới đối với
các doanh nghiệp và cả các nhà kinh tế, nhà làm luật. Vì thế, dù đã bước sang năm
thứ ba Luật Thương mại 2005 được thực thi song số văn bản quy phạm pháp luật
ban hành về hoạt động nhượng quyền thương mại cịn rất ít: 8 điều tại Mục 8 Chương VI - Luật Thương mại 2005, Nghị định 35/2006/NĐ-CP (ngày 31/03/2006)

quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại và
Thông tư 09/2006/TT-BTM (ngày 25/05/2006) hướng dẫn đăng ký hoạt động
nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, những quy định trong những văn bản trên là
rất cơ bản nhằm tạo khung pháp lý định hướng cho hoạt động nhượng quyền thương
mại phát triển. Chính sự khơng cụ thể trong những quy định của pháp luật làm cho
việc xác định đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại càng trở nên khó
khăn. Bởi khi nhìn vào một quan hệ hay một hoạt động nào đó, điều mà người ta
thường chú ý và tập trung trước tiên, nhiều nhất là đối tượng của chúng. Mỗi một
lĩnh vực, ngành luật cũng có đối tượng nghiên cứu của riêng mình và đối tượng góp
phần khơng nhỏ để xác định bản chất của ngành luật đó. Trong khi đó, đối tượng
của hoạt động nhượng quyền thương mại là vấn đề hết sức phức tạp, đan xen các
yếu tố thuộc sự điều chỉnh của nhiều lĩnh vực pháp luật khác, ví dụ như pháp luật về
sở hữu trí tuệ - đây cũng là lĩnh vực phức tạp, vấn đề thực thi pháp luật trong lĩnh
vực này cũng đầy khó khăn. Mặt khác, đối tượng của hoạt động nhượng quyền
thương mại lại có nhiều nét tương đồng với đối tượng của hoạt động chuyển giao
công nghệ và hoạt động li-xăng1. Điều này dễ làm người ta nhầm lẫn giữa các hoạt
1

Hoạt động li-xăng là hoạt động chuyển giao các đối tượng quyền sở hữu cơng nghiệp (gồm: sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu).
Thuật ngữ “li-xăng” theo tiếng La-tinh, tiếng Anh hay tiếng Pháp, đều có nghĩa là “sự cho phép”.
Vì chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu được độc quyền
cho/không cho người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, nên việc sử dụng các đối tượng
Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

8

LÊ THANH THUẤN



Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

động này. Bên cạnh đó, vì đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại có
liên quan tới nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Do đó, khi áp dụng tổng hợp
những quy định của pháp luật cho hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ tạo ra
những “kẽ hở” hoặc sự khơng chặt chẽ trong chính những quy định pháp luật đó tạo
điều kiện cho các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại thỏa thuận hay thực
hiện những hành vi có liên quan tới vấn đề hạn chế cạnh tranh.
Chính vì vậy, khi nền kinh tế nước ta đang có những bước tiến nhanh và
mạnh. Hoạt động nhượng quyền thương mại có xu hướng phát triển mạnh mẽ và có
thể trở thành phương thức kinh doanh của tương lai. Đồng thời, nhằm thúc đẩy các
thương hiệu mạnh trong nước tăng cường sức mạnh, tạo nội lực và quảng bá hình
ảnh của mình ra ngồi lãnh thổ, với khẩu hiệu: “Thương hiệu Việt hướng ra thế
giới”. Thì việc nghiên cứu về đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại
trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành là điều cần thiết, góp phần
hồn thiện khung pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.
Vì vậy, đề tài “đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại – Lý luận và
thực tiễn” được tác giả chọn cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA KHỐ LUẬN
Thơng qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành, gắn với
lý luận và thực tiễn về hoạt động nhượng quyền, tác giả đi vào làm sáng tỏ “đối
tượng của nhượng quyền thương mại”, những vướng mắc và hạn chế trong quy định
của pháp pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Đồng thời, phản ánh đúng bản chất của
hoạt động này trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Để thực hiện được mục đích
đó, nhiệm vụ của đề tài là:
Thứ nhất, đưa ra cái nhìn tổng quan về hoạt động nhượng quyền thương mại
cũng như các đặc điểm đặc trưng để rút ra ý nghĩa thực tiễn của hoạt động nhượng
quyền thương mại.

Thứ hai, khóa luận sẽ đi sâu làm sáng tỏ đối tượng của nhượng quyền thương
mại với những quy định của pháp luật hiện hành, từ đó thấy được những vướng
mắc, khó khăn khi áp dụng quy định của pháp luật trong thực tiễn.
Từ những phân tích đánh giá của hai phần trên, góp một vài kiến nghị nhỏ về
đối tượng của nhượng quyền thương mại nhằm hoàn thiện pháp luật về nhượng
quyền thương mại.

này cần phải được sự cho phép của chủ sở hữu đối tượng quyền sở hữu công nghiệp. (Lê Nết
(2006), Quyền sở hữu trí tuệ, NXB Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM, tr. 188).
Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

9

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong suốt khóa luận, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
nghiên cứu lịch sử để phân tích và làm rõ những vấn đề mang tính lý luận chung về
đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại.
Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và liên hệ, khóa luận dựa
trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật về nhượng quyền thương
mại nói chung và những quy định của pháp luật thực định liên quan tới đối tượng
của hoạt động nhượng quyền thương mại để thấy được những vướng mắc, thiếu sót
và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đối tượng của hoạt động
nhượng quyền thương mại nói riêng và pháp luật nhượng quyền cũng như pháp luật

thương mại nói chung.
4. THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
Trong khoảng hơn ba năm trở lại đây các báo, tạp chí, website có nói nhiều
về hoạt động nhượng quyền thương mại. Nhưng thực tiễn nghiên cứu về hoạt động
này còn hết sức hạn chế. Nếu có cũng chỉ là những bài báo, cao hơn là sách tham
khảo cho các doanh nghiệp như: sách “Hợp đồng thương mại quốc tế” của các tác
giả Nguyễn Văn Luyện - Lê Thị Bích Thọ - Dương Anh Sơn (2004), NXB Cơng an
nhân dân; sách “Franchise - Bí quyết thành cơng bằng mơ hình nhượng quyền
thương mại” và “Mua Franchise - cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam” của
tác giả Lý Quí Trung (2006), NXB Trẻ - nhưng cả hai cuốn sách của tác giả này chủ
yếu nhìn nhận hoạt động nhượng quyền thương mại ở góc độ kinh tế và là tài liệu
cho các doanh nhân, những người khác muốn kinh doanh theo phương thức này;
Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật nhượng quyền thương mại ở Việt Nam_ Thực
trạng và định hướng hoàn thiện” của Vũ Hương Giang (2006), Đại học Luật Tp.
HCM; Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Chế độ pháp lý về nhượng quyền thương
mại theo Luật Thương mại 2005” của Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), Đại học
Luật Tp. HCM; Bài viết “Hoàn thiện khung pháp lý về nhượng quyền thương mại”
của Bùi Ngọc Cường đăng trên Nghiên cứu lập pháp số 8 (105) tháng 8/2007; bài
viết “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh” của tác giả
Nguyễn Thanh Tú đăng trên Nghiên cứu lập pháp số 3 (95), tháng 3/2007.
Tuy nhiên, tất cả sách, tài liệu, bài viết trong nước chỉ đề cập tới hoạt động
nhượng quyền thương mại ở mức độ khái quát, chưa thực sự tập trung vào một vấn

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

10

LÊ THANH THUẤN



Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

đề chun biệt, ví dụ như đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại. Vì
vậy, trong khóa luận này, tác giả sẽ đi sâu vào nghiên cứu đối tượng của hoạt động
nhượng quyền thương mại. Từ đó chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong quy định
của pháp luật hiện hành và đưa ra những giải pháp khắc phục.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Trong khóa luận, tác giả tập trung đi vào nghiên cứu đối tượng của nhượng
quyền thương mại trong pháp luật Thương mại và các lĩnh vực pháp luật có liên
quan. Từ lý luận và thực tiễn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn khung
pháp lý điều chỉnh đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại và pháp luật
điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại.
6. NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI
Trong khoá luận tác giả đi sâu vào nghiên cứu đối tượng của hoạt động
nhượng quyền thương mại, với cách tiếp cận mới này sẽ góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề mà pháp luật Việt Nam hiện hành còn bỏ ngỏ, chưa thực sự có những
quy định cụ thể, rõ ràng.
Khố luận này cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên muốn nghiên
cứu về đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại nói riêng và hoạt động
nhượng quyền thương mại nói chung. Hay làm tài liệu cho các bạn trẻ ít vốn muốn
bước vào lĩnh vực kinh doanh mới, cũng như cho các doanh nghiệp trên bước
đường hội nhập với xu hướng nhượng quyền thương mại đang phát triển mạnh mẽ
trên thế giới và tại Việt Nam.
7. CƠ CẤU CỦA KHỐ LUẬN
Khóa luận bao gồm:
-

Lời nói đầu.


-

Phần nội dung:
+ Chương 1: Khái quát về hoạt động nhượng quyền thương mại và đối
tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại.
+ Chương 2: Đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại theo
pháp luật Việt Nam và một số kiến nghị.

-

Kết luận.

-

Danh mục tài liệu tham khảo.

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

11

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM VÀ ĐỐI
TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG NQTM

1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền
thương mại
1.1.1.1. Trên thế giới
Nhượng quyền thương mại là phương thức tiếp thị và phân phối hàng
hoá/cung ứng dịch vụ; là phương thức nhân rộng mơ hình kinh doanh có xuất xứ từ
Châu Âu cách đây hơn trăm năm nhưng lại phát triển mạnh mẽ tại Hoa Kỳ. Năm
1840, các nhà sản xuất bia của Đức đã cho phép một vài quán bia bán sản phẩm của
họ. Năm 1851, lần đầu tiên trên thế giới hãng máy khâu Singer đã kí hợp đồng
NQTM với các thương nhân địa phương, là những người sẽ bán máy khâu và dạy
cách sử dụng cho khách hàng. Nhờ vậy mà Singer đã nhanh chóng mở rộng thị
trường và thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động này. Đến những năm 1880,
nhượng quyền thương mại chuyển sang lĩnh vực gas, xe hơi, dầu lửa. Tuy nhiên,
hình thức kinh doanh này mới chỉ dừng lại ở nhượng quyền phân phối hay bán sản
phẩm của nhà sản xuất2.
Đến những năm sau Thế chiến thứ II (1945), cùng với sự bùng nổ về dân số
đã kéo theo nhu cầu về sản phẩm/ dịch vụ tăng lên nhanh chóng. NQTM cũng thực
sự bùng nổ và phát triển mạnh, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng, khách
sạn và chuỗi các cửa hàng ăn nhanh. Với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng,
khách sạn cũng như hệ thống phân phối theo hình thức bán lẻ có sự đồng nhất về cơ
sở hạ tầng, về phong cách phục vụ, thương hiệu là những nét đặc trưng của phương
thức kinh doanh này. Tới thập niên sáu mươi, bảy mươi của thế kỉ XX, NQTM trở
thành phương thức kinh doanh thịnh hành và thành cơng khơng chỉ tại Mỹ mà cịn ở
nhiều nước Tây Âu khác.
Ngày nay, cùng với xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên nhiều
lĩnh vực đem đến cho hoạt động NQTM nhiều cơ hội để khẳng định thế mạnh của
phương thức kinh doanh tiên tiến và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong khi ở Hoa
Kỳ và ở các nước Tây Âu, Nhật Bản, NQTM đã bước qua giai đoạn phát triển đỉnh
cao thì hoạt động này có xu hướng lan rộng và phát triển nhanh chóng ở Châu Á. Vì
vậy, NQTM đã có ở hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, doanh thu từ hoạt động này

2

/>
Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

12

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

mang lại khoảng 1000 tỉ USD với khoảng 320.000 doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh dưới phương thức kinh doanh NQTM trong 75 ngành nghề khác nhau (năm
2000)3.
Vì sự phát triển của hoạt động NQTM mà nhiều tổ chức phi chính phủ được
thành lập với mục đích: hỗ trợ, thúc đẩy và quảng bá cho hoạt động NQTM. Điển
hình như: Hội đồng Nhượng quyền thương mại thế giới (World Franchise Counsil)
ra đời năm 1994 với thành viên là các Hiệp hội nhượng quyền của nhiều quốc gia.
Một tổ chức uy tín phải kể đến là Hiệp hội Nhượng quyền thương mại quốc tế
(International Franchise Association) thành lập năm 1960, bao gồm 30.000 thành
viên là các doanh nghiệp mua, bán nhượng quyền. Thông qua các tổ chức này,
nhiều hoạt động hữu ích cho các doanh nghiệp, cho nền kinh tế các quốc gia đã
được thực hiện như: tổ chức các hội chợ nhượng quyền thương mại quốc tế, xây
dựng niên giám NQTM khu vực và trên thế giới, hợp tác xuất bản các ấn phẩm
chuyên ngành, các website để cung cấp thông tin cho các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp quan tâm tới hoạt động NQTM4.
Tóm lại, NQTM đã phát triển mạnh mẽ ở Hoa Kì, các nước Châu Âu, nay

đang lan rộng và bùng nổ tại Châu Á trong đó có Việt Nam. Nước ta cũng khơng
ngừng đổi mới để hòa vào dòng chảy chung của thế giới và được coi là vùng đất
mới với những điều kiện hết sức thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động NQTM.
1.1.1.2.

Tại Việt Nam

NQTM đã phát triển rất lâu tại Châu Âu và thành cơng rực rỡ tại Hoa Kì. Mơ
hình nhượng quyền thương mại đã được áp dụng và đem lại lợi nhuận lớn cho các
chủ thương hiệu như hệ thống các cửa hàng ăn nhanh, các khách sạn: McDonald’s,
KFC, Wendy hay chuỗi cửa hàng tiện ích Seven-Eleven hoặc chuỗi khách sạn
Marriott.... Nhưng ở Việt Nam, hoạt động NQTM còn mới đối với các doanh
nghiệp và những nhà làm luật. Hoạt động này manh nha tại Việt Nam vào thập kỉ
chín mươi của thế kỉ trước. Một trong những doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực
nhượng quyền là Trung Nguyên, thương hiệu cà phê số một Việt Nam. Doanh
nghiệp này đã được thành lập từ năm 1996, khởi nghiệp của cà phê Trung Nguyên
là một cơ sở rang xay nhỏ tại quê hương. Với ước mơ tạo dựng một vị thế trước hết
trên thị trường Việt Nam, trăn trở một cách tiếp thị mới để mang sản phẩm đến
người tiêu dùng. Trung Nguyên đã lựa chọn một phương thức làm ăn mới, đó là mở
hàng loạt các quán cà phê mang tên Trung Nguyên nhưng do người khác làm chủ.
3
4

/> />
Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

13

LÊ THANH THUẤN



Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

Tại đó, bán cà phê của Trung Ngun, kinh doanh theo phong cách của Trung
Nguyên, nhận trợ giúp, hỗ trợ về cách pha chế, phục vụ, trang trí… từ Trung
Nguyên, nhưng điều quan trọng nhất là “thương hiệu Trung Nguyên” vẫn được giữ
nguyên. Cách làm mới này của Trung Nguyên chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam tại
thời điểm đó. Từ đó, hệ thống Trung Nguyên được mở rộng, hàng trăm quán cà phê
mang tên Trung Nguyên đã mọc lên ở Việt Nam và ở nước ngoài. Đến nay Trung
Nguyên đã có trên 1000 quán mang thương hiệu của mình, trong đó có nhiều qn ở
Nhật, Thái, Trung Quốc, Singapore... Doanh nghiệp này cũng đang tiếp tục mở rộng
tên tuổi của mình sang Mỹ, Đức, Úc và nhiều nước khác5.
Theo sau Trung Nguyên là hàng loạt các thương hiệu Việt tên tuổi khác đã áp
dụng hình thức kinh doanh này đề mở rộng và phát triển thương hiệu của mình: như
Phở 24 sau 3 năm nhượng quyền đã có 35 cửa hàng, trong đó có 8 cửa hàng nhượng
quyền. Dự kiến năm 2008 sẽ có 100 cửa hàng tại Việt Nam. Thương hiệu Phở 24
cũng đã xuất hiện tại Philippines, Indonesia, Singapore, hiện đang chuẩn bị ra mắt
tại Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Đây là doanh nghiệp sử dụng triệt
để hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại để mở rộng thương hiệu của
mình6.
Kinh Đô Bakery, một trong những công ty sản xuất bánh kẹo với thị phần lớn
nhất Việt Nam. Hiện Kinh Đô đã có mạng lưới 150 nhà phân phối và trên 30.000
điểm bán lẻ rộng khắp cả nước với nhiều chủng loại sản phẩm bánh kẹo. Trong đó,
có nhiều cửa hàng áp dụng phương thức nhượng quyền. Ngày 10 tháng 4 năm 2005,
cửa hàng nhượng quyền đầu tiên của Kinh Đô đã đi vào hoạt động tại Quận Tân
Bình, TP. Hồ Chí Minh. Theo đó, Kinh Đơ là cơng ty thực phẩm trong nước đầu
tiên nhượng quyền kinh doanh cho một cửa hàng bán lẻ. Bên nhận quyền của Kinh
Đô bỏ vốn đầu tư mở cửa hàng bánh dưới sự hỗ trợ và kiểm duyệt của Kinh Đô,

được chuyển giao mô hình kinh doanh chuẩn, cơng nghệ sản xuất bánh tại cửa hàng,
bí quyết kinh doanh... Đồng thời khách hàng cũng được hưởng các dịch vụ khuyến
mãi, hậu mãi từ công ty Kinh Đô. Việc nhượng quyền của Kinh Đô nằm trong mục
tiêu 100 cửa hàng trong 3 năm và chiến lược phát triển bền vững trong tiến trình hội
nhập với thế giới7.
Tiếp đó phải nói tới hãng thời trang Foci, cho tới thời điểm cuối năm 2007 Foci
đã có mặt tại hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Trong 48 cửa hiệu thời trang
Foci hiện nay có tới 35 cửa hiệu nhượng quyền thương mại. Đến năm 2008, Foci dự
5

/> />7
/>6

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

14

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

kiến có tối thiểu 100 cửa hiệu trên tồn quốc. Foci cịn dự kiến mở cửa hiệu tại Mỹ
theo phương thức nhượng quyền thương mại. Với mục tiêu xây dựng một thương
hiệu thời trang mang đẳng cấp quốc tế và sẽ đưa Foci hướng ra thế giới bằng con
đường nhượng quyền thương mại8.
Bên cạnh đó, nhiều tập đồn lớn của thế giới đã “đổ bộ” vào Việt Nam như:
Jollibee, Carvel, Baskin Robbins, Texas Chicken, Kentucky Fried Chicken,

Chili’s… để tìm cơ hội phát triển thương hiệu của mình. Gần đây nhất là thương
hiệu cà phê nổi tiếng nhất nước Úc - Gloria Jean’s đã vào thị trường Việt Nam bằng
hợp đồng nhượng quyền thương mại với công ty Viet Lifestyle. Đây là tập đồn có
hệ thống NQTM lớn nhất thế giới với khoảng 800 điểm nhận nhượng quyền trên 30
quốc gia: Nhật, Philipines, Malaysia, Singapore… Tháng 4/2007, Gloria Jean’s
coffees đã khai trương cửa hàng nhượng quyền đầu tiên tại Hà nội, đó là cửa hàng
thứ hai có vốn đầu tư 250.000 USD mà công ty Viet Lifestyle - đại lý NQTM của
Gloria tại Việt Nam mở sau cửa hàng đầu tiên khai trương tại Tp. Hồ Chí Minh vào
tháng 1/20079. Các thương hiệu nổi tiếng thế giới khác như: Dunkin Donuts, Mc
Donald’s… đã kết thúc giai đoạn nghiên cứu thị trường và cũng đang chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để thâm nhập thị trường Việt Nam.
Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao cộng với môi trường đầu tư ngày càng được mở rộng, số lượng
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn trong số các doanh nghiệp đang hoạt
động trên thị trường, kết cấu dân số trẻ là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho
NQTM phát triển. Theo điều tra của Hội đồng Nhượng quyền thương mại thế giới
(World Franchise Council), năm 2004 Việt Nam có 70 hệ thống nhượng quyền
thương mại hoạt động do cả doanh nghiệp trong và ngoài nước tiến hành với các tên
tuổi điển hình như: KFC, Trung Nguyên, Phở 24, Lotteria, Jollibee… Tuy nhiên,
cuộc cạnh tranh trên lĩnh vực này dường như mới chỉ bắt đầu.10 Bởi nhượng quyền
thương mại là hình thức kinh doanh mới, tính cạnh tranh trong lĩnh vực này rất cao
và mới chỉ khởi đầu tại Việt Nam. Có thể nói đây là con đường mới, một cách thức
kinh doanh mới cho các tập đoàn, doanh nghiệp, thương hiệu lớn của thế giới tiến
vào thị trường phân phối còn non trẻ của Việt Nam. Đồng thời, đó cũng là phương
thức để các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có thể đứng vững trên chính thị
trường Việt Nam. Đây cũng là cách để các thương hiệu Việt nổi tiếng có cơ hội
khẳng định mình, tập trung sức mạnh nội lực và vươn ra ngoài lãnh thổ.
8

/> />10

/>9

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

15

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

1.1.2. Khái niệm về hoạt động nhượng quyền thương mại
Trên thế giới NQTM đã có lịch sử phát triển khá lâu nhưng cho đến nay vẫn
chưa có một định nghĩa thống nhất về hoạt động này giữa các quốc gia cũng như
các nhà nghiên cứu.
o Tuy nhiên, hiểu một cách đơn giản nhất thì NQTM là phương thức kinh
doanh trong đó: Bên nhượng quyền (BNQ) cho phép Bên nhận quyền (BNhQ) sử
dụng phương thức kinh doanh và quyền sử dụng một hoặc một số đối tượng quyền
sở hữu công nghiệp (SHCN) thuộc sở hữu của BNQ. Đồng thời thực hiện việc kiểm
tra, giám sát đối với BNhQ và thu một khoản phí nhất định. Ngược lại BNhQ được
phép sử dụng quyền thương mại do BNQ chuyển giao và trả một khoản phí nhất
định.
o Theo Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế (International Franchise
Association – IFA): “NQTM là một quan hệ ổn định và liên tục, trong đó BNhQ
nhận được một đặc quyền thương mại được cấp phép bởi BNQ để tiến hành hoạt
động kinh doanh dưới cùng một thương hiệu với BNQ, đồng thời với việc nhận
được sự hỗ trợ của bên này. Đổi lại, BNhQ trả một khoản phí được xem như là một
sự trao đổi ngang giá (consideration) với đặc quyền được hưởng từ BNQ”11.

o Hội đồng thương mại liên bang Hoa Kì (The US Federal Trade
Commission – FTC) định nghĩa như sau: “NQTM là một thỏa thuận giữa hai hay
nhiều người, trong đó BNhQ được cấp quyền bán hoặc phân phối sản phẩm/dịch vụ
theo cùng một kế hoạch hay hệ thống tiếp thị của BNQ.
Hoạt động kinh doanh của BNhQ phải triệt để tuân thủ kế hoạch hay hệ thống
tiếp thị gắn liền với nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng, tiêu chí quảng cáo và
những biểu tượng thương mại khác của BNQ.
BNhQ có nghĩa vụ trả một khoản phí trực tiếp hoặc gián tiếp, gọi là phí nhượng
quyền”12.
o Trong khi đó, Liên minh Châu Âu (EU) lại định nghĩa nhượng quyền theo
hướng nhấn mạnh đến quyền của BNQ, khi sử dụng một tập hợp các quyền sở hữu
trí tuệ. Mặc dù, ghi nhận vai trị của thương hiệu, hệ thống và bí quyết kinh doanh
của BNQ, nhưng lại không đề cập đến các đặc điểm khác của NQTM: “Nhượng
quyền thương mại là tập hợp các quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ có liên
quan tới nhãn hiệu hàng hố, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích,
11
12

www.franchise.org.au.
Enwin J.Keup, Franchise Bible, The Oasis Press, Fourth Edition, pp 5.

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

16

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008


GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản
phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng”13.
Mặc dù hoạt động NQTM đã hình thành và phát triển tại Việt Nam từ thập
niên chín mươi của thế kỉ XX. Nhưng cho tới trước thời điểm Luật Thương mại
2005 được ban hành và có hiệu lực (ngày 01/01/2006) thì hoạt động NQTM mới
được đề cập tại điều 4.1.1- Thông tư 1254/1999/BKHCNMT (ngày 12/07/1999)
hướng dẫn thực hiện Nghị định 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ (CGCN)
với cụm từ: “Hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh, có tên tiếng Anh là
Franchise”.
Hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh được hiểu là: “các hợp đồng với nội
dung cấp li-xăng, sử dụng nhãn hiệu hàng hố, kèm theo các bí quyết sản xuất, kinh
doanh được chuyển từ nước ngoài vào Việt Nam có giá trị thanh tốn cho một hợp
đồng trên 30.000 USD”.
Nối tiếp Thơng tư 1254, NQTM cịn được ghi nhận trong một văn bản có giá
trị pháp lý cao hơn với tên “cấp phép đặc quyền kinh doanh” trong Nghị định
11/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy định chi tiết về chuyển giao công
nghệ (Nghị định này được ban hành ngày 02/02/2005 thay thế cho Nghị định
45/1998/NĐ-CP): “Cấp phép đặc quyền kinh doanh, theo đó, bên nhận sử dụng tên
thương mại, nhãn hiệu hàng hố và bí quyết của bên giao để tiến hành hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại”. Tuy nhiên, khái niệm này không
đủ thể hiện rõ được bản chất của hoạt động NQTM, khái niệm này được đưa ra
nhằm tháo gỡ những vướng mắc tạm thời trong quá trình thực hiện Nghị định
45/NĐ-CP về CGCN, cũng như “lấp lỗ hổng” mà pháp luật thực định Việt Nam
thời điểm đó chưa ghi nhận. Trong khi nền kinh tế đã bước sang giai đoạn hội nhập,
các quan hệ xã hội mới không ngừng phát sinh và đòi hỏi phải được sự điều chỉnh
của pháp luật để các quan hệ xã hội này nằm trong trật tự quản lý của nhà nước.
Trên thực tế, thì những hợp đồng có bản chất của NQTM đã và đang chịu sự điều
chỉnh của hai hệ thống pháp luật hiện hành liên quan tới sở hữu trí tuệ và chuyển

giao công nghệ.
Sự phát triển của nền kinh tế đất nước cũng như quá trình hội nhập với nền
kinh tế thế giới đã đặt các nhà lập pháp Việt Nam trước nhiệm vụ nặng nề, đầy khó
khăn là phải ban hành những văn bản pháp luật có tính thực tiễn, mở rộng khuôn
pháp lý để tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đồng
thời điều chỉnh các quan hệ xã hội đã và đang phát sinh trên thực tế. Chính vì vậy,
13

www.vietnambranding.com/baivietkienthuc.php?cat=0&category=0&id=399.

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

17

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

NQTM đã được đưa vào dự thảo Luật Thương mại sửa đổi trình Quốc hội tại kì họp
thứ 6 Quốc hội khoá 11(Dự thảo 8 Luật thương mại sửa đổi liên quan đến NQTM)
đưa ra định nghĩa như sau: “NQTM là hoạt động thương mại, theo đó BNQ chấp
thuận trao quyền và cung cấp các hỗ trợ cho BNhQ để bên đó bán hàng hố, cung
ứng dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hoá, hệ thống, phương thức do BNQ xác định
trong một khoảng thời gian và phạm vi địa lý nhất định”. Kết quả là NQTM đã xuất
hiện trong Luật thương mại 2005 (có hiệu lực ngày 01/01/2006):
o “NQTM là hoạt động thương mại, theo đó BNQ cho phép và yêu cầu
BNhQ tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều

kiện sau đây:
(a) Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức kinh doanh do BNQ quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hố,
tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của BNQ.
(b) BNQ có quyền kiểm sốt và trợ giúp cho BNhQ trong việc điều hành
cơng việc kinh doanh”14.
Nhìn ở góc độ kinh tế, NQTM là phương thức mở rộng thị trường tiêu thụ do
một chủ thể kinh doanh đã thành công trên thương trường muốn mở rộng việc phân
phối hàng hoá/cung ứng dịch vụ của mình qua những cơ sở kinh doanh do những
chủ thể độc lập khác sở hữu - những người này sẽ sử dụng phương thức kinh doanh
và hoạt động dưới tên thương mại của chủ thể đã thành công. Đồng thời với việc
chuyển giao quyền thương mại, chủ thể nhượng quyền cịn thực hiện việc kiểm sốt
hoạt động của các cơ sở kinh doanh đã nhận quyền. Ngược lại, chủ thể nhượng
quyền sẽ nhận một khoản phí từ cơ sở đó.
Về mặt pháp lý, NQTM là một thoả thuận, theo đó BNQ sẽ trao cho BNhQ
quyền kinh doanh hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo cách thức tổ chức được BNQ
quy định và quyền sử dụng các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp gắn với quyền
kinh doanh đó. BNQ có quyền kiểm sốt hoạt động kinh doanh của BNhQ và có
nghĩa vụ hỗ trợ thường xuyên, liên tục cho BNhQ trong suốt thời hạn thoả thuận của
hợp đồng. Đổi lại, BNhQ trả cho BNQ một khoản phí vì đã sử dụng các quyền trên.
Cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam về cơ bản đã phản ánh những nét chính,
đặc trưng của hoạt động NQTM. Nhưng định nghĩa đã bỏ qua một yếu tố chính của
hoạt động này là phí nhượng quyền. Bởi đây là hoạt động thương mại do các thương
14

Điều 284 - Luật Thương mại 2005.

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn


18

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

nhân thực hiện, điều này đồng nghĩa với việc xác định đây là quan hệ thương mại,
phải đặt trên nền tảng của “sự trao đổi ngang giá” - lợi nhuận là mục tiêu mà các
bên đều hướng tới khi tham gia quan hệ này. Do đó, trong khái niệm cần thể hiện
yếu tố về phí nhượng quyền, để khẳng định đây là một hoạt động thương mại.
Từ những định nghĩa trên, theo tác giả nhượng quyền thương mại có thể hiểu
một cách khái quát như sau:
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, trong đó một bên (Bên
nhượng quyền) thông qua hợp đồng cho phép cho bên còn lại (Bên nhận quyền)
được quyền độc lập tiến hành mua bán, phân phối hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo
phương thức kinh doanh do Bên nhượng quyền quy định và gắn với những đối
tượng quyền sở hữu công nghiệp thuộc sở hữu hoặc kiểm soát của bên này. Bên
nhượng quyền cịn có nghĩa vụ hỗ trợ đồng thời kiểm soát hoạt động kinh doanh của
Bên nhận quyền. Đổi lại, Bên nhận quyền phải trả một khoản phí trực tiếp hay gián
tiếp cho Bên nhượng quyền, gọi là phí nhượng quyền.
1.1.3. Đặc trưng của hoạt động nhượng quyền thương mại
1.1.3.1. Tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền thương mại
Hình ảnh đồng bộ của một thương hiệu được coi là chiếc chìa khố thành cơng
khi xây dựng mơ hình kinh doanh theo phương thức NQTM. Khách hàng phải thấy
được tiêu chuẩn và chất lượng của tất cả các cửa hàng cùng mang một thương hiệu
là giống nhau. Hiệu quả kinh doanh, sự tin cậy của khách hàng, uy tín của thương
hiệu thể hiện ở tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền và được chuyên nghiệp

hoá đến mức cao nhất. Chỉ một cửa hàng trong chuỗi các cửa hàng nhượng quyền
có chất lượng phục vụ kém sẽ ảnh hưởng tới uy tín và hình ảnh chung tới cả một hệ
thống nhượng quyền - việc này được ví như: “một con sâu làm rầu nồi canh”.
Khơng ít các hệ thống nhượng quyền lớn trên thế giới vẫn mắc phải vấn đề trong
việc giữ hình ảnh đồng bộ trong chuỗi các cửa hàng nhượng quyền của mình:
Ví dụ như tập đồn khách sạn Hilton và Sheraton, khách hàng vẫn thường xuyên
than phiền về chất lượng có sự khác biệt giữa khách sạn thuộc sở hữu của công ty
mẹ và khách sạn được nhượng quyền. Điều này dẫn tới sự hoài nghi của khách hàng
khi chọn khách sạn Sheraton. Trong khi đó, đối với tập đồn Marriott thì khách
hàng khó có thể phân biệt đâu là khách sạn Marriott được nhượng quyền hay của
cơng ty mẹ nhờ vào một hệ thống kiểm sốt rất chặt chẽ15.

15

Lý Quí Trung (2006), Franchise – Bí quyết thành công bằng nhượng quyền thương mại, NXB
Trẻ, Tp.HCM, tr. 38.
Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

19

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

1.1.3.2. Tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau giữa Bên nhượng quyền và
Bên nhận quyền
Với mỗi hệ thống nhượng quyền, BNQ và BNhQ là các doanh nghiệp độc lập

với nhau về địa vị pháp lý và cả về tài chính. BNhQ khơng có quan hệ sở hữu vốn
đối với BNQ. Tức là BNhQ tự mình đầu tư vốn thành lập cửa hàng nhượng quyền,
độc lập trong doanh thu và lợi nhuận, tự chịu trách nhiệm về mọi rủi ro trong hoạt
động thương mại của mình. Giữa hai bên tồn tại quan hệ hợp đồng thương mại,
trong đó một bên - BNQ cho phép BNhQ được sử dụng quyền thương mại gắn với
các đối tượng SHCN do mình sở hữu hoặc kiểm sốt để tự mình tổ chức việc mua
bán hàng hoá/cung ứng dịch vụ theo cách thức do BNQ quy định. Ngược lại, BNhQ
phải trả phí cho những dịch vụ được BNQ cung cấp.
Tuy nhiên, sự độc lập này chỉ mang tính tương đối do yêu cầu về tính đồng bộ
mà giữa các bên cịn có mối quan hệ tương hỗ, phụ thuộc lẫn nhau. Nếu thiếu điều
đó thì đã thiếu một điều kiện tiên quyết để xác định đây có phải là một hệ thống
nhượng quyền thương mại hay khơng? Để đảm bảo tính đồng nhất thì các yếu tố
liên quan trực tiếp đến quy trình kinh doanh như: (i) chất lượng hàng hoá, dịch vụ;
(ii) cách thức phục vụ; (iii) cách bài trí cửa hàng; (iv) việc sử dụng nhãn hiệu hàng
hoá, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh của BNQ; (v) hoạt động quảng cáo,
tiếp thị; (vi) đồng phục nhân viên; (vii) ấn phẩm… Tính đồng bộ là yếu tố, mắt xích
quan trọng tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa các bên từ khi nhượng quyền cho đến
khi kết thúc hợp đồng nhượng quyền. Đồng thời, BNQ còn cung cấp tài liệu, hướng
dẫn cách thức kinh doanh, đào tạo nhân viên cho BNhQ. Hệ thống nhượng quyền
càng phát triển thì BNQ lại phải thường xuyên hỗ trợ về kỹ thuật, giúp BNhQ áp
dụng những ứng dụng, cải tiến mới.
Qua đó có thể thấy, BNhQ độc lập về tài sản, năng lực chủ thể nhưng lại phụ
thuộc về cách thức kinh doanh của BNQ. Nói khác đi, là chủ sở hữu nhưng BNhQ
lại khơng được tự mình định đoạt cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh mà phải
tuân theo sự sắp xếp của chủ thể khác.
1.1.3.3. Bên nhượng quyền ln kiểm sốt chặt chẽ đối với việc điều hành
công việc kinh doanh của Bên nhận quyền
Sự kiểm soát của BNQ đối với việc điều hành hoạt động kinh doanh của BNhQ
vừa là quyền vừa có thể coi là nghĩa vụ và được pháp luật nhiều nước trên thế giới


Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

20

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

cơng nhận16. Theo đó, BNQ có thể định kỳ hoặc đột xuất kiếm tra việc thực hiện
các quyền thương mại của BNhQ, việc áp dụng mơ hình và bí quyết kinh doanh để
giữ vững danh tiếng của hệ thống mà không gây hại đến sự độc lập của BNhQ. Nếu
khơng có sự kiểm sốt thì những hỗ trợ của BNQ cho BNhQ trở nên vơ nghĩa.
Quyền kiểm sốt này nhằm đảm bảo tính thống nhất, sự ổn định về chất lượng hàng
hố, dịch vụ của tồn bộ hệ thống nhượng quyền.
1.1.3.4. Sự chuyển giao tổ hợp quyền thương mại
Đối tượng của hoạt động NQTM là quyền thương mại, đây không phải là một
quyền riêng lẻ mà là một tổ hợp các quyền như: quyền tiến hành kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ do BNQ quy định và gắn với quyền sử dụng các đối tượng quyền
SHCN như nhãn hiệu hàng hố, bí quyết kinh doanh, tên thương mại, biểu tượng
kinh doanh… của BNQ cũng như quyền sử dụng các đối tượng khác giúp đưa hàng
hóa đến gần với người tiêu dùng hơn. Nhưng không nhất thiết phải quy định những
loại quyền đặc biệt nào trong tổ hợp quyền đó, có thể chỉ chuyển giao một quyền
duy nhất cho bên sử dụng. Trường hợp nếu một quyền nào đó khơng được chuyển
giao cho bên sử dụng thì bên này cũng khơng có quyền u cầu bên kia chuyển giao
quyền thương mại đó. Tuy vậy, tổ hợp quyền vẫn có ý nghĩa nhất định, nó khẳng
định các quyền được chuyển giao hợp thành một thể thống nhất để đạt được mục
đích của các bên khi tham gia vào quan hệ nhượng quyền. Trong khi các hoạt động

thương mại khác như chuyển giao công nghệ hay hoạt động chuyển giao quyền sử
dụng các đối tượng quyền SHCN thường chỉ là sự chuyển giao một hoặc một vài
loại quyền nhất định.
1.1.3.5. Mối quan hệ chặt chẽ, lâu dài, ổn định giữa các bên
BNhQ hoạt động thương mại dưới nhãn hiệu, tên thương mại của BNQ, nên sự
thành công của bên này phụ thuộc vào bên kia. Hệ thống nhượng quyền càng có
nhiều chủ thể nhận quyền thì sự thành cơng của tất cả các bên phụ thuộc vào sự lớn
mạnh của toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Sự lớn mạnh này không phải chỉ dựa vào
một cửa hàng riêng lẻ nào mà là cả một chuỗi các cửa hàng với sự đồng bộ về
phương thức kinh doanh, cung cách phục vụ, chất lượng hàng hố, dịch vụ, uy tín
của hệ thống nhượng quyền. Mặt khác, nếu chỉ một trong chuỗi cửa hàng nhượng
quyền có chất lượng phục vụ kém hay sản phẩm khơng đạt chất lượng như các cửa
hàng khác trong hệ thống nhượng quyền. Điều này sẽ ảnh hưởng không tốt tới hình
ảnh của cả hệ thống nhượng quyền và thiệt hại sẽ là tất cả các cửa hàng trong chuỗi
16

Nguyễn Thị Minh Huệ (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về NQTM tại Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, ĐH Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 12.
Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

21

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

nhượng quyền đều phải gánh chịu. Vì vậy, có thể khẳng định mối quan hệ giữa

BNQ với các BNhQ là lâu dài, ổn định và hết sức chặt chẽ. Sự gắn kết giữa các chủ
thể độc lập này trong hoạt động NQTM đạt tới mức độ cao không có một quan hệ
thương mại nào đạt tới.
Tóm lại, NQTM là một hoạt động thương mại, có sự giao thoa với các hoạt
động thương mại khác. Nhưng hoạt động này vẫn có những điểm đặc trưng để phân
biệt với các hoạt động thương mại cịn lại.
1.1.4. Lợi ích của hoạt động nhượng quyền thương mại
Hoạt động NQTM là hoạt động thương mại mới trên thị trường Việt Nam
nhưng đã khẳng định được vị trí, vai trị to lớn đối với các nền kinh tế trên thế giới.
Đối với Việt Nam, NQTM cũng đang dần dần khẳng định được vai trò, ý nghĩa đối
với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền và cả đối với nền
kinh tế.
1.1.4.1. Kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại đem lại
nhiều lợi ích cho Bên nhượng quyền
Trước hết, BNQ có thế mở rộng kinh doanh một cách nhanh chóng với chi
phí nhỏ. Trong khi một doanh nghiệp bắt đầu bước vào kinh doanh thì số vốn bỏ ra
đầu tư cho cơ sở vật chất kĩ thuật, thuê địa điểm kinh doanh, thiết kế cửa hàng, đào
tạo đội ngũ nhân viên… đặc biệt là khoản phí bỏ ra để nghiên cứu thị trường, tiến
hành sản xuất, tạo ra sản phẩm, tìm kiếm đối tác là không nhỏ. Hơn nữa xác suất
thành công là rất ít, bởi doanh nghiệp mới được thành lập, sản phẩm chưa được sự
kiểm chứng của người tiêu dùng, uy tín của doanh nghiệp mới chỉ ở con số khơng.
Những khó khăn này sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Thậm chí, nếu khơng có chiến lược kinh doanh phù hợp thì có thể dẫn đến
thất bại và phá sản doanh nghiệp là điều khó tránh khỏi. Cịn hoạt động NQTM cho
phép doanh nghiệp nhượng quyền chuyển giao một phần hoạt động kinh doanh của
mình cho một hoặc nhiều thương nhân khác thơng qua hợp đồng nhượng quyền.
Khi đó, BNhQ đã chia sẻ những khó khăn với BNQ bằng việc đầu tư cơ sở vật chất,
tìm địa điểm, chuẩn bị đội ngũ nhân viên… để tiếp nhận quyền kinh doanh từ doanh
nghiệp nhượng quyền. Như vậy, vấn đề khó khăn nhất liên quan tới ngân sách hay
khả năng tài chính đã được giải quyết vì một doanh nghiệp dù thành cơng đến đâu

cũng có một giới hạn nhất định về tài chính. Mặt khác, khi doanh nghiệp muốn đưa
sản phẩm/dịch vụ của mình vươn ra khỏi ranh giới một thành phố hay quốc gia.

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

22

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

Ngồi vấn đề ngân sách, các yếu tố khác như địa lý, con người, kiến thức và văn
hoá địa phương… cũng là những trở ngại không nhỏ17.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của BNQ được mở rộng thì thu nhập của BNQ
cũng theo đó mà tăng lên bằng việc nhượng quyền sử dụng thương hiệu và phương
thức kinh doanh - tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp. Trong suốt thời hạn của
hợp đồng, BNhQ phải trả: (i) khoản phí nhượng quyền ban đầu cho BNQ để trở
thành thành viên của hệ thống nhượng quyền; (ii) phí hàng tháng trả cho việc duy trì
sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại và những dịch vụ hỗ trợ mang tính liên tục (đào
tạo, huấn luyện nhân viên, tiếp thị…); (iii) có thể cịn phải trả khoản phí mua các
ngun liệu đặc thù.
Vấn đề lớn của các doanh nghiệp là gây dựng thương hiệu. Nhưng làm sao để
thương hiệu được mở rộng trên thị trường, duy trì hình ảnh/uy tín của nó đối với
khách hàng trong thế cạnh tranh với các đối thủ trong cùng ngành nghề, lĩnh vực
cịn khó gấp nhiều lần. Tuy nhiên, với phương thức kinh doanh NQTM cho phép
các doanh nghiệp có thể “khuếch trương” thương hiệu của mình bằng việc bán
quyền thương mại cho các đối tác mua nhượng quyền. BNQ sẽ tiếp nhận bí mật

kinh doanh, bí quyết, phương thức kinh doanh, tên thương mại và các quyền sở hữu
trí tuệ khác để tiến hành hoạt động kinh doanh. Như vậy, một mơ hình kinh doanh
thành công đã được nhân lên thành một chuỗi các cửa hàng có cùng một phương
thức kinh doanh, cùng một tên thương mại, phong cách phục vụ, chất lượng hàng
hoá/dịch vụ là như nhau. Nhìn bề ngồi chỉ thấy BNQ tiến hành sản xuất, kinh
doanh nhằm thu lợi nhuận. Nhưng xét ở khía cạnh sâu xa hơn thì chính sự nhất quán
trong phương thức kinh doanh của hệ thống nhượng quyền đã mang lại lợi thế theo
quy mơ góp phần vào việc quảng bá và bảo vệ thương hiệu của BNQ. Trong đó,
quan trọng nhất là sự tín nhiệm của khách hàng dành cho doanh nghiệp và hàng
hoá/dịch vụ của doanh nghiệp đó.
1.1.4.2. Nhượng quyền thương mại khơng chỉ mang lại những lợi ích cho
Bên nhượng quyền mà cịn có ý nghĩa và lợi ích khơng nhỏ cho Bên nhận
quyền.
Lợi ích đầu tiên mà BNhQ nhận được đó là việc kinh doanh với sản phẩm và
thương hiệu đã có sẵn, rủi ro ít hơn so với việc mở một doanh nghiệp hay một cửa
hàng độc lập với thương hiệu mới của riêng mình. Do khi tham gia vào hệ thống
nhượng quyền, BNhQ được phép kinh doanh, hưởng tất cả những lợi ích có liên
quan tới thương hiệu đã được gây dựng, cộng với việc được sử dụng bí quyết kinh
17

Lý Quí Trung (2006), tlđd, tr. 17.

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

23

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008


GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

doanh đã được khẳng định là thành cơng trên thị trường. Mặt khác, BNhQ còn
thường xuyên nhận được sự hỗ trợ từ phía chủ thương hiệu trong điều hành hoạt
động kinh doanh. Bởi đó khơng chỉ là quyền, trách nhiệm của BNQ mà quyền lợi
của họ cũng gắn liền trong đó. Sự giúp đỡ này cịn tạo ra và đảm bảo sự đồng nhất
cho hệ thống nhượng quyền của chủ thương hiệu.
Khơng chỉ vậy, BNhQ cịn được hưởng lợi thế từ tính cạnh tranh của một hệ
thống đồng bộ và khả năng đổi mới, những tiến bộ mới của BNQ.
1.1.4.3. Nền kinh tế cũng được hưởng những lợi ích mà hoạt động nhượng
quyền thương mại mang lại
Trước tiên, sự phát triển của hoạt động nhượng quyền tạo đà phát triển cho
các ngành nghề, doanh nghiệp trong nước. Nhất là lĩnh vực cơng nghiệp và dịch vụ,
góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng ngành công
nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp.
Thứ hai, doanh nghiệp lớn mạnh với số lượng cửa hàng nhượng quyền được
mở ra, song song với đó là uy tín thương hiệu cũng lớn mạnh theo. Sự lớn mạnh về
thương hiệu gây sự chú ý, quan tâm của nhà đầu tư và ngân hàng mà trước sau chủ
thương hiệu cũng tìm đến cộng tác và để được hỗ trợ. Kéo theo đó, cơ hội việc làm
được mở ra nhiều hơn cho người lao động góp phần giải quyết tình trạng thất
nghiệp hiện nay.
Mặt khác, cùng với sự thành công của các doanh nghiệp sẽ là sự chuyển giao
khoa học kĩ thuật cho nền kinh tế ở địa phương. Đối với các nước đang và kém phát
triển thì NQTM còn là cơ hội tốt để nhận chuyển giao khoa học cơng nghệ từ các
quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến. Đặc biệt đối
với nền kinh tế nước ta, vốn đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ tầng
yếu kém, khoa học kĩ thuật chưa phát triển. Thông qua hoạt động NQTM cho phép
nước ta nhận chuyển giao khoa học kĩ thuật và công nghệ tiên tiến từ các nước phát
triển khác. Đồng thời sẽ đào tạo được đội ngũ doanh nhân có kiến thức, khả năng và

kinh nghiệm điều hành hoạt động kinh doanh. Khơng chỉ vậy, bí quyết kinh doanh
của các doanh nghiệp thành công cũng sẽ được chuyển giao và nhân rộng cho nhiều
doanh nghiệp khác. Như vậy, sẽ giảm thiểu được rủi ro và thiệt hại cho nền kinh tế
khi có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động hiệu quả trên thị trường.
Bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng được hưởng những lợi ích như có cơ hội
được sử dụng những sản phẩm, dịch vụ tốt theo cung cách phục vụ hiện đại. Hàng
hoá đa dạng với chất lượng bảo đảm, giá cả ổn định và sự lựa chọn của người tiêu
dùng cũng phong phú hơn.
Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

24

LÊ THANH THUẤN


Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật 2004-2008

GVHD: ThS HÀ THỊ THANH BÌNH

1.2. ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm
Sự phát triển không ngừng và sự đa dạng hố các loại hình kinh doanh đã
mang lại bộ mặt mới cho nền kinh tế thế giới. Hoạt động NQTM theo dòng chảy
của nền kinh tế thế giới và tiến trình lịch sử bản thân cũng vận động và phát triển,
đóng góp phần khơng nhỏ vào sự phát triển của ngành công nghiệp, dịch vụ bán lẻ,
phân phối sản phẩm và khách sạn. Từ hình thức sơ khai là nhượng quyền phân phối
và bán sản phẩm, đến sau Thế chiến thứ II thì NQTM thực sự bùng nổ và phát triển,
mở rộng ra nhiều lĩnh vực như nhà hàng, khách sạn, dịch vụ… Theo đó, các phương
thức nhượng quyền cũng ngày càng đa dạng, phong phú. Chính điều này đã kéo
theo các quyền được chuyển giao cũng nhiều hơn, không chỉ là chuyển giao quyền

phân phối sản phẩm như lúc đầu cho các đại lý độc quyền trong lĩnh vực xe hơi, dầu
lửa, gas (những năm 1880). Mà còn mở rộng thêm những quyền khác như: quyền sử
dụng các cách thức tổ chức bán hàng, cung ứng dịch vụ (mơ hình kinh doanh của
BNQ), đồng thời gắn với quyền sử dụng các đối tượng quyền SHCN như: tên
thương mại, nhãn hiệu hàng hố, bí mật kinh doanh… các quyền được chuyển giao
này ngày càng nhiều, phức tạp và được pháp luật các nước quy định hết sức chặt
chẽ. Nhất là quyền sử dụng các đối tượng quyền SHCN được đặc biệt chú ý, nhằm
bảo vệ quyền lợi của các bên khi tham gia vào quan hệ nhượng quyền.
o Bang California của Mỹ định nghĩa: “NQTM là hợp đồng/sự thoả thuận
một cách rõ ràng hoặc ngụ ý, bằng lời nói hay văn bản giữa hai/nhiều chủ thể mà
theo đó:
- BNhQ (Franchisee) được phép tổ chức kinh doanh, bán và phân phối
hàng hoá hoặc dịch vụ theo kế hoạch hoặc hệ thống do BNQ (Franchisor)
quy định.
- Hoạt dộng kinh doanh của BNhQ thực hiện phải tuân theo kế hoạch
hoặc hệ thống của BNQ và gắn với thương hiệu, tên dịch vụ, tên thương
mại, logo, quảng cáo và các kí hiệu thương mại khác do BNQ sở hữu hoặc
kiểm soát.
- BNhQ phải trả một khoản phí cho BNQ một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp, gọi là phí nhượng quyền”.18
o Theo liên đoàn NQTM Châu Âu (European Franchise Federation - EFF):
“NQTM là một hệ thống tiếp thị hàng hố/dịch vụ/cơng nghệ dựa trên sự hợp tác
18

Erwin J.Keup, Fourth Edition, tlđd, pp 5.

Đối tượng của hoạt động NQTM- Lý luận và thực tiễn

25


LÊ THANH THUẤN


×