Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Pháp luật về niêm yết chứng khoán tại việt nam, thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 98 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ HÀ DIỄM CHÂU

PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CHỨNG KHỐN
TẠI VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HỒN THIỆN

Chun ngành Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.50
Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ THANH VÂN

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009


2

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BCTC
BGĐ
BKS
CBTT
CTCK
CTCP
CTTNHH
CTQLQ
DNNN


ĐHĐCĐ
HĐQT
IPO
NĐT
NĐT NN
NHNN
NHTMCP
OTC
QĐTCK
SGDCK TP. HCM
SGDCK HN
TCPH
TCNY
TTCK
TTGDCK HN
TTGDCK TP. HCM
TTLKCK
UBCK
UBCKNN

: Báo cáo tài chính
: Ban giám đốc
: Bản kiểm sốt
: Cơng bố thơng tin
: Cơng ty chứng khốn
: Cơng ty cổ phần
: Công ty trách nhiệm hữu hạn
: Công ty quản lý quỹ
: Doanh nghiệp Nhà nước
: Đại hội đồng cổ đông

: Hội đồng quản trị
: Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng
: Nhà đầu tư
: Nhà đầu tư nước ngoài
: Ngân hàng Nhà nước
: Ngân hàng thương mại cổ phần
: Thị trường giao dịch phi tập trung
: Qũy đầu tư chứng khoán
: Sở giao dịch chứng khốn thành phố Hồ Chí Minh
: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
: Tổ chức phát hành
: Tổ chức niêm yết
: Thị trường chứng khoán
: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
: Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh
: Trung tâm lưu ký chứng khốn
: Ủy ban chứng khoán
: Ủy ban chứng khoán Nhà nước


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 28/07/2000 Trung tâm Giao dịch Chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh
(TTGDCK TP.HCM) tiền thân của Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
(SGDCK TP. HCM) hiện nay chính thức đi vào hoạt động đã đánh dấu một một sự
kiện quan trọng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống kinh tế, xã hội của nước ta. Thị
trường chứng khoán Việt Nam (TTCK VN) ra đời mở ra một kênh huy động vốn mới

hiệu quả cho các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp tham gia niêm yết chứng khoán
giúp cho quy mô thị trường đã không ngừng lớn mạnh. Từ hai cổ phiếu được niêm yết
ban đầu là REE và SAM, đến nay tồn thị trường đã có 415 cổ phiếu của các doanh
nghiệp đại diện cho nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế tham gia niêm yết, đưa
tổng mức vốn hóa của TTCK đạt 55% GDP1. Trong đó, số cổ phiếu niêm yết tại
SGDCK TP. HCM là 188 cổ phiếu và tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (SGDCK
HN) là 242 cổ phiếu. Ngồi ra, cịn có trên 500 trái phiếu Chính phủ và trái phiếu
doanh nghiệp và 4 chứng chỉ quỹ đầu tư cũng niêm yết trên thị trường2. Bên cạnh đó,
số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư (NĐT) được mở cũng tăng
nhanh chóng. Hiện nay, tồn thị trường có 729.592 tài khoản, trong đó có 726.639 tài
khoản NĐT cá nhân (NĐT cá nhân trong nước mở 714.832 tài khoản, NĐT cá nhân
nước ngoài mở 11.807 tài khoản) và 2.953 tài khoản của NĐT tổ chức (tổ chức trong
nước mở 2.382 tài khoản và tổ chức nước ngoài mở 571 tài khoản).
Tuy có những bước phát triển vượt bậc về quy mơ niêm yết nhưng TTCK VN
vẫn cịn nhiều vấn đề cần phải được tháo gỡ và tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt là các quy
định pháp luật về tổ chức và quản lý thị trường, trong đó, đáng chú ý là pháp luật về
niêm yết chứng khốn. Sự chưa hồn thiện trong các quy định pháp luật về niêm yết
chứng khoán đã tạo kẽ hở cho các hành vi vi phạm pháp luật của khơng ít các tổ chức
niêm yết (TCNY). Điển hình là trường hợp Cơng ty cổ phần Bông Bạch Tuyết kinh
doanh thu lỗ mà vẫn công bố báo cáo tài chính (BCTC) có lời gây thiệt hại khơng ít
đến quyền lợi nhà đầu tư và tồn thị trường. Qua đó cho thấy, việc nghiên cứu, đánh
1

Tin tức (2009), “Vốn hóa thị trường chứng khốn đạt 55%GDP”, Đầu tư chứng khoán (140), tr. 5.
Xem Website của Sở giao dịch chứng khốn TP. Hồ Chí Minh: />và Website của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội: />2


4

giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về niêm yết chứng khốn nhằm tìm

ra những điểm bất cập, vướng mắc để hình thành các kiến nghị hồn thiện pháp luật về
niêm yết chứng khốn là rất cần thiết. Một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ và phù hợp
với thông lệ quốc tế về niêm yết chứng khốn sẽ là “cú hích” để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư và tạo ra nhiều hàng hố có chất lượng, là cơ sở quan
trọng để TTCK VN phát triển bền vững. Chính vì vậy, mà tác giả đã chọn đề tài cho
Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình là “Pháp luật về niêm yết chứng khoán tại Việt
Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện”. Thực hiện đề tài này, tác giả hy vọng sẽ
đóng góp một phần nhỏ bé vào việc đánh giá thực trạng và đưa ra những kiến nghị,
đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về niêm yết chứng
khốn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Niêm yết chứng khoán là một khâu quan trọng trong toàn bộ hoạt động của
TTCK. Hoạt động quản lý niêm yết chứng khốn được thực hiện tốt sẽ góp phần giúp
cho thị trường có được những hàng hố có chất lượng, giảm thiểu được rủi ro trong
đầu tư chứng khoán, tạo điều kiện để các doanh nghiệp minh bạch hơn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhận thức được tầm quan trọng đó, nhiều tác giả đã chọn
đề tài liên quan đến niêm yết chứng khoán làm đề tài nghiên cứu cho những cơng
trình khoa học của mình. Trong những cơng trình đó, đáng chú ý là các đề tài: Xây
dựng và áp dụng các nguyên tắc quản trị công ty đối với các công ty cổ phần và niêm
yết của Thạc sĩ Lê Thị Mai Linh (Đề tài cấp Bộ năm 2001), Hoàn thiện hệ thống chỉ
tiêu đánh giá các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam của Tiến sĩ Phạm Trọng Bình
(Đề tài cấp Bộ năm 2003), Một số giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ niêm
yết cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội của thạc sĩ Đỗ Văn Tuấn
(Đề tài cấp cơ sở năm 2004)…Tuy nhiên, các cơng trình nêu trên chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề về niêm yết chứng khốn dưới góc độ kinh tế, tài chính mà chưa đề
cập đến khía cạnh pháp lý của nó. Có thể nói, đề tài “Pháp luật về niêm yết chứng
khốn tại Việt Nam – thực trạng và hướng hồn thiện” mà tác giả chọn để thực
hiện Luận văn Thạc sỹ Luật học là một trong những đề tài đầu tiên nghiên cứu một
các tồn diện và có hệ thống các vấn đề liên quan đến niêm yết theo quan điểm luật

học.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn được xác định rõ ràng. Đó là
nghiên cứu, khai thác các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động niêm yết
chứng khốn, phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt
động niêm yết chứng khoán tại Việt Nam hiện nay, nghiên cứu và tham khảo kinh


5

nghiệm xây dựng khung pháp lý điều chỉnh hoạt động niêm yết chứng khoán tại một số
nước, xác định sự cần thiết và đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
niêm yết chứng khốn. Qua đó, tác giả cố gắng hình thành những kiến nghị, đề xuất
nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về niêm yết chứng khoán tại Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như trên, đối tượng nghiên cứu của Luận văn được
xác định là nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm của thế giới về hoạt động niêm
yết chứng khoán trên TTCK cũng như trình bày một cách có hệ thống các khái niệm
và quy định liên quan đến lĩnh vực niêm yết chứng khoán tại Việt Nam, tác giả muốn
làm rõ bản chất và vai trị của hoạt động niêm yết chứng khốn đối với TTCK, doanh
nghiệp và nhà đầu tư. Đồng thời, tác giả cũng tiến hành phân tích thực trạng các quy
định pháp luật Việt Nam hiện hành về niêm yết chứng khoán trong mối quan hệ so
sánh, đối chiếu với pháp luật về niêm yết chứng khoán ở các nước để làm rõ những
bất cập, chưa đồng bộ và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế của pháp luật Việt Nam
về niêm yết chứng khoán. Kết quả của quá trình nghiên cứu, khảo sát nêu trên sẽ là
cơ sở lý luận và thực tiễn để tác giả hình thành những kiến nghị, đề xuất của mình
trong Luận văn.


5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu như so sánh, đối chiếu, phân
tích, khảo sát, đánh giá và hệ thống hoá, quy nạp và diễn dịch…đã được tác giả sử
dụng trong quá trình thực hiện đề tài. Đặc biệt, phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin được sử dụng
xuyên suốt trong q trình thực hiện Luận văn. Ngồi ra, khi thực hiện Luận văn, tác
giả luôn bám sát chủ trương, đường lối và chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về xây
dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam nói chung và hoạt động niêm yết trên TTCK nói
riêng.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài được chọn thể hiện ở chỗ, lần đầu tiên
trong khoa học pháp lý ở nước ta, tác giả đã tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống
các cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động niêm yết chứng khoán, nghiên cứu, khảo
sát các mơ hình quản lý niêm yết tại một số quốc gia. Đồng thời, tác giả tiến hành
đánh giá toàn diện thực trạng các quy định của Việt Nam điều chỉnh hoạt động hoạt
động niêm yết chứng khốn trên thị trường hiện nay và từ đó làm cơ sở cho những
kiến nghị, đề xuất hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
lĩnh vực này.


6

Kết quả nghiên cứu và những phân tích, kiến nghị của tác có giá trị tham khảo
nhất định đối với cơ quan quản lý và điều hành TTCK, giúp các TCNY rút kinh
nghiệm trong việc quản trị, điều hành và thực hiện tốt nghĩa vụ công bố thông tin
(CBTT) trên thị trường. Ngồi ra, Luận văn có thể là tài liệu tham khảo, học tập bổ
ích cho các sinh viên chuyên ngành luật hoặc kinh tế và tất cả những ai có quan tâm
đến TTCK.


7. Bố cục của luận văn
Với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu như đã trình bày, kết cấu của
luận văn ngồi phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về niêm yết chứng khoán
Chương 2: Thực trạng pháp luật về niêm yết chứng khoán tại Việt Nam và hướng
hoàn thiện


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NIÊM YẾT CHỨNG KHOÁN
1.1.

Khái quát chung về niêm yết chứng khoán

1.1.1. Khái niệm niêm yết chứng khoán và pháp luật về niêm yết chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm niêm yết chứng khoán
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam xuất bản năm 2006
thì “niêm yết là dán giấy cho mọi người biết”3. Với ý nghĩa tương tự, từ “niêm yết”
trong Từ điển tiếng Việt căn bản của Nguyễn Như Ý và một số tác giả khác xuất bản
năm 2006 được giải thích là “dán giấy để báo cho cơng chúng”4. Như vậy, có thể thấy
rằng trong tiếng Việt, “niêm yết” được xem là hành vi dán những thơng tin gì đó để
công chúng biết. Trong thực tế đời sống, chúng ta vẫn thường sử dụng thuật ngữ “niêm
yết” để chỉ việc dán một thông báo, một danh sách lên một vật nhất định có thể là tấm
bảng, bức tường…ở một nơi mà nhiều người (cơng chúng) có thể tiếp cận. Trong hoạt
động kinh doanh, mua bán hàng hố thì “niêm yết” cịn được hiểu là dán giá cả lên
hàng hố để khách hàng tham khảo hay còn gọi là “yết giá”. Hàng hố đã “yết giá”
cơng khai thì hầu như người bán rất khó chấp nhận bán với giá khác. Ngồi ra, việc
“yết giá” cịn thể hiện tính minh bạch trong hoạt động mua bán. Sự minh bạch đó

khơng những là minh bạch về giá mà còn minh bạch về chất lượng hàng hoá, nhà sản
xuất… Cho nên, trên nhiều bảng yết giá của hàng hố, ngồi việc ghi rõ mức giá, các
thông tin khác cũng được ghi rõ ràng như thơng tin về chất liệu, xuất xứ hàng hố…Vì
vậy, khi nói đến “niêm yết” là nói đến sự cơng khai thơng tin và tính minh bạch.
Thuật ngữ “niêm yết” sử dụng trong lĩnh vực chứng khốn nhìn chung cũng
hàm chứa ý nghĩa như trên. Qua nghiên cứu cho thấy, TTCK ra đời vào giữa thế kỷ thứ
XV một cách tự phát và sơ khai xuất phát từ nhu cầu từ thực tế đời sống của xã hội các
nước phương Tây lúc bấy giờ5. Lúc đầu, TTCK tồn tại dưới hình thức các phiên chợ và
chứng khoán được giao dịch theo hình thức thủ cơng “tiền trao, cháo múc” giữa các

3

Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 697.
Nguyễn Như Ý, Nguyễn Việt Hùng, Phan Xuân Thành (2006), Từ điển tiếng Việt căn bản, NXB Thanh Niên,
TP. HCM, tr. 522.
5
Bạch Đức Hiển (2008), Giáo trình thị trường chứng khốn, NXB Tài chính, Hà Nội, tr. 7
4


8

nhà đầu tư6. Các chứng khoán được giao dịch tại những phiên chợ đó được đưa vào
những danh sách dán lên tường, hoặc ghi trên bảng để nhà đầu tư lựa chọn. Khi một
chứng khoán được đưa vào danh sách này thì được xem là đã niêm yết. Đến khi TTCK
đã phát triển và hiện đại hố, cơng nghệ thơng tin đã được áp dụng trong giao dịch
chứng khoán và kiểu yết giá “bảng đen, phấn trắng” đã được thay thế bằng bảng điện
tử thì một chứng khốn được một Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) đưa vào bảng
điện tử để nhà đầu tư lựa chọn mua bán cũng được xem là đã niêm yết. Chứng khoán
được đưa vào giao dịch tại SGDCK phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Vì vậy,

khái niệm “niêm yết chứng khốn” trong giai đoạn TTCK phát triển cịn được xem là
một q trình để SGDCK xem xét, đối chiếu với những điều kiện nhất định nhằm chấp
thuận hay không chấp thuận cho chứng khốn đó được giao dịch tại SGDCK.
Về mặt lý thuyết, sau khi chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp
(primary market) sẽ được mua bán, chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp (secondary
market). Theo các nhà kinh tế, thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã
phát hành trên thị trường sơ cấp7. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các
chứng khốn. Qua đó, giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn bổ sung và
các nhà đầu tư có cơ hội đầu tư và rút vốn linh hoạt. Dựa vào phương thức hoạt động,
người ta chia thị trường thứ cấp thành hai loại thị trường: thị trường giao dịch tập trung
dưới hình thức SGDCK hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) và thị
trường giao dịch phi tập trung hay thị trường OTC (over the counter market). Các
chứng khoán giao dịch tại SGDCK là những chứng khốn có chất lượng, đáp ứng
những điều kiện nhất định, cịn chứng khốn giao dịch trên thị trường OTC là những
chứng khốn có chất lượng kém hơn, không đủ điều kiện giao dịch tại SGDCK. Chứng
khoán sau khi đã được SGDCK chấp thuận đưa vào giao dịch tại SGDCK gọi là chứng
khoán niêm yết (listed securities)8. Các nhà kinh tế, tài chính cho rằng, “niêm yết
chứng khoán là thủ tục cho phép một chứng khoán nhất định được phép giao dịch trên
trên SGDCK”9. Trong khoa học pháp lý, “niêm yết chứng khoán là hoạt động của
SGDCK nhằm xác định, kiểm tra và chấp thuận chứng khoán của một số tổ chức phát

6

Về lịch sử hình thành và phát triển TTCK, xem: Lý Hồng Ánh, Đồn Thanh Hà (2005), Thị trường chứng
khốn, NXB Thống Kê, Hà Nội, tr. 7-11.
7
Bùi Kim Yến (2009), Giáo trình Thị trường chứng khốn, NXB Giao thơng vận tải, Hà Nội, tr. 38.
8
“Listed securities” được hiểu là những chứng khoán đã được Ủy ban yết giá của SGDCK chấp nhận và sau khi
xem xét kỹ tình hình tài chính và uy tín của cơng ty hữu quan, Sở đưa nó vào danh sách các chứng khốn được

chính thức giao dịch trong hàng ngũ các thành viên của SGDCK. Xem: Từ điển Kinh tế Kinh doanh Anh - Việt
(2000), NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 629.
9
Đào Lê Minh (2000), Giáo trình Những vấn cơ bản về chứng khốn và thị trường chứng khốn, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 188.


9

hành đủ điều kiện đưa vào giao dịch tại SGDCK”10. Trong pháp luật thực định, niêm
yết chứng khoán được định nghĩa là việc đưa các chứng khốn có đủ điều kiện vào
giao dịch tại SGDCK hoặc TTGDCK11.
Có thể thấy rằng, mặc dù cách diễn đạt có khác nhau nhưng các khái niệm về
niêm yết chứng khoán nêu trên đã thể hiện những đặc điểm cơ bản của hoạt động niêm
yết chứng khoán giúp nhận diện và phân biệt với các hoạt động khác của SGDCK.
Những đặc điểm cơ bản đó, theo chúng tơi là:
Thứ nhất, niêm yết chứng khốn là một thủ tục bắt buộc do SGDCK tiến hành
để đưa chứng khoán vào giao dịch tại SGDCK. Một chứng khoán muốn giao dịch tại
SGDCK nhất thiết phải có sự chấp thuận của SGDCK. Sự chấp thuận này có thể bằng
hình thức cấp Giấy phép hoặc Giấy chứng nhận niêm yết. Tại Việt Nam, trong giai
đoạn đầu, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) là cơ quan cấp phép niêm yết
và TTGDCK TP. HCM khi đó chỉ là nơi tổ chức giao dịch các chứng khoán đã được
UBCKNN cấp phép niêm yết.
Thứ hai, chứng khoán niêm yết phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Trong
đó, hai nhóm điều kiện quan trọng nhất là điều kiện định tính và điều kiện định lượng
để xác định thực lực TCNY và tính thanh khoản của các chứng khốn. Để NĐT có thể
đưa ra quyết định mua hay bán chứng khốn, TCNY phải có nghĩa vụ CBTT về tình
hình hoạt động của mình định kỳ hoặc theo yêu cầu hoặc tức thời. Nhờ đó, các NĐT có
được tất cả các thơng tin có thể tác động đến giá chứng khoán để quyết định đầu tư một
cách tốt nhất.

Thứ ba, quá trình niêm yết chứng khoán làm phát sinh mối quan hệ cơ bản giữa
một bên là SGDCK với bên kia là các TCNY. SGDCK là cơ quan quản lý và điều hành
thị trường giao dịch tập trung.
Theo tác giả Trần Đắc Sinh, thì:
SGDCK khơng tham gia vào việc mua bán chứng khoán mà chỉ là nơi giao dịch,
một trung tâm tạo điều kiện cho các giao dịch được tiến hành một cách thuận lợi,
dễ dàng, giảm thấp các chi phí bằng cách đưa ra những luật lệ phù hợp. SGDCK
khơng có trách nhiệm ấn định hoặc can thiệp vào giá cả chứng khoán mà chỉ đảm
bảo cho việc mua bán chứng khoán hoặc việc đấu thầu được diễn ra đúng pháp
luật, công bằng12.

10

Phạm Thị Giang Thu (2008), Giáo trình Luật chứng khốn, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.143.
Xem: Điều 6, Luật chứng khốn được Quốc hội Khóa XI, Kỳ hợp thứ 9 thông qua ngày ngày 29 tháng 06 năm
2006 (sau đây gọi là Luật chứng khoán 2006).
12
Trần Đắc Sinh (2002), Sở giao dịch chứng khốn Việt Nam: mơ hình và bước đi, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 7.
11


10

Dưới góc độ pháp lý, SGDCK là một tổ chức có tư cách pháp nhân được thành
lập theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện chức năng quản lý, điều hành các hoạt
động giao dịch trên thị trường giao dịch tập trung, đảm bảo cho các hoạt động này diễn
ra thông suốt, công bằng, minh bạch, hiệu quả và đúng pháp luật13.
Trên phương diện quản lý, SGDCK là cơ quan quản lý, điều hành có quyền
kiểm tra, giám sát, xử phạt thì các TCNY14 là đối tượng chịu sự quản lý và điều hành

đó. Khi tham gia niêm yết, các TCNY có những quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật và quy chế niêm yết của SGDCK.
1.1.1.2. Khái niệm pháp luật về niêm yết chứng khoán
Để thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và thay đổi cơ cấu kinh tế
nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, chúng ta cần đến một lượng vốn
đầu tư khổng lồ mà bản thân hệ thống ngân hàng khó có khả năng đáp ứng đầy đủ.
Tình trạng nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng trong giai đoạn đầu của quá trình
chuyển đổi đã dẫn đến những đổ vỡ và tổn thất khơng nhỏ, có một phần nguyên nhân
từ trạng thái bất cập của hệ thống tài chính tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn
của nền kinh tế15. Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra nhu cầu tái cấu
trúc lại nền kinh tế nước ta theo hướng phát triển và nâng cao vai trò của kinh tế dịch
vụ trong đó có dịch vụ tài chính, ngân hàng và chứng khốn là nịng cốt. Nhận thức
được tầm quan trọng của TTCK đối với sự nghiệp phát triển đất nước và quá trình hội
nhập quốc tế, Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII của Đảng đã đề ra:
Phát triển thị trường vốn, thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn thơng qua ngân
hàng và các cơng ty tài chính để đáp ứng nhu cầu cho vay đầu tư phát triển và
chuẩn bị các điều kiện cần thiết từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phù
hợp với điều kiện Việt Nam và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất
nước…16.
Nhằm thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về xây dựng và
phát triển TTCK ở nước ta, nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động
chứng khoán và TTCK lần lượt được ban hành. Các văn bản pháp quy đầu tiên đặt nền
tảng cho việc hình thành pháp luật về chứng khoán và TTCK phải kể đến là: Nghị định
75/CP của Chính phủ ngày 28/11/1996 về việc thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước và Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về chứng khoán và thị trường
13

Võ Huy Hồng Phương (2003), Các giải pháp xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho Sở giao dịch chứng
khoán Việt Nam - Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật TP. HCM, tr. 14.
14

Ở một số tài liệu còn gọi là tổ chức niêm yết hoặc công ty niêm yết (listed company). Xem: Sđd, Từ điển Kinh
tế Kinh doanh Anh - Việt (2000), tr. 629.
15
Lê Văn Châu (1997), “Thị trường chứng khoán trong chiến lược phát triển kinh tế”, Chứng khoán Việt Nam
(1), tr. 10-16.
16
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 96.


11

chứng khoán. Trong giai đoạn ban đầu, mục tiêu xây dựng pháp luật về chứng khoán
và TTCK là phải vừa đảm bảo cơ chế pháp lý cho sự hình thành và phát triển năng
động mà an toàn vững chắc của TTCK, vừa đảm bảo sự điều tiết của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Theo
nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc thì, “Pháp luật về chứng khốn và
TTCK vừa phải có những quy định về ngun tắc có tính định khung, lại vừa phải có
những quy định đủ chi tiết, cụ thể phù hợp với bước đi của quá trình hình thành TTCK
và của nền kinh tế theo cơ chế thị trường”17.
Sự ra đời của pháp luật Việt Nam về chứng khoán và TTCK một lần nữa chứng
minh sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở chỗ, nội dung của pháp luật là
do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật18. Về
nội dung, pháp luật về chứng khoán và TTCK bao gồm các quy định liên quan đến
nhiều hoạt động khác nhau trên TTCK như: hoạt động chào bán chứng khoán, niêm yết
chứng khoán, giao dịch chứng khoán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán, giám sát,
thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính…Trong đó, các quy định về niêm yết chứng
khốn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng tạo nên một mảng pháp luật riêng biệt trong
cơ cấu của pháp luật về chứng khoán và TTCK nói chung.
Pháp luật về niêm yết chứng khốn là tổng thể các qui phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa tổ chức

niêm yết với NĐT, cơ quan tổ chức và quản lý thị trường trong q trình niêm yết và
giao dịch chứng khốn niêm yết trên SGDCK, TTGDCK.
Pháp luật về niêm yết chứng khoán tại Việt Nam, cũng như pháp luật về niêm
yết chứng khoán của các nước trên thế giới, thông thường tập trung điều chỉnh các vấn
đề sau:
- Điều kiện niêm yết chứng khoán;
- Chủ thể tham gia vào quan hệ niêm yết chứng khoán;
- Cơ chế pháp lý về hoạt động niêm yết chứng khoán bao gồm các nội dung về
thủ tục, trình tự niêm yết chứng khốn, các trường hợp thay đổi, hủy niêm yết chứng
khoán, niêm yết chứng khoán trong các trường hợp đặc biệt;
- Nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức niêm yết;
- Quản lý nhà nước về hoạt động niêm yết chứng khoán;
1.1.2. Chứng khoán niêm yết
1.1.2.1. Cổ phiếu
17

Nguyễn Đình Lộc (1997), “Phải đảm bảo đa dạng hoá các loại chứng khoán”, Chứng khoán Việt Nam (1), tr.
25-26.
18
Lê Minh Tồn (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 66.


12

Cổ phiếu là một loại chứng khoán rất phổ biến trên TTCK do tính chất linh hoạt
và mức độ hấp dẫn của nó đối với NĐT. Vì vậy, cổ phiếu được xem là một công cụ đầu
tư được nhiều người lựa chọn và chiếm tỷ trọng giao dịch rất lớn trên thị trường so với
các loại chứng khoán khác. Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2005 (sau đây gọi là Luật doanh nghiệp 2005) quy định, cổ phiếu là chứng chỉ
do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc

một số cổ phần của cơng ty. Cổ phiếu có thể có ghi tên hoặc khơng ghi tên. Luật chứng
khốn được Quốc hội thông qua ngày 29/06/2006 (sau đây gọi là Luật Chứng khoán
2006) đưa ra khái niệm cổ phiếu mang tính bao qt hơn, theo đó cổ phiếu là loại
chứng khốn xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần
vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Xét về bản chất, nhìn chung khơng có sự khác biệt
lớn giữa hai khái niệm về cổ phiếu trong Luật doanh nghiệp 2005 và Luật chứng khốn
2006. Mặc dù Luật chứng khốn 2006 khơng quy định rõ cổ phiếu do công ty cổ phần
(CTCP) phát hành xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần nhưng theo cách
diễn đạt ta có thể hiểu Luật chứng khốn 2006 đã thừa nhận điều đó. Vì “một phần vốn
cổ phần của tổ chức phát hành” có nghĩa là một cổ phần trong phần vốn điều lệ của
CTCP, vì chỉ có cơng ty cổ phần vốn điều lệ mới được chia thành nhiều phần bằng
nhau, mỗi phần bằng nhau gọi là cổ phần. Tuy nhiên, về hình thức thì Luật doanh
nghiệp 2005 quy định, cổ phiếu tồn tại dưới hình thức “chứng chỉ” hoặc “bút tốn ghi
sổ”, cịn Luật chứng khốn 2006 khơng đề cập đến hình thức tồn tại của cổ phiếu một
cách trực tiếp mà thơng qua khái niệm chứng khốn tại Khoản 1, Điều 6, theo đó
chứng khốn có thể tồn tại dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện
tử. Cả Luật chứng khoán 2006 cũng như Luật doanh nghiệp 2005 đều thừa nhận cổ
phiếu là một loại chứng khốn, vì vậy nó phải mang những đặc tính cơ bản của chứng
khốn như tính giá trị, tính sinh lời, tính rủi ro và tính thanh khoản.
Một số cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cổ phiếu có những đặc điểm sau
đây:
Thứ nhất, cổ phiếu chỉ có thể do CTCP phát hành. Các loại hình doanh nghiệp
khác như cơng ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH), công ty hợp danh, doanh nghiệp tư
nhân khơng có quyền phát hành chúng. Cổ phiếu đuợc các CTCP phát hành khi thành
lập công ty hoặc khi cơng ty cần gọi thêm vốn.
Thứ hai, hình thức của cổ phiếu có thể là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ hoặc dữ
liệu điện tử.


13


Với tính chất là một loại giấy tờ có giá, pháp luật các nước qui định cụ thể các
nội dung cấu thành nên tờ cổ phiếu. Thiếu một trong những nội dung luật định tờ cổ
phiếu khơng có giá trị pháp lý19.
Thứ ba, cổ phiếu là một loại giấy tờ được trị giá bằng tiền. Mặc dù cổ phiếu là
chứng thư xác nhận phần góp vốn vào CTCP song phần góp vốn ấy được định giá bằng
tiền thơng qua khái niệm mệnh giá và thị giá của cổ phiếu. Khác với các chứng khoán
nợ, mệnh giá của cổ phiếu chỉ có giá trị danh nghĩa. Giá mua bán cổ phiếu trên thị
trường thứ cấp do cung cầu quyết định. Giá trị mà cổ đông nhận lại khi công ty cổ phần
giải thể hay phá sản không phụ thuộc vào mệnh giá.
Thứ tư, cổ phiếu là một chứng chỉ góp vốn khơng có thời hạn, cổ phiếu tồn tại
cùng với thời hạn của CTCP. Người sở hữu cổ phiếu muốn thu lại số tiền mình đầu tư
khơng thể rút vốn khỏi cơng ty cổ phần mà chỉ có thể chun nhượng cho người khác.
Thứ năm, cổ phiếu có tính thống nhất, không phân chia. Nếu như một cổ phiếu
nhưng thuộc quyền sở hữu của hai hay nhiều đồng chủ sở hữu, thì các đồng chủ sở hữu
này thực hiện các quyền ghi nhận trong cổ phiếu thông qua đại diện mà không thể chia
nhỏ các quyền ghi nhận trong cổ phiếu cho các đồng chủ sở hữu cổ phiếu.
Thứ sáu, cổ phiếu có nhiều loại khác nhau như: cổ phiếu thường (common stock,
ordinary share) và cổ phiếu ưu đãi (preference share) bao gồm cổ phiếu ưu đãi biểu
quyết, ưu đãi cổ tức, ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phiếu ưu đãi khác20. Chủ sở hữu các
cổ phiếu cùng loại do một CTCP phát hành trong cùng một đợt phát hành có quyền và
lợi ích ngang nhau, khơng phụ thuộc vào thời điểm sở hữu cổ phiếu đó.
Thứ bảy, cổ phiếu được tự do chuyển nhượng trừ những trường hợp pháp luật có
quy định khác. Đây là điểm khác biệt cơ bản của cổ phiếu với Giấy chứng nhận góp
vốn của các thành viên góp vốn trong cơng ty trách nhiệm hữu hạn. Phần vốn góp của
thành viên cơng ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển nhượng nhưng theo một
quy trình khắt khe và hạn chế. Cổ phiếu hầu như được chuyển nhượng tự do. Tính tự
do chuyển nhượng cổ phiếu làm cho nó trở thành một loại hàng hoá trên thị trường
chứng khoán21.
1.1.2.2. Trái phiếu

Theo cách hiểu truyền thống, trái phiếu (bond, bill, notes) là phương tiện vay
nợ, theo đó chủ thể phát hành ra nó cam kết sẽ trả lại cả gốc và lãi vào thời gian nhất
định trong tương lai. Khoản 3, Điều 6 của Luật chứng khốn 2006 quy định: trái phiếu
19

Xem: Thơng tư số 86 /2003/BTC ngày 11/09/2003 do Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn mẫu tờ cổ phiếu và sổ
chứng nhận cổ đông trong công ty cổ phần.
20
Xem: Điều 78, Luật doanh nghiệp 2005.
21
Nguyễn Thanh Bình (2006), Định hướng hồn thiện pháp luật về phát hành chứng khoán - Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, Đại học luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 12


14

là loại chứng khốn xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một
phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Trái phiếu có nhiều loại khác nhau. Căn cứ vào
chủ thể phát hành, trái phiếu bao gồm: trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp;
căn cứ vào khả năng chuyển đổi có trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường
và trái phiếu khơng chuyển đổi; căn cứ vào tính chất đảm bảo khả năng thanh tốn gốc
và lãi có trái phiếu có đảm bảo và trái phiếu khơng có đảm bảo22. Trái phiếu có những
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, trái phiếu là một chứng khoán nợ cho phép người nắm giữ (trái chủ)
có quyền nhận lãi suất và được hồn vốn gốc vào cuối kỳ. Quyền của trái chủ cũng
chính là nghĩa vụ của tổ chức phát hành (TCPH). Lãi suất trái phiếu23 có thể được
thanh tốn cuối kỳ, có thể đầu kỳ theo hình thức chiết khấu hoặc cũng có thể định kỳ
hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm. Thời hạn thanh toán được ghi cụ thể trên trái
phiếu.
Thứ hai, trái phiếu là một bằng chứng xác lập mối quan hệ vay mượn nên nội

dung của trái phiếu chính là cam kết hoàn trả một khoản tiền (gốc và lãi) của TCPH
cho người nắm giữ trái phiếu đó. Trường hợp TCPH trái phiếu có dấu hiệu lâm vào
tình trạng phá sản thì chủ sở hữu trái phiếu với tư cách là chủ nợ, có quyền u cầu Tồ
án tun bố phá sản.
Thứ ba, lãi suất trái phiếu là một mức lãi suất cố định được ấn định trước và ghi
rõ trên trái phiếu. Thông thường mức lãi suất này cố định trong suốt thời gian có hiệu
lực của trái phiếu không phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi
nhuận từ việc sử dụng nguồn vốn của TCPH … trừ một số trường hợp đặc biệt đối với
trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating rate bonds).
Thứ tư, người nắm giữ trái phiếu có tư cách của một chủ nợ trong mối quan hệ
với TCPH. Do vậy, người sở hữu trái phiếu được bảo vệ tốt hơn trước các rủi ro trong
kinh doanh của TCPH, trong đó có rủi ro về phá sản. Cụ thể, khi TCPH bị phá sản hoặc
giải thể thì người nắm giữ trái phiếu được ưu tiên thanh tốn trước các cổ đơng. Đặc
biệt, các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương phát hành có mức
độ rủi ro thấp nhất, gần như bằng khơng (ngồi rủi ro lạm phát) vì được đảm bảo chi
trả bằng ngân sách nhà nước hoặc bằng ngân sách địa phương.
1.1.2.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư

22

Chi tiết về các loại trái phiếu doanh nghiệp, xem: Nghị định số 52/2006/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành
trái phiếu doanh nghiệp ban hành ngày 19/05/2006.
23
Có tài liệu gọi là lợi suất trái phiếu. Chi tiết về lợi suất trái phiếu, xem: Tài liệu đào tạo cho cán bộ của Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước (1999) Kiến thức chuyên sâu về chứng khoán và thị trường chứng khoán (Series7), TP.
HCM, tr. 51-62.


15


Chứng chỉ quỹ đầu tư là chứng khoán vốn, do công ty quản lý quỹ (CTQLQ)
hoặc các quỹ đầu tư chứng khoán (QĐTCK) phát hành, xác nhận quyền hưởng lợi của
nhà đầu tư từ hoạt động của quỹ24. So với các loại chứng khoán khác như cổ phiếu và
trái phiếu, chứng chỉ quỹ là một chứng khoán đặc biệt, được phát hành bởi một chủ thể
đặc biệt là các CTQLQ hoặc các QĐTCK. Về bản chất, đây là một hình thức đầu tư ủy
thác. Bằng việc mua các chứng chỉ quỹ đầu tư, NĐT đã thanh tốn tiền hình thành nên
QĐTCK và khoản tiền này sẽ ủy thác cho CTQLQ sử dụng để đầu tư vào chứng khoán
theo danh mục trên cơ sở tối đa hoá lợi nhuận và tối thiếu hố rủi ro. Do đó, chứng chỉ
quỹ đầu tư là một bằng chứng xác lập mối quan hệ ủy thác về quản lý tài sản. Theo đó,
bên ủy thác là các NĐT có quyền hưởng lợi dưới hình thức nhận cổ tức và được hưởng
giá trị tài sản tăng lên của QĐTCK, được nhận lại tài sản của quỹ khi quỹ giải thể25…;
bên nhận ủy thác là CTQLQ có quyền độc lập trong việc đưa ra quyết định đầu tư,
được hưởng phí quản lý QĐTCK (dưới dạng cố định hoặc phí thưởng)26. Do là một
loại chứng khốn vốn nên chứng chỉ quỹ đầu tư cũng có một số nét tương đồng với cổ
phiếu, tuy nhiên điểm khác biệt cơ bản là ở chỗ chứng chỉ quỹ đầu tư mang lại lợi
nhuận cho nhà đầu tư không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh của CTCP mà phần
lớn từ hoạt động đầu tư chứng khoán của quỹ.
Việc huy động vốn để hình thành nên QĐTCK thường tiến hành theo hai cách:
- Cách thứ nhất, một CTQLQ sẽ đứng ra huy động vốn bằng cách lấy tổng khối
lượng vốn dự kiến của quỹ chia nhỏ thành các phần bằng nhau, mỗi phần tương ứng
với một chứng chỉ quỹ và công ty sẽ bán các chứng chỉ ra công chúng như là những
đơn vị đầu tư. Quỹ này được gọi là QĐTCK dạng hợp đồng. Bản thân quỹ khơng có tư
cách pháp nhân, công ty quản lý quỹ là bên đại diện thực hiện mọi hoạt động đầu tư
theo đúng phương án hoạt động của quỹ được công bố khi thành lập.
- Cách thứ hai, một công ty được thành lập theo quy định của pháp luật hiện hành
sẽ chào bán các cổ phần ra công chúng. Khi mua cổ phần, người đầu tư trở thành cổ
đơng của quỹ và có đầy đủ các quyền do pháp luật quy định. Bản thân quỹ là một

24


Theo quy định tại khoản 4, Điều 6, Luật chứng khốn 2006 thì chứng chỉ quỹ được công ty quản lý quỹ phát
hành cho các nhà đầu tư khi thành lập quỹ đại chúng.
25
Về các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi tham gia quỹ đầu tư chứng khoán, xem tại Điều 84, Luật chứng
khoán 2006.
26
Về trách nhiệm và nghĩa vụ của công ty quản lý quỹ, xem tại Điều 18, Quy chế tổ chức và hoạt động của công
ty quản lý quỹ ban hành kèm theo Quyết định số 35/2007/QĐ-BTC ngày 15/05/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính.


16

CTCP có tư cách pháp nhân. Quỹ này được gọi là quỹ đầu tư dạng công ty mà pháp
luật Việt Nam hiện hành gọi là công ty đầu tư chứng khoán27.
Chứng chỉ quỹ đầu tư muốn được niêm yết trên SGDCK cũng phải qua quá
trình thẩm định niêm yết của SGDCK để xem xét các tiêu chuẩn về thời gian hoạt động
của quỹ, tổng giá trị chứng chỉ quỹ, số lượng người đầu tư tối thiểu vào quỹ, chiến lược
đầu tư…
1.1.2.4. Các chứng khốn khác
- Chứng khốn có thể chuyển đổi (convertible securities): Là những chứng khoán
cho phép người nắm giữ có thể đổi nó lấy một chứng khốn khác tuỳ theo lựa chọn và
trong những điều kiện nhất định. Thơng thường chứng khốn có thể chuyển đổi gồm 2
loại cơ bản: cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi thành cổ phiếu thường và trái phiếu được
chuyển đổi thành cổ phiếu thường. Các chứng khoán này đều phải qua quá trình thẩm
định trước khi được cấp phép niêm yết tương tự như cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Đặc biệt, khi phát hành những loại chứng khoán này sẽ tác động đến cơ cấu tài chính
của cơng ty nên tiêu chuẩn về tình hình tài chính được đánh giá kỹ khi thẩm định.
- Chứng khoán phái sinh (derivatives): Là loại chứng khốn được hình thành dựa
trên một hay nhiều loại chứng khoán cơ sở khác. Chứng khoán phái sinh là một dạng

sản phẩm mà xuất xứ (phái sinh) của nó từ các hàng hoá cơ sở như hàng hoá, tài sản,
tiền tệ. Các chứng khốn phái sinh là cơng cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp phòng ngừa
rủi ro trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tài chính. Dưới góc độ là một cơng cụ
tài chính, chứng khốn phái sinh cho phép cá nhân, tổ chức chuyển rủi ro sang một
định chế tài chính khác, là những định chế sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Aristotle đã đề
cập đến hợp đồng là quyền chọn (options) mà con người đã sử dụng chúng để thao
túng thị trường trước Thế kỷ 4 trước Công nguyên. Vào thế kỷ 17, hợp đồng quyền
chọn và giao sau đã được giao dịch trên TTCK và thậm chí là thị trường hoa tulip tại
Amsterdam28.Có nhiều loại chứng khoán phái sinh như:
 Quyền mua cổ phần (right): Là loại chứng khoán ghi nhận quyền ưu tiên dành
cho các cổ đông hiện hữu của một CTCP được mua trước một số lượng cổ phần trong
đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong
cơng ty, tại một mức giá xác định thấp hơn mức giá chào bán ra công chúng và trong
một thời hạn nhất định. Quyền mua cổ phần chỉ có hiệu lực trong một thời gian ngắn

27

Các quy định về cơng ty đầu tư chứng khốn, xem tại: Mục 3, Chương 2, Luật chứng khoán 2006 và Chương
4, Nghị định 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khốn do Chính phủ ban
hành ngày 19/01/2007 (tiếp theo sẽ được gọi là Nghị định 14/2007/NĐ-CP).
28
Trần Ngọc Thơ (2007), “Không thể chần chừ với cơng cụ phái sinh”, Đầu tư chứng khốn (33+34+35), tr. 1820.


17

(phổ biến nhất là trong vòng vài tháng) cho nên thường khơng được niêm yết trên
SGDCK.
Quyền mua cổ phần có một số đặc điểm sau đây:
Một là, mức giá đăng ký mua trong tất cả các dạng quyền mua cổ phần đều thấp

hơn giá hiện hành của cổ phiếu vào thời điểm quyền được phát hành. Sở dĩ có sự chênh
lệch này là do: thứ nhất, rủi ro có thể xảy ra khi giá thị trường giảm trong thời gian
phát hành quyền và điều đó làm cho đợt phát hành có nguy cơ khơng thành cơng; thứ
hai, mức chênh lệch này sẽ làm tăng tính hấp dẫn của đợt phát hành.
Hai là, mỗi cổ phần đang lưu hành kèm theo một quyền. Số lượng quyền cần
thiết để mua một cổ phần mới sẽ được quy định trong phương án phát hành của từng
đợt phát hành.
 Chứng quyền (warrants): Là loại chứng khốn trao cho người nắm giữ nó quyền
được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu
thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này thường
được phát hành kèm trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi nhằm mục tiêu khuyến khích các
nhà đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi kém hấp dẫn.
Chứng quyền có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chứng quyền cho phép người nắm giữ được mua cổ phiếu thường ở
một mức giá xác định và trong một khoảng thời gian nhất định. Về điểm này, chứng
quyền giống với quyền chọn mua sẽ đề cập dưới đây. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa
hai loại chứng khoán này là cách thức phát hành và thời gian hiệu lực của chúng.
Quyền chọn mua thường chỉ có hiệu lực trong vịng vài tháng, trong khi đó chứng
quyền có thời hạn dài hơn và thậm chí vĩnh viễn. Các chứng quyền do các tổ chức phát
hành chứng khoán cơ sở phát hành, khi được thực hiện chúng tạo thành dịng tiền cho
cơng ty và làm tăng số lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường. Các chứng quyền sau
một khoảng thời gian nhất định có thể tách rời khỏi chứng khốn cơ sở và khi đó chúng
có thể giao dịch riêng biệt trên thị trường.
Thứ hai, NĐT nắm giữ chứng quyền không phải là cổ đơng của cơng ty, và vì
thế khơng có quyền nhận cổ tức, quyền biểu quyết biếu và các quyền khác của cổ đông.
Tại thời điểm phát hành chứng quyền, giá mua cổ phiếu ghi trong chứng quyền bao giờ
cũng cao hơn giá thị trường của cổ phiếu cơ sở khoảng 15% theo thông lệ quốc tế.
Phần lớn các chứng quyền có thời hạn lưu hành từ 10 năm đến 15 năm hoặc vĩnh viễn.
 Hợp đồng kỳ hạn (forward): là một thỏa thuận trong đó một người mua và một
người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại

một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định ở hiện tại.


18

Điểm khác biệt giữa hợp đồng kỳ hạn với các giao dịch giao ngay là ở thời điểm
thanh toán hợp đồng. Trong phần lớn các giao dịch giao ngay, hàng hoá được trao đổi
và việc thanh toán được tiến hành ngay lập tức hoặc sau một khoảng thời gian ngắn kể
từ khi xác lập giao dịch. Còn các hợp đồng kỳ hạn bao giờ thời điểm thực hiện và
thanh toán cũng là một thời điểm trong tương lai và cách thời điểm ký kết khá lâu. Giá
trong hợp đồng kỳ hạn do hai bên tự thỏa thuận và các bên phải thực hiện mua bán
chứng khốn ở mức giá đó không phụ thuộc vào sự biến động của giá chứng khốn đó
trên thị trường giao ngay. Đó cũng chính là cơ hội kiếm lời và rủi ro cho các bên tham
gia hợp đồng: nếu giá chứng khoán cơ sở tăng cao hơn mức thỏa thuận trong hợp đồng
vào thời điểm thực hiện hợp đồng thì người bán sẽ lời, ngược lại sẽ bị lỗ và người mua
sẽ là người có lợi nhuận.
 Hợp đồng tương lai (future contracts): là một thỏa thuận đòi hỏi một bên của
hợp đồng sẽ mua hoặc bán (cam kết mua hoặc bán) một hàng hoá nào đó trong một
thời hạn xác định ở tương lai theo một mức giá đã định trước. Các hợp đồng tương lai
thường được chuẩn hoá và các bên tham gia giao dịch loại hàng hoá này chỉ thực hiện
thanh toán khoản chênh lệch do hợp đồng mang lại khi đến hạn hợp đồng mà không
phải thực hiện giao dịch hàng hố liên quan.
Hợp đồng tương lai có những điểm giống hợp đồng kỳ hạn ở chỗ: cả hai loại
hợp đồng đều là sự thỏa thuận về giá cả và hàng hoá tại thời điểm hiện tại nhưng việc
thực hiện sẽ diễn ra ở một thời điểm xác định trước trong tương lai. Tuy nhiên, nếu
việc thực hiện hợp đồng ký hạn phần lớn các trường hợp phải được tiến hành trực tiếp
giữa những người đã ký kết hợp đồng vì loại hợp đồng này thủ tục chuyển nhượng rất
phức tạp nên tính thanh khoản rất kém, trong khi hợp đồng tương lai tính thanh khoản
rất cao do khả năng chuyển nhượng dễ dàng nên được niêm yết trên các SGDCK, các
chủ thể thực hiện hợp đồng tương lai không nhất thiết phải là các bên tham gia ký kết

lúc đầu và có thể khơng quen biết nhau29.
 Quyền chọn mua, chọn bán (options): Là một hợp đồng cho phép người nắm
giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một
khối lượng chứng khoán nhất định tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất
định (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ) hoặc tại một thời điểm nhất định (nếu là quyền chọn
kểu Châu Âu).
Một hợp đồng quyền chọn mua, chọn bán thông thường sẽ bao gồm các nội
dung như: loại quyền (quyền chọn mua hay chọn bán), tên chứng khoán cơ sở và khối
lượng mua bán, ngày hết hạn của quyền, giá thực hiện…Người bán quyền trao cho
29

John C. Hull, University of Toronto (1998), Introduction to Future and Options Market, Prentice – Hall.


19

người mua hợp đồng quyền chọn mua, chọn bán một lượng chứng khốn nào đó để đổi
lấy một khoản tiền gọi là giá (hoặc phí) của quyền.
Tại Việt Nam, các loại chứng khốn phái sinh chưa có điều kiện để phát triển.
Luật chứng khoán 2006 mới chỉ đưa ra các khái niệm về quyền mua cổ phần, chứng
quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai mà chưa có văn bản
hướng dẫn chi tiết về việc phát hành, niêm yết, cơ chế giao dịch…của chúng. Hạn chế
này đã làm cho hàng hoá của TTCK VN bị hạn chế, cơ hội đầu tư của nhà đầu tư bị bó
hẹp dẫn đến thị trường kém sôi động.
Do phạm vi giới hạn của đề tài, trong Luận văn này tác giả chỉ tiến hành nghiên
cứu, khảo sát những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động niêm yết cổ phiếu, trái
phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư.
1.1.3. Phân loại niêm yết chứng khoán
1.1.3.1. Căn cứ vào địa điểm niêm yết
- Niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung: Trên thị trường này, các chứng

khoán niêm yết được giao dịch mua bán tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch
hoặc thơng qua hệ thống máy tính của SGDCK. Các chứng khốn được niêm yết trên
SGDCK thơng thường là chứng khốn của những cơng ty lớn, hoạt động sản xuất kinh
doanh tốt, uy tín, có tiềm lực về tài chính và nhiều triển vọng phát triển trong tương lai.
Các công ty này phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn nhất định về định tính và định
lượng.
- Niêm yết trên thị trường giao dịch phi tập trung: Đây là một thị trường được tổ
chức dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh tranh và thương lượng.
Thị trường này tồn tại ở nhiều địa điểm, tại bất kỳ nơi nào thuận lợi cho bên mua và
bên bán thương lượng giá cả, giao dịch và thông tin được dựa vào hệ thống điện thoại
và Internet với sự trợ giúp của các thiết bị nhận lệnh và chuyển lệnh. Chứng khoán
được giao dịch trên thị trường này thường chỉ cần đảm bảo tính thanh khoản tối thiểu
và tổ chức phát hành hoạt động nghiêm túc, không lừa đảo. Do vậy, chứng khoán giao
dịch trên thị trường OTC thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn, độ rủi ro cao hơn các
chứng khoán được niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung. Các chứng khoán niêm
yết trên thị trường OTC chủ yếu là cổ phiếu của các công ty vừa và nhỏ, công ty công
nghệ cao, cơng ty mới thành lập nhưng có tiềm năng phát triển tốt; trái phiếu doanh
nghiệp và trái phiếu Chính phủ, các chứng khốn phái sinh, . . .Thơng thường các cơng
ty có chứng khốn giao dịch trên thị trường OTC là những công ty chưa đủ điều kiện
niêm yết trên thị trường tập trung, tuy nhiên cũng có trường hợp các công ty này đã đáp
ứng được tiêu chuẩn niêm yết nhưng do nhiều lý do khác nhau nên họ vẫn muốn giao
dịch trên thị trường OTC.


20

1.1.3.2.

Căn cứ vào chứng khoán niêm yết


- Niêm yết cổ phiếu: Niêm yết cổ phiếu là việc đưa cổ phiếu của các CTCP phần
đáp ứng những điều kiện được giao dịch tại SGDCK. Để được niêm yết trên thị trường
chứng khốn, cổ phiếu của một cơng ty phải trải qua quá trình thẩm định niêm yết và
đáp ứng được các tiêu chuẩn định lượng về thời gian hoạt động, vốn cổ phần, lợi
nhuận, số lượng cổ đông công chúng, số lượng cổ phần mà các thành viên chủ chốt
cam kết nắm giữ, các chỉ tiêu về tình hình tài chính; đồng thời phải đảm bảo các tiêu
chuẩn định tính khác như cơ cấu tổ chức của công ty, khả năng quản lý của ban lãnh
đạo, việc áp dụng các nguyên tắc quản trị công ty, triển vọng của công ty trong tương
lai, những đóng góp của cơng ty cho ngành, nghề nói riêng và nền kinh tế nói chung…

- Niêm yết trái phiếu: Niêm yết trái phiếu là quá trình một trái phiếu được
SGDCK chấp thuận cho vào giao dịch tại SGDCK. Các trái phiếu có thể được niêm yết
bao gồm: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh
nghiệp. Không giống như cổ phiếu, trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa
phương được niêm yết theo quyết định của cấp có thẩm quyền mà khơng phải trải qua
q trình thẩm định niêm yết vì đây là hai loại trái phiếu được xem gần như là khơng
có rủi ro, do được Chính phủ hoặc chính quyền địa phương đảm bảo thanh tốn lãi và
gốc khi đáo hạn. Riêng đối với trái phiếu doanh nghiệp thì vẫn phải qua quá trình thẩm
định trước khi được cấp phép niêm yết và công ty cần đáp ứng được một số tiêu chuẩn
về vốn, lợi nhuận, tình hình tài chính, tỷ lệ nợ, số lượng người nắm giữ…

- Niêm yết chứng chỉ quỹ đầu tư: Chứng chỉ quỹ muốn được niêm yết trên
SGDCK cũng phải qua quá trình thẩm định niêm yết của SGDCK để xem xét các tiêu
chuẩn về thời gian hoạt động của quỹ, tổng giá trị chứng chỉ quỹ, số lượng người đầu
tư tối thiểu vào quỹ, chiến lược đầu tư…

-

Niêm yết chứng khoán có thể chuyển đổi: Thơng thường chứng khốn có thể
chuyển đổi tồn tại dưới hai dạng: cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi thành cổ phiếu

thường và trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thường. Các chứng khoán này
đều phải qua quá trình thẩm định trước khi được cấp phép niêm yết tương tự như cổ
phiếu và trái phiếu doanh nghiệp. Do phát hành những loại chứng khoán này sẽ tác
động đến cơ cấu tài chính của CTCP nên tiêu chuẩn về tình hình tài chính được đánh
giá kỹ khi thẩm định.

- Niêm yết chứng khoán phái sinh: Chứng khốn phái sinh là một loại chứng
khốn cao cấp, có cơ chế phát hành và giao dịch phức tạp nên chỉ có các TTCK đã phát
triển thì những chứng khốn này mới phổ biến và được niêm yết giao dịch tại SGDCK
chuyên biệt. Hiện nay trên thế giới, nhiều nước đã hình thành các thị trường để giao


21

dịch các loại hàng hoá đặc thù như hợp đồng tương lai và quyền chọn. Hai thị trường
hợp đồng tương lai lớn nhất thế giới là Chicago Board of Trade (CBOT) được thành
lập năm 1848 và Chicago mercantile Exchange (CME) thành lập năm 1874. Bên cạnh
đó, các thị trường quyền chọn cũng phát triển khá mạnh mẽ như: Chicago Board
Options Exchange thành lập năm 1973 và một số thị trường khác30. Trên TTCK VN,
theo quy định hiện nay mới chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư của quỹ
đầu tư công chúng là được phép niêm yết và giao dịch trên thị trường giao dịch tập
trung.
1.1.3.3. Căn cứ vào thời điểm thực hiện niêm yết
- Niêm yết lần đầu (initial listing): Niêm yết lần đầu là việc cho phép chứng
khoán của TCPH được đăng ký niêm yết giao dịch chứng khoán lần đầu sau khi phát
hành ra công chúng và đáp ứng được các tiêu chuẩn niêm yết của SGDCK. Hồ sơ và
quy trình xét duyệt niêm yết lần đầu khá phức tạp và mất nhiều thời gian. Các CTCP
khi có ý định niêm yết cổ phiếu hay trái phiếu của công ty và đáp ứng được các điều
kiện niêm yết theo quy định sẽ lập một bộ hồ sơ gởi cho SGDCK. Thông thường, các
công ty chứng khốn (CTCK) sẽ đảm nhiệm cơng việc tư vấn và lập hồ sơ xin cấp

phép niêm yết.
- Niêm yết bổ sung (additional listing): Niêm yết bổ sung là việc TCNY trên
SGDCK thực hiện phát hành thêm một lượng cổ phiều, trái phiếu mới với nhiều mục
tiêu khác nhau như huy động thêm vốn kinh doanh, tăng vốn điều lệ, thực hiện quyền
chuyển đổi trái phiếu, chi trả cổ tức, sáp nhập, phát hành cổ phiếu thưởng... và thực
hiện việc niêm yết cho đợt phát hành bổ sung đó. Trên thực tế, việc thẩm định niêm yết
của SGDCK đối với trường hợp niêm yết bổ sung thực chất là thẩm định đợt phát hành
bổ sung31. Do các công ty này hiện đang niêm yết nên các thông tin trong quá khứ và
hiện tại đều được SGDCK nắm rõ nên hồ sơ niêm yết bổ sung khá gọn nhẹ, chỉ bao
gồm các tài liệu có liên quan đến việc phát hành bổ sung đó.
- Thay đổi niêm yết (change listing): Khi TCNY tiến hành thay đổi tên, thay đổi
loại chứng khoán niêm yết trong trường hợp tiến hành chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi
thành cổ phiếu thường, thay đổi mệnh giá và số lượng chứng khoán niêm yết trong
trường hợp tách, gộp cổ phiếu thì TCNY phải thực hiện quá trình thay đổi niêm yết. Do
việc thay đổi niêm yết chỉ thay đổi về mặt kỹ thuật và các thông tin của các công ty này
cũng được SGDCK nắm rõ nên hồ sơ thay đổi niêm yết cũng khá gọn nhẹ và đơn giản.
30

Về cơ chế giao dịch các hợp đồng tương lai và quyền chọn, xem: Bùi Lê Hà, Nguyễn Văn Sơn và những người
khác (2000), Giới thiệu về thị trường Future và Option, NXB Thống kê, Hà Nội.
31
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (1998), Báo cáo Tổng kết Dự án trợ giúp kỹ thuật thành lập Sở giao dịch
chứng khoán Việt Nam, Phần IV: Hệ thống niêm yết, Hà Nội, tr. 21.


22

- Niêm yết lại (relisting): Niêm yết lại là việc SGDCK cho phép một doanh
nghiệp được phép tiếp tục niêm yết trở lại các chứng khoán trước đây đã bị hủy niêm
yết vì lý do khơng duy trì được các điều kiện niêm yết32 hoặc thực hiện các hành vi vi

phạm về CBTT hoặc các hành vi vi phạm khác theo quy định của pháp luật. Việc một
chứng khoán bị hủy niêm yết có thể được xem như một biện pháp chế tài mà SGDCK
áp dụng đối với TCNY. Sau khi đã khắc phục được những nguyên nhân dẫn đến việc
hủy niêm yết và tái đáp ứng được các điều kiện niêm yết, doanh nghiệp có thể nộp hồ
sơ lên SGDCK xin được niêm yết chứng khoán trở lại. Đối với trường hợp này, thông
thường SGDCK các nước sẽ bắt buộc các doanh nghiệp nộp bộ hồ sơ như niêm yết lần
đầu và các tài liệu chứng minh các nguyên nhân bị hủy niêm yết đã được khắc phục.
1.1.3.4. Căn cứ vào số lượng chứng khoán niêm yết
- Niêm yết toàn phần (dual listing): Niêm yết toàn phần là việc niêm yết tất cả các
chứng khoán sau khi đã phát hành ra công chúng trên SGDCK trong nước hoặc quốc
tế. Thông thường, các CTCP sau khi đã phát hành cổ phiếu phổ thơng ra cơng chúng
thì vấn đề niêm yết trên SGDCK chỉ còn là vấn đề thời gian. Cổ phiếu phổ thơng khi
được niêm yết sẽ có tính thanh khoản tốt hơn, cổ đông dễ dàng mua bán chuyển
nhượng hơn.
- Niêm yết từng phần (partial listing): Đây là việc niêm yết một phần trong tổng
số chứng khoán đã phát hành ra cơng chúng của lần phát hành đó, phần cịn lại khơng
hoặc chưa niêm yết. Niêm yết từng phần thường diễn ra ở các cơng ty lớn do Chính
phủ kiểm soát, phần chứng khoán phát hành ra thị trường do các nhà đầu tư nắm giữ
được niêm yết, còn phần nắm giữ của Chính phủ hoặc tổ chức đại diện cho Chính phủ
nắm giữ khơng niêm yết. Tại Việt Nam, trường hợp niêm yết từng phần còn xảy ra đối
với các cổ phiếu của công ty cổ phần đã thực hiện cổ phần hố từ doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi33 theo Nghị định 38/2003/NĐ-CP Chính phủ về cổ phần hóa các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày 15/04/2003 (sau đây gọi là Nghị định
38/2003/NĐ-CP) và sau đó niêm yết trên TTCK. Lý do là các nhà đầu tư trong doanh
nghiệp có vốn nước ngồi trước đây sau khi cổ phần hoá và niêm yết họ vẫn bị hạn chế
chuyển nhượng cổ phần cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam. Cụ thể, Điều 15 Nghị định
38/2003/NĐ-CP quy định việc chuyển nhượng cổ phần của các CTCP được chuyển
đổi như sau:
32


Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (1999), Chương trình đào tạo Luật áp dụng trong ngành chứng khoán, Hà
Nội, tr. 93.
33
Những vấn đề liên quan đến cổ phần hố doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và những tác động đến
TTCK, xem: Trần Cơng Kha (2006), Phát triển hình thức cơng ty cổ có vốn đầu tư nước ngoài - giải pháp tăng
cường thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam - Luận án tiến sĩ kinh tế, ĐH
Kinh tế TP. HCM.


23

1. Trong q trình hoạt động, các cổ đơng sáng lập nước ngoài được phép
chuyển nhượng cổ phần cho tổ chức, cá nhân nước ngoài.
2. Việc chuyển nhượng cổ phần do cổ đơng sáng lập nước ngồi nắm giữ cho
các tổ chức, cá nhân Việt Nam phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn y và
phải đảm bảo quy định tại khoản 1 Điều 10, khoản 3 Điều 12 Nghị định này. Số
tiền thu được, cổ đông sáng lập nước ngoài phải dùng để tái đầu tư tại Việt
Nam; trường hợp chuyển ra khỏi Việt Nam phải được sự chấp thuận của cơ
quan có thẩm quyền.
Chính vì vậy, mà số cổ phiếu tương ứng với phần vốn nắm giữ của các nhà đầu
tư nước ngoài theo Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài trước đây trong các doanh nghiệp
cổ phần thực hiện cổ phần hoá theo Nghị định 38/2003/NĐ-CP của Chính phủ khơng
niêm yết, phần cổ phiếu niêm yết là phần của bên Việt Nam nắm giữ hoặc phần đã phát
hành bổ sung để huy động vốn34. Trên số lượng cổ phiếu được niêm yết, nhà đầu tư
nước ngoài laị có cơ hội nắm giữ 49% theo quy định của pháp luật.
1.1.3.5. Căn cứ vào hình thức niêm yết
- Niêm yết cửa trước (front-door listing): Niêm yết cử trước là phương thức niêm
yết thông qua việc nôp hồ sơ xin phép niêm yết theo thủ tục thông thường và tuân thủ
tât cả các tiêu chuẩn niêm yết của SGDCK. Phần lớn các doanh nghiệp niêm yết chứng
khoán tại SGDCK đều thực hiện theo phương thức này. Khi thực hiện niêm yết cửa

trước có nghĩa là doanh nghiệp đã phải đáp ứng những điều kiện do SGDCK đề ra và
phải thực hiện theo con đường “chính ngạch”, nghĩa là phải tuân theo những trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định. Đó là phải kiểm tốn báo cáo tài chính, thực hiện công
bố thông tin, đáp ứng các yêu cầu về tỷ lệ sở hữu của cổ đông công chúng…Mặc dù
thế, việc niêm yết cửa trước giúp cho doanh nghiệp hạn chế những tranh chấp và
những điều tra có thể phát sinh từ cơ quan quản lý, hình ảnh và uy tín của cơng ty được
nâng cao.
- Niêm yết cửa sau (back- door listing): “Niêm yết cửa sau” được hiểu là một
CTCP chưa đủ điều kiện niêm yết đã dùng biện pháp thâu tóm hay sáp nhập để chiếm
quyền kiểm soát một CTCP đã niêm yết và nghiễm nhiên được niêm yết trên TTCK
bằng sự đổi tên của cổ phiếu đã niêm yết35. Nói cách khác, niêm yết cửa sau là kỹ thuật
mà một CTCP đã thất bại trong việc niêm yết cửa trước trên SGDCK sử dụng thông
qua việc thâu tóm và sáp nhập với một CTCP đã niêm yết trên SGDCK36. Theo một số
34

Những vấn đề pháp lý liên quan đến niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trên TTCK
Việt Nam, xem thêm: Mai Hữu Đạt (2004), “Niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trên
TTCK”, Chứng khoán Việt Nam (04), tr. 15-17.
35
Xem tại: />36
Xem: investorwords: listing.html


24

tài liệu nước ngoài, niêm yết cửa sau xảy ra khi việc phát hành cổ phiếu của một CTCP
niêm yết, qua đó một CTCP khác chưa niêm yết mua với số lượng lớn để thâu tóm và
nắm quyền kiểm sốt thực tế đối với CTCP niêm yết. Một giao dịch là nguyên nhân
kéo theo hệ quả niêm yết cửa sau có thể diễn ra dưới một số hình thức như: phát hành
cổ phiếu để tăng vốn, hợp nhất hoặc sáp nhập. Những giao dịch này thường được coi là

niêm yết cửa sau nếu chúng sẽ (hoặc có thể sẽ) dẫn tới kết quả là cơng ty thâu tóm nắm
giữ trên 50% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của CTCP niêm yết, kèm theo đó là sự
thay đổi quyền kiểm sốt thực tế CTCP niêm yết37. Có nhiều ngun nhân khiến doanh
nghiệp tìm cách niêm yết cửa sau bởi họ muốn tránh các khoản chi phí của việc niêm
yết cửa trước như chi phí tư vấn phát hành, luật sư, kế tốn viên, cơng ty chứng
khốn... Mặt khác, các cơng ty này muốn rút ngắn thời gian chờ được niêm yết, thơng
thường mất ít nhất là sáu tháng, và giảm thiểu những thủ tục phức tạp liên quan tới cơ
quan quản lý khi niêm yết.
1.1.4. Điều kiện niêm yết chứng khốn
Ở tất cả các quốc gia có TTCK, các doanh nghiệp muốn đưa chứng khoán vào
giao dịch tại SGDCK đều phải đáp ứng những điều kiện nhất định do pháp luật hoặc
các quy chế của SGDCK quy định. Quy định này là nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà
đầu tư và đảm bảo rằng chứng khoán được niêm yết phải là chứng khốn có chất lượng
cao, trong khi kiến thức của các nhà đầu tư khác nhau và không phải ai cũng đủ khả
năng tự phân tích, đánh giá doanh nghiệp để đưa ra quyết định đầu tư. Mặt khác, việc
“khắt khe” với chứng khốn niêm yết cịn nhằm để tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu
tư - một trong những yếu tố duy trì và phát triển TTCK, đặc biệt đối với các TTCK của
các quốc gia phát triển38. Nhìn chung, ở nhiều nước khác nhau, pháp luật có thể đưa ra
các yêu cầu, điều kiện niêm yết khác nhau tùy thuộc vào hệ thống pháp luật, trình độ
phát triển của thị trường. Các điều kiện niêm yết có thể được chia là hai nhóm cơ bản:
điều kiện định tính và điều kiện định lượng. Điều kiện định tính là những điều kiện chỉ
có thể xác định thơng qua cảm tính, khó lượng hố được. Ngược lại, điều kiện định
lượng là những điều kiện có thể lượng hố thơng qua việc áp dụng các biện pháp thống
kê, tính tốn cụ thể.
1.1.4.1. Điều kiện định tính
- Đánh giá về triển vọng của doanh nghiệp: Những doanh nghiệp được niêm yết
trên TTCK thường là những doanh nghiệp có triển vọng phát triển trong tương lai. Một
doanh nghiệp có khả năng phát triển được đánh giá qua năng lực hoạt động của doanh
37


Toronto Stock Exchange Manual, article 626.
Đào Lê Minh (2002), Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khốn và thị trường chứng khốn, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 193.

38


25

nghiệp, chiến lược sản xuất kinh doanh và đầu tư phù hợp, ban lãnh đạo và đội ngũ
nhân viên năng động, làm việc hiệu quả.
Ý kiến kiểm toán về các báo cáo tài chính: Các BCTC cần có xác nhận của tổ
chức kiểm toán độc lập được chấp thuận; ý kiến kiểm tốn đối với báo cáo tài chính
phải thể hiện chấp nhận tồn bộ hoặc chấp nhận có ngoại trừ. Yêu cầu này được đặt ra
nhằm đảm bảo những thơng tin về tình hình hoạt động kinh doanh và tài chính thể hiện
trong các báo cáo tài chính là chính xác và phản ánh đúng thực tế hoạt động của doanh
nghiệp.
- Cơ cấu tổ chức hoạt động của doanh nghiệp: Doanh nghiệp phải có cơ cấu tổ
chức phù hợp tạo điều kiện phát huy được vai trò lãnh đạo của Hội đồng quản trị
(HĐQT) và Ban điều hành. HĐQT cần có quy mơ vừa phải để đảm bảo thảo luận và
cộng tác hiệu quả và có đủ người để hồn thành cơng việc. Theo thơng lệ quốc tế, trong
HĐQT cần có các thành viên độc lập khơng điều hành để thực hiện công tác giám sát
hoạt động của Ban giám đốc một cách khách quan.
- Lợi ích mang lại đối với ngành, nghề trong nền kinh tế quốc dân: Hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không những tạo sự phát triển bền vững cho
cơng ty mà cịn phải góp phần thúc đẩy ngành, nghề đó tăng trưởng và phát triển.
Những doanh nghiệp được niêm yết là những doanh nghiệp tiêu biểu, làm ăn hiệu quả
và thường là những doanh nghiệp hàng đầu trong một ngành, nghề kinh doanh.
- Tổ chức công bố thông tin: Hoạt động CBTT của doanh nghiệp phải chính xác,
kịp thời, phản ánh đúng sự việc, theo đúng quy định và có quy trình chặt chẽ nhằm

đảm bảo mọi nhà đầu tư đều có cơ hội tiếp cận thông tin một cách công bằng, đảm bảo
tính minh bạch cho TTCK.
1.1.4.2. Điều kiện định lượng
- Thời gian hoạt động từ khi thành lập doanh nghiệp: Để đăng ký cho chứng
khoán niêm yết trên SGDCK, doanh nghiệp phải có nền tảng kinh doanh vững chắc và
thời gian hoạt động liên tục trong một số năm nhất định tính đến thời điểm đăng ký
niêm yết. Thơng thường, đối với các thị trường truyền thống, tổ chức đăng ký niêm yết
phải có thời gian hoạt động tối thiểu 3-5 năm, hoặc phải có cổ phiếu đã được giao dịch
trên thị trường phi tập trung.
- Quy mô và cơ cấu sở hữu vốn cổ phần: Quy mô của doanh nghiệp phải đủ lớn
để tạo nên tính thanh khoản cho chứng khốn. Ngồi ra, để đảm bảo tiêu chí đại chúng,
số lượng chứng khốn do nhà đầu tư cơng chúng nắm giữ phải đạt mức tối thiểu theo
quy định. Ví dụ, theo quy định hiện nay để được cấp phép niêm yết cổ phiếu trên


×