Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Một số vấn đề pháp lý về thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản theo luật phá sản 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
---------------------------

TRỊNH THỊ NHUNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ THỦ TỤC NỘP
ĐƠN YÊU CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
THEO LUẬT PHÁ SẢN 2004

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành: Luật Thƣơng Mại

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2012


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ THỦ TỤC NỘP
ĐƠN YÊU CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
THEO LUẬT PHÁ SẢN 2004

SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRỊNH THỊ NHUNG
Khóa: 33
MSSV: 0855010148
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. BÙI THỊ THANH


THẢO

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu khoa học này là của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực, nếu đã từng được cơng bố trong
các cơng trình khác thì đều được trích dẫn nguồn cụ thể. Tơi xin chịu trách nhiệm
hồn tồn về tính xác thực này.

Tác giả

Trịnh Thị Nhung


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin cảm ơn các thầy cô, các bạn đã giúp tác giả trong quá trình thực
hiện khóa luận này. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Bùi
Thị Thanh Thảo, cám ơn cơ đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo để em hồn thành tốt khóa
luận của mình.


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC NỘP ĐƠN YÊU CẦU VÀ
MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN ........................................................................................ 4
1.1 Khái quát chung về phá sản và thủ tục phá sản............................................... 4
1.1.1 Khái niệm phá sản và vai trò của phá sản trong nền kinh tế .............................. 4

1.1.1.1 Khái niệm phá sản ........................................................................................... 4
1.1.1.2 Vai trò của pháp luật phá sản .......................................................................... 7
1.1.2 Khái quát về thủ tục phá sản theo Luật phá sản 2004 ...................................... 10
1.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của thủ tục phá sản .................................................. 10
1.1.2.2 Trình tự thủ tục giải quyết phá sản theo Luật phá sản 2004 ......................... 14
1.2 Khái quát chung về thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản .......... 16
1.2.1 Vị trí, ý nghĩa của thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản ................. 16
1.2.2 Trình tự, thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản ................................ 19
1.2.3 Các chủ thể tham gia thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản ........... 24
1.2.3.1 Vai trò và nhiệm vụ của Tòa án ................................................................... 24
1.2.3.2 Vai trò và nhiệm vụ của Tổ quản lý, thanh lý tài sản .................................. 25
1.2.3.3 Sự tham gia thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục của các chủ nợ, người
lao động, DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản ..................................................... 25
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN 2004 VỀ THỦ TỤC NỘP
ĐƠN YÊU CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN – THỰC TRẠNG VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ....................................................................................................... 27
2.1 Những vấn đề pháp lý về thủ tục thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .. 27
2.1.1 Đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ........... 27
2.1.1.1 Đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ............................ 27


2.1.1.2 Đối tượng có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ........................ 32
2.1.2 Căn cứ và hệ quả pháp lý của quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản.............................................................................................................................. 34
2.2 Những vấn đề pháp lý về việc mở thủ tục phá sản......................................... 37
2.2.1 Căn cứ và hậu quả pháp lý của quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá
sản.............................................................................................................................. 37
2.2.1.1 Căn cứ ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản ............................ 37
2.2.1.2 Hậu quả của quyết định mở thủ tục phá sản ................................................. 39
2.2.2 Các biện pháp bảo toàn tài sản của DN - HTX sau khi có quyết định mở thủ

tục phá sản ................................................................................................................. 41
2.2.2.1 Mục đích và ý nghĩa của các biện pháp bảo toàn tài sản .............................. 41
2.2.2.2 Những biện pháp bảo toàn tài sản được áp dụng sau khi có quyết định mở
thủ tục phá sản ........................................................................................................... 42
2.3 Hội nghị chủ nợ - thủ tục thƣơng lƣợng giữa chủ nợ và DN - HTX mắc
nợ .............................................................................................................................. 46
2.3.1 Ý nghĩa của Hội nghị chủ nợ ........................................................................... 46
2.3.2 Chủ thể có quyền và nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ ................................ 47
2.3.3 Điều kiện họp hợp lệ và thông qua Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ .............. 48
2.3.3.1 Về điều kiện họp hợp lệ của Hội nghị chủ nợ ............................................... 48
2.3.3.2 Về điều kiện thông qua Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ ............................ 50
2.4 Một số kiến nghị hoàn thiện ............................................................................ 51
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 56


LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Luật phá sản doanh nghiệp ra đời năm 1993 (Luật phá sản 1993) là văn bản
pháp lý đầu tiên điều chỉnh trình tự thủ tục giải quyết phá sản DN. Luật phá sản
1993 đã đóng một vai trị quan trọng trong q trình hình thành một cơ chế pháp lý
cho việc xử lý nợ của DN cũng như hình thành một biện pháp mới cho các chủ nợ
thực hiện việc thu hồi nợ. Tuy nhiên, sau khi có hiệu lực và được đưa vào áp dụng
trong thực tiễn, Luật phá sản 1993 đã bộc lộ những hạn chế bất cập, làm cản trở
việc chấm dứt hoạt động của DN đã lâm vào tình trạng phá sản. Xuất phát từ thực
tiễn đó, Luật phá sản 2004 được Quốc hội ban hành vào ngày 15/6/2004, có hiệu
lực vào ngày 15/10/2004 (Luật phá sản 2004) đã hạn chế được phần nào những bất
cập của Luật phá sản 1993. Luật phá sản 2004 được đánh giá là một bước tiến mới
trong việc cải thiện môi trường kinh doanh của các DN - HTX đồng thời có những
biện pháp hữu hiệu bảo đảm lợi ích của chủ nợ cũng như bảo vệ các lợi ích chính

đáng của DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Luật phá sản 2004 có những quy định về trình tự thủ tục phá sản hợp lý hơn,
linh hoạt hơn. Việc tiến hành tuyên bố một DN – HTX phá sản tùy vào từng trường
hợp cụ thể mà có thủ tục phù hợp chứ không nhất thiết phải trải qua cả bốn thủ tục
(nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản, phục hồi hoạt động kinh doanh, thanh lý
tài sản các khoản nợ, tuyên bố DN – HTX bị phá sản, khoản 1 Điều 5 Luật phá sản
2004). Theo quy định của Luật phá sản 2004, sau khi có quyết định mở thủ tục phá
sản, căn cứ vào các quy định cụ thể của Luật, Thẩm phán xem xét và ra quyết định
áp dụng một trong hai thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thanh lý tài sản,
Thẩm phán cũng có thể quyết định chuyển từ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
sang thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố DN – HTX bị phá sản.
Như vậy, thủ tục phá sản theo Luật phá sản 2004 không nhất thiết áp dụng tất
cả và lần lượt các thủ tục được quy định tại khoản 1, Điều 5. Tuy nhiên, trong các
thủ tục được quy định, thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản là thủ tục
pháp lý đầu tiên và quan trọng để khởi động quá trình giải quyết phá sản đối với
một DN – HTX. Trừ trường hợp quy định tại Điều 87 Luật phá sản về việc quyết
định tuyên bố DN – HTX bị phá sản trong trường hợp đặc biệt khi chưa thụ lý đơn
và sau khi thụ lý đơn thì việc giải quyết một vụ việc phá sản bắt buộc phải trải qua
thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản. Các quy định về nộp đơn yêu cầu và
mở thủ tục phá sản có vai trị hết sức quan trọng trong việc góp phần giúp các DN –
HTX đang trong tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn sớm được áp dụng
thủ tục phá sản, hạn chế tình trạng thất thốt tài sản, nhanh chóng tiến hành các giải
pháp tổ chức lại DN, bảo đảm quyền lợi cho các chủ nợ và DN – HTX lâm vào tình
1


trạng phá sản. Qua tám năm thực hiện Luật phá sản 2004, các quy định về thủ tục
nộp đơn yêu cầu, mở thủ tục phá sản đã dần bộc lộ những ưu và nhược điểm nhất
định. Đặc biệt những hạn chế trong các quy định về thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở
thủ tục phá sản đã có tác động không nhỏ đến hiệu quả giải quyết vụ việc phá sản,

tác động không nhỏ đến sự lựa chọn của các chủ thể khi họ tìm kiếm các giải pháp
nhằm bảo vệ quyền lợi của mình khi tình trạng phá sản DN – HTX xảy ra, cũng từ
đó mà ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Như vậy, nghiên cứu để hiểu rõ những tiến bộ và hạn chế của thủ tục này từ đó
góp phần hồn thiện Luật phá sản của Việt Nam, để Luật phá sản thực sự trở thành
công cụ pháp lý hữu ích trong việc giải quyết phá sản, giữ vai trị quan trọng trong
q trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay là điều hết sức cần thiết. Do vậy, tác giả
đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về thủ tục nộp đơn yêu cầu và
mở thủ tục phá sản theo Luật phá sản 2004” để thực hiện khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu, tác giả nhận thấy trước và sau khi Luật phá
sản 2004 ra đời đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về pháp luật phá sản. Có thể
kể tên một số cơng trình nghiên cứu mà tác giả đã tìm hiểu như: Ở góc độ chung
nhất có đề tài luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp”
của tác giả Bùi Xuân Hải, luận văn thạc sỹ “Luật phá sản Việt Nam dƣới góc độ
so sánh” của tác giả Lê Hữu Trí, luận văn thạc sỹ “Trình tự thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp” của tác giả Hồ Lâm Phương Dung…Ở góc
độ viết cụ thể hơn có đề tài luận văn thạc sỹ “Thủ tục thanh lý tài sản theo Luật
phá sản 2004” của tác giả Lê Thị Kim Ánh, luận văn cử nhân “Thủ tục phục hồi
kinh doanh – thực trạng pháp luật và hƣớng hoàn thiện” của tác giả Lê Thị
Hoàng Minh, luận văn cử nhân “Thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã theo
Luật phá sản 2004” của tác giả Hi Hoàng Khánh Linh…ngoài ra còn một số đề tài
khác như luận văn thạc sỹ “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ”
của tác giả Lê Thị Đào, luận văn cử nhân “Điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ theo Luật phá sản hiện hành” của tác giả Lữ Thị
Ngọc Diệp,…
Như vậy, pháp luật phá sản đã được các tác giả nghiên cứu rất nhiều, từ phạm
vi chung nhất đến phạm vi cụ thể trong từng thủ tục của phá sản. Tuy nhiên, qua
tham khảo, tác giả nhận thấy chưa có một đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về thủ
tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản. Vì vậy tác giả đã thực hiện khóa luận

này theo hướng đi riêng của mình phù hợp với các quy định của pháp luật và thực
tiễn thi hành nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
Nghiên cứu đề tài, mục tiêu đầu tiên của khóa luận là nhằm làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản trong
q trình Tịa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, đánh giá thực trạng của các
quy định pháp luật phá sản về thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản từ đó
đề xuất những phương hướng hồn thiện thủ tục này nói chung, Luật phá sản nói
riêng, để Luật phá sản ngày càng đi vào cuộc sống, phù hợp với thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu những quy định về việc nộp đơn yêu cầu
và mở thủ tục phá sản, làm rõ vấn đề lý luận và phân tích các quy định của pháp
luật về thủ tục này, trên cơ sở có so sánh với Luật phá sản thời kỳ trước và Luật phá
sản một số quốc gia cụ thể.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Khóa luận này được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mac – Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản và Nhà
nước ta về xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Khóa
luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp trong quá
trình lý giải các vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa thực tiễn
Khóa luận là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo trong q trình thực
hiện công tác pháp luật. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo cho sinh viên luật
cũng như các chủ thể khác quan tâm về vấn đề này. Những kiến nghị được nêu
trong khóa luận có ý nghĩa nhất định trong việc góp phần hồn thiện các quy định
của pháp luật về thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản nói riêng, cũng như

góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của Luật phá sản nói chung trong quá trình hội
nhập và phát triển của đất nước.
7. Bố cục của khóa luận
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC NỘP ĐƠN YÊU
CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN 2004 VỀ THỦ TỤC
NỘP ĐƠN YÊU CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN – THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN CHUNG

3


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC NỘP ĐƠN
YÊU CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN

1.1

Khái quát chung về phá sản và thủ tục phá sản
1.1.1 Khái niệm phá sản và vai trò của phá sản trong nền kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm phá sản

Hiện nay, khơng có một khái niệm chung về phá sản, tiếp cận khái niệm phá
sản là tiếp cận ở hai góc độ: (i) ở góc độ tài chính là dấu hiệu DN “lâm vào tình
trạng phá sản” và (ii) ở góc độ pháp lý là “thủ tục thanh tốn nợ đặc biệt”. Như vậy
có thể hiểu một cách khái quát: phá sản là một thủ tục thanh toán nợ đặc biệt áp
dụng đối với những chủ thể bị lâm vào tình trạng phá sản. Để hiểu rõ khái niệm phá
sản, chúng ta cần làm rõ ở cả hai góc độ vừa nêu trên đây, tuy nhiên, trong phần này
tác giả chỉ đi vào phân tích khái niệm phá sản dưới góc độ tài chính với các dấu

hiệu lâm vào tình trạng phá sản. Khái niệm phá sản hiểu dưới góc độ là một thủ tục
thanh tốn nợ đặc biệt sẽ được tác giả trình bày trong các phần tiếp theo của khóa
luận.
Phá sản là một hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên phá
sản không phải là một hiện tượng riêng có của nền kinh tế thị trường. Ở Châu Âu,
khi nói tới phá sản DN người ta thường dùng thuật ngữ “Bankcrupcy” hoặc
“Banqueroute”. Hai danh từ này bắt nguồn từ thuật ngữ “Banca Rotta” của La Mã
– có nghĩa là “chiếc ghế bị gãy”. Bởi từ thời La Mã cổ đại, các thương gia của một
thành phố thường họp nhau lại gọi là đại hội thương gia, và trong quan hệ giao lưu
thương mại giữa các thương gia với nhau, người nào không trả được nợ thường bị
mất luôn quyền tham gia đại hội thương gia và đồng thời chiếc ghế ngồi của người
đó cũng bị đem ra khỏi hội trường, nhiều người mắc nợ khơng trả được nợ thì bỏ
trốn, gây mất ổn định trật tự xã hội1. Ở nước ta thời kì Pháp thuộc và chế độ Việt
Nam Cộng hòa thường sử dụng các thuật ngữ như “vỡ nợ”, “khánh tận”, “phá sản”
để chỉ hiện tượng mất khả năng thanh toán của các thương gia và để giải quyết tình
trạng mất khả năng thanh tốn của họ. Thuật ngữ “phá sản” trong pháp luật của Việt
Nam Cộng hòa thường được sử dụng gắn liền với Luật hình sự và tội phạm2.
Như vậy, quan niệm cũ luôn bảo vệ chủ nợ bằng cách trừng phạt thật nặng
“con nợ”. Với các quy định đó, các nhà làm luật hi vọng sẽ răn đe và ngăn chặn
được tình trạng phá sản. Tuy nhiên, thực tiễn đã chứng minh ngay cả những hình
phạt nghiêm khắc nhất cũng khơng thể ngăn chặn được những vụ phá sản mới. Bởi
nguyên nhân dẫn đến phá sản là sự hội tụ của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan
1
2

toaan.gov.vn/portal/pls/portal/docs/2201255, 16/6/2012
Trích theo Đại học luật TP Hồ Chí Minh, Tập bài giảng pháp luật về phá sản DN - HTX, tr9.

4



khơng thể dự tính hết được. Hơn nữa trước tình trạng đó, “con nợ” sợ phải chịu
những trách nhiệm khắt khe nên dù đã lâm vào tình trạng phá sản vẫn bất chấp mọi
rủi ro để kinh doanh nhằm thoát khỏi tình trạng phá sản của mình.
Trong thời kỳ hiện đại, nhìn chung pháp luật các nước trên thế giới đều nhìn
nhận về phá sản một cách nhân đạo hơn, con nợ không bị coi như những tội phạm
và cũng khơng cịn bị áp dụng hình phạt.
Về thuật ngữ “phá sản” hiện nay đa số các nước đều sử dụng để chỉ sự đổ vỡ
trong hoạt động kinh doanh của một DN. Cụ thể:
Ở Nga, khái niệm phá sản tại Điều 2, Luật vỡ nợ Liên bang Nga quy định:
“Vỡ nợ (phá sản) được hiểu là sự công nhận của Tịa án, trọng tài về việc con nợ
khơng có khả năng thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu của chủ nợ đối với nghĩa vụ trả
tiền hoặc nghĩa vụ thanh toán khác”3. Tại Điều 127 Luật phá sản Nhật Bản quy định
cơ sở của việc phá sản công ty là: “Một cơng ty có thể bị tun bố phá sản nếu cơng
ty đó khơng thể trả đầy đủ các khoản nợ của mình bằng tài sản của mình”4.
Nhìn chung cho đến nay, Luật phá sản các nước vẫn chưa định nghĩa trực tiếp
thế nào là phá sản mà chỉ đưa ra những điều kiện hoàn cảnh cụ thể để cơ quan có
thẩm quyền có thể ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản. Lý do để
các cơ quan ra quyết định này thường là DN bị mất khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn. Tùy vào quan điểm lập pháp, tùy vào tình hình kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ mà quốc gia đó đưa ra các căn cứ khác nhau để xác định
tình trạng phá sản, bởi vậy, khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản” cũng được hiểu
theo những cách khác nhau.
Trên cơ sở phân tích các đặc điểm kinh tế, xã hội của Việt Nam và có tham
khảo cách xác định của các quốc gia trên thế giới, các nhà làm luật nước ta đã xây
dựng khái niệm DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản theo tiêu chí riêng của mình.
Cụ thể, khái niệm đó được quy định ngắn gọn và đơn giản tại Điều 3 Luật phá sản
2004: “DN - HTX khơng có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
có u cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị
Quyết 03/2005/NQ-HĐTP, một DN - HTX được coi là lâm vào tình trạng phá sản

khi hội tụ đủ các điều kiện sau:

Có các khoản nợ đến hạn. Các khoản nợ này phải là các khoản nợ
khơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần khơng có bảo đảm).
Các khoản nợ này phải đã được các bên xác định rõ ràng, có đủ tài liệu để chứng
minh và khơng có tranh chấp.

Chủ nợ đã u cầu thanh tốn nhưng DN khơng có khả năng thanh
tốn. Chủ nợ u cầu phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng
3
4

Lê Thị Kim Ánh (2010), Thủ tục thanh lý tài sản theo Luật phá sản 2004, Luận văn thạc sĩ luật học, tr7.
Lê Thị Kim Ánh, tldd, tr 9.

5


khơng được DN – HTX thanh tốn (căn cứ chứng minh có thể là văn bản địi nợ của
chủ nợ, văn bản khất nợ của DN – HTX mắc nợ…)
Như vậy, với cách quy định mới này, DN – HTX bị coi là lâm vào tình trạng
phá sản khi: (i) có các khoản nợ đến hạn, (ii) chủ nợ đã có u cầu, (iii) DN – HTX
mắc nợ khơng có khả năng thanh toán. Các chủ nợ khi nộp đơn u cầu mở thủ tục
phá sản khơng cịn phải chứng minh lý do DN – HTX khơng có khả năng thanh
toán, họ chỉ cần phải chứng minh là DN – HTX có khoản nợ đến hạn đối với mình,
đã có yêu cầu nhưng DN – HTX không thực hiện việc thanh tốn.
Nhìn chung, cách xác định khái niệm DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản
của các nhà lập pháp Việt Nam phù hợp với xu hướng chung của pháp luật phá sản
thế giới. Có thể nói cách quy định này là sự rút gọn và có sự thay đổi hợp lý hơn so
với Luật phá sản 1993. Nếu như Luật phá sản 1993 định nghĩa DN lâm vào tình

trạng phá sản phải hội đủ ba yếu tố là DN gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh (i), đến mức khơng thanh tốn được các khoản nợ đến
hạn (ii), sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn khơng thốt ra
khỏi tình trạng mất khả năng thanh tốn (iii), thì ở khái niệm tại Luật phá sản 2004
chỉ cịn tiêu chí “khơng thanh tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu
cầu”. Khái niệm của Luật phá sản 2004 đã phản ánh đúng bản chất của hiện tượng,
thể hiện một bước tiến trong nhận thức của các nhà làm luật về pháp luật phá sản5.
Bởi thực tế cho thấy, có nhiều lý do có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh
tốn của DN – HTX, có thể là do thua lỗ trong kinh doanh, quản lý kinh doanh kém
hiệu quả, cũng có thể do các nguyên nhân khách quan như thiên tai dịch bệnh,
khủng hoảng kinh tế, biến động đột ngột của các quy định pháp luật,…Có thể thấy
khó khăn, thua lỗ trong kinh doanh chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tình
trạng mất khả năng thanh tốn, do đó Luật phá sản khơng cần quy định lý do dẫn
đến việc DN – HTX mất khả năng thanh tốn như một tiêu chí để xác định dấu hiệu
lâm vào tình trạng phá sản.
Việc khơng quy định các dấu hiệu cụ thể để xác định DN – HTX mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn như Luật phá sản 2004 đã tạo điều kiện cho việc mở thủ tục
phá sản sớm, để DN - HTX vẫn cịn có khả năng phục hồi, đem lại nhiều lợi ích cho
các chủ thể tham gia quan hệ phá sản nói riêng và cho sự phát triển bền vững của
nền kinh tế nói chung.
Tóm lại, tìm hiểu và nắm được khái quát về khái niệm DN - HTX lâm vào tình
trạng phá sản là tiền đề vững chắc để tiến hành nghiên cứu các chế định khác của
pháp luật phá sản. Hiểu như thế nào là “lâm vào tình trạng phá sản” cũng như các
dấu hiệu cụ thể có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu các quy định
về thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản, bởi đây là dấu hiệu rất cần thiết
5

Tô Nguyễn Cẩm Anh (2005), “Một số suy nghĩ về Luật phá sản”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (205), tr
33.


6


để xác định căn cứ nộp đơn yêu cầu, căn cứ thụ lý của Tòa án cũng như căn cứ để
Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với một DN – HTX.
1.1.1.2 Vai trò của pháp luật phá sản
Phá sản là hiện tượng bình thường và tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việc
phá sản một DN – HTX gây tác động không nhỏ đến nhiều chủ thể tham gia quan
hệ phá sản đó, ngồi ra cũng gây tác động không nhỏ đến việc vận hành bình
thường của nền kinh tế. Bởi vậy, sự tham gia điều chỉnh của Nhà nước bằng các quy
phạm pháp luật phá sản là rất cần thiết. Sự ra đời của Luật phá sản 2004 có một vai
trị hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của chủ nợ, người lao
động cũng như bảo vệ chính DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản, ổn định phát
triển kinh tế và trật tự xã hội. Vai trò của Luật phá sản 2004 thể hiện cụ thể ở các
nội dung sau:
Luật phá sản là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, ngƣời
lao động
Khi một DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản, chủ thể mà quyền lợi ích bị
xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm trực tiếp nhất là các chủ nợ và người lao động.
DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản có khả năng khơng thanh tốn được các
khoản nợ đến hạn, không trả được lương cho người lao động. Do vậy, pháp luật phá
sản ra đời với mục tiêu trước hết là phải bảo vệ được những lợi ích chính đáng của
các chủ thể này.
Đối với việc bảo vệ lợi ích của chủ nợ, sự quan tâm của Nhà nước thể hiện rất
rõ trong pháp luật phá sản Việt Nam. Khi đến hạn trả nợ mà DN – HTX mắc nợ
khơng trả được nợ, chủ nợ có quyền đòi nợ bằng nhiều biện pháp khác nhau. Chủ
nợ có thể địi nợ bằng con đường khởi kiện theo vụ án dân sự, kinh tế. Chủ nợ cũng
có thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN – HTX đó. Địi nợ theo thủ
tục phá sản mang lại nhiều ưu điểm, bởi việc đòi nợ được đảm bảo bằng việc Tịa
án có thể tun bố sự chấm dứt hoạt động của DN – HTX, thanh lý toàn bộ tài sản

để trả cho chủ nợ.
Việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ được thể hiện rõ nét qua hàng
loạt các quy định của Luật phá sản hiện hành như: quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản (Điều 13), quyền khiếu nại danh sách chủ nợ (Điều 52), quyền có đại
diện trong thiết chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản (Điều 9), quyền đề xuất
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN – HTX lâm vào tình trạng phá
sản (Điều 68)… Quan trọng hơn với tư cách là chủ nợ của DN – HTX lâm vào tình
trạng phá sản, quyền lợi ích của chủ nợ được bảo vệ tối ưu trong việc quy định cho
các chủ nợ quyền quyết định có áp dụng thủ tục phục hồi với DN – HTX đó hay
khơng (Điều 68), có thơng qua phương án phục hồi kinh doanh được lập ra hay
không (Điều 71).

7


Đối với người lao động, có thể nói người lao động là chủ thể chịu thiệt thòi
nhất từ việc tuyên phá sản một DN – HTX. Tham gia vào quan hệ lao động, người
lao động không chỉ hướng tới số tiền lương từng tháng được trả mà còn hướng đến
“quyền lao động” để ổn định cuộc sống sau này. Tuyên phá sản một DN – HTX,
ngồi nguy cơ khơng được trả hoặc không được trả đủ số tiền lương đang bị nợ mà
cịn có nguy cơ lớn hơn đối với người lao động đó là mất việc làm. Như chúng ta đã
biết, trên thị trường hiện nay luôn xảy ra tình trạng dư lao động thiếu việc làm, bởi
vậy, việc giải quyết việc làm cho tất cả người lao động khi tuyên bố phá sản một
DN – HTX không phải là chuyện đơn giản.
Do vậy, cơ chế phục hồi DN – HTX được Luật phá sản 2004 đề ra chính là cơ
chế tốt nhất hướng tới bảo vệ lợi ích cho người lao động. Bởi phục hồi để DN –
HTX thốt khỏi tình trạng phá sản cũng chính là cứu được người lao động khỏi
nguy cơ thất nghiệp. Ngoài ra, để thực hiện mục tiêu bảo vệ người lao động, Luật
phá sản đã quy định cho người lao động một số quyền lợi cụ thể sau: quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 14), khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

người lao động không cần nộp tạm ứng phí phá sản (Điều 21), quyền được ưu tiên
thanh toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác trước các khoản nợ thông
thường của DN – HTX (Điều 37),…
Luật phá sản là công cụ hữu hiệu bảo đảm trật tự an toàn xã hội, lành
mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh
Cần phải nói rằng, phá sản khơng phải là hiện tượng hoàn toàn mang ý nghĩa
tiêu cực. Xét trên phạm vi tồn cục của nền kinh tế thì việc phá sản và giải quyết
phá sản cũng mang lại nhiều ý nghĩa tích cực6.
Một DN – HTX phá sản, tài sản bị thanh lý, không trả đủ nợ cho các chủ nợ
cũng như lương cho người lao động tất nhiên đó là một hiện tượng tiêu cực. Tuy
nhiên, sự can thiệp của Luật phá sản giúp đưa DN - HTX vào thủ tục phục hồi, vực
dậy hoạt động kinh doanh của DN - HTX hoặc thanh lý tài sản của DN - HTX,
thanh tốn các chi phí cho chủ nợ, người lao động một cách hợp lý là điều cần thiết
và mang lại nhiều ý nghĩa tích cực.
Với các quy phạm của mình, Luật phá sản là cơng cụ răn đe các nhà kinh
doanh, buộc họ phải luôn năng động sáng tạo, nhưng cũng phải thận trọng khi tiến
hành hoạt động kinh doanh đó. Việc kinh doanh hiệu quả, thận trọng của mỗi DN
đương nhiên sẽ kéo theo việc kinh doanh có hiệu quả của cả nền kinh tế.
Các chế định Luật phá sản có tác động tích cực trong việc hạn chế các hành vi
tẩu tán tài sản của chủ sở hữu DN – HTX bằng các biện pháp bảo toàn tài sản hợp
lý, đồng thời can thiệp vào q trình thanh tốn nợ giữa DN – HTX với chủ nợ và

6

Dương Đăng Huệ (2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, Nhà xuất bản tư pháp, tr23.

8


với người lao động, giúp q trình thanh tốn nợ này diễn ra một cách trật tự và có

hiệu quả hơn từ đó góp phần đảm bảo trật tự an tồn xã hội.
Khi một DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản, cụ thể hơn là khi đã có quyết
định mở thủ tục phá sản, để bảo toàn tài sản cho DN – HTX, Luật phá sản nghiêm
cấm DN – HTX đó thực hiện một số hành vi nhất định hoặc phải được sự đồng ý
của Thẩm phán trước khi thực hiện. Ngoài ra, trong thời hạn luật định DN – HTX
lâm vào tình trạng phá sản phải kiểm kê toàn bộ tài sản theo bảng kê chi tiết đã nộp
cho Tòa án và xác định trị giá các tài sản đó. Trong trường hợp cần thiết, Tịa án
cịn có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản của DN –
HTX lâm vào tình trạng phá sản. Chính các biện pháp được áp dụng này có ý nghĩa
quan trọng trong việc quản lý hiệu quả tài sản còn lại của DN – HTX, tránh thất
thoát, tẩu tán tài sản. Nhờ vậy, đem lại nhiều hi vọng hơn vào khả năng phục hồi
của DN – HTX cũng như bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích cho các chủ nợ, người lao
động và cho chính chủ sở hữu DN – HTX đó.
Quy trình thanh toán nợ tập thể được quy định trong Luật phá sản cũng góp
phần giúp tiến trình địi nợ của các chủ nợ diễn ra một cách có nguyên tắc hơn và
việc thanh lý các tài sản, nghĩa vụ diễn ra một cách công bằng hơn, hợp lý hơn.
Luật phá sản bảo vệ lợi ích của DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản,
tạo cơ hội thuận lợi để DN – HTX đó rút khỏi thị trƣờng một cách có trật tự
Tham gia kinh doanh trên thị trường, tất cả các chủ thể đều hướng tới mục tiêu
lợi nhuận, phát triển hoạt động kinh doanh. Không một DN nào muốn lâm vào tình
trạng khánh kiệt, làm ăn thua lỗ. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh là hoạt động luôn
bao hàm nhiều rủi ro, việc tham gia kinh doanh chịu tác động của nhiều yếu tố
khách quan cũng như chủ quan. Bởi vậy, việc thất bại trong hoạt động kinh doanh
dẫn đến “lâm vào tình trạng phá sản” cần được nhìn nhận một cách tích cực hơn.
“Điều đó giải thích tại sao pháp luật đa số các nước đều quy định nhiều hình thức
phục hồi khác nhau để DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản lựa chọn áp dụng”7.
Luật phá sản 2004 bên cạnh việc bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ và người lao
động đã có những quy định rất hợp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Chúng ta có thể thấy, mục đích trước hết khi Tịa án giải quyết một vụ việc

phá sản khơng phải là thanh lý các tài sản của DN – HTX để thực hiện các nghĩa vụ
mà là tiến hành các biện pháp cần thiết để tiến hành phục hồi DN – HTX, để DN –
HTX thốt khỏi tình trạng khó khăn về tài chính và trở lại hoạt động bình thường.
Điều này thể hiện rõ nét trong các quy định về Hội nghị chủ nợ, quyền đề xuất và
xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 61, 68). Cũng như được
7

Dương Đăng Huệ (2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, Nhà xuất bản tư pháp, tr17.

9


thể hiện qua các quy định về những biện pháp bảo toàn tài sản của DN – HTX
(Điều 43, 45, 48). Ngồi ra, Luật phá sản hiện hành cịn quy định cho DN – HTX
lâm vào tình trạng phá sản một số quyền rất thiết thực như quyền tham gia trong
thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản; quyền khiếu nại danh sách chủ nợ, khiếu
nại về quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản…
Như vậy, qua tìm hiểu chúng ta đã thấy rõ vai trò của Luật phá sản trong sự
phát triển hài hòa và bền vững của kinh tế - xã hội. Luật phá sản hiện hành bảo vệ
tối đa quyền lợi của chủ nợ và người lao động trong việc kết hợp hài hòa với lợi ích
chính đáng của DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản từ đó góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
1.1.2 Khái quát về thủ tục phá sản theo Luật phá sản 2004
1.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của thủ tục phá sản
Khi tiến hành nghiên cứu Luật phá sản, chúng ta tiếp cận khá nhiều các khái
niệm. Và việc phân biệt những khái niệm đó có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả
nghiên cứu Luật phá sản. Cụ thể, chúng ta thường gặp các khái niệm như “lâm vào
tình trạng phá sản”, “phá sản”, “thủ tục phá sản”. Nếu như khái niệm DN – HTX
“lâm vào tình trạng phá sản” được định nghĩa cụ thể tại Điều 3 Luật phá sản là khi
“khơng có khả năng thanh tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu

cầu”, thì khái niệm phá sản và khái niệm thủ tục phá sản lại khơng được chính thức
quy định tại một điều luật nào trong Luật phá sản hiện hành. Về mặt lý luận, DN –
HTX chỉ chính thức phá sản khi có quyết định tuyên bố DN - HTX đó bị phá sản có
hiệu lực của Tịa án có thẩm quyền. Còn đối với khái niệm thủ tục phá sản, nếu đi
từ lý luận chung, khi nói đến thủ tục là nói đến các bước, trình tự hay q trình thì
có thể hiểu thủ tục phá sản một cách khái quát là: Các bước, trình tự giải quyết tình
trạng phá sản của DN – HTX theo yêu cầu của tổ chức cá nhân theo quy định của
pháp luật phá sản8.
So với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự), thủ tục giải
quyết phá sản được coi là một loại tố tụng tƣ pháp đặc biệt9. Được coi là một thủ
tục tư pháp đặc biệt bởi bản chất của thủ tục này là một thủ tục đòi nợ nhưng lại do
cơ quan tư pháp thực hiện và với các trình tự, thủ tục riêng biệt. Giải quyết tình
trạng phá sản của một DN – HTX khơng đơn giản là giải quyết một quan hệ riêng
biệt, mà đồng thời phải giải quyết nhiều loại quan hệ đan xen nhau. Đó là quan hệ
lao động giữa DN – HTX với người lao động, quan hệ dân sự về vay – mượn tài sản
và còn là quan hệ kinh tế xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của DN –
HTX đó.

8
9

Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, tlđd, tr22.
Dương Đăng Huệ, tlđd, tr11.

10


Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản đƣợc thể hiện ở những đặc điểm cụ
thể sau:
Thứ nhất, thủ tục phá sản là một thủ tục thanh toán nợ tập thể.

Trong nền kinh tế phát triển mạnh mẽ hiện nay, DN - HTX để tồn tại và phát
triển kinh doanh phải tham gia vào nhiều quan hệ xã hội khác nhau, cũng từ đó mà
trở thành chủ thể của nhiều quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau. Với tư cách là
một chủ thể kinh doanh trên thị trường, việc nợ hoặc cho chủ thể khác nợ là một
điều dễ hiểu, và khi đứng trước nguy cơ không được thanh tốn hoặc khơng được
thanh tốn đầy đủ thì chủ thể đó có nhiều lựa chọn khác nhau để bảo vệ quyền và
lợi ích của mình. Chủ thể đó có thể chọn con đường thương lượng cá nhân, cũng có
thể nhờ đến sự can thiệp của pháp luật. Một trong những biện pháp thường được lựa
chọn đó là khởi kiện lên Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích cho mình, các
chủ thể có thể khởi kiện theo con đường tố tụng dân sự hoặc yêu cầu Tòa án mở thủ
tục phá sản đối với “con nợ” để tiến hành các biện pháp cần thiết yêu cầu “con nợ”
thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
Nếu một chủ thể lựa chọn con đường tố tụng dân sự, đặc điểm cơ bản của thủ
tục này là việc các chủ nợ tiến hành thực hiện quyền địi nợ của mình một cách
riêng rẽ, độc lập. Một DN – HTX có thể có nhiều chủ nợ, tuy nhiên với thủ tục tố
tụng dân sự, chủ thể nào nộp đơn yêu cầu đến Tịa án thì chủ thể đó được Tịa án
xem xét bảo vệ quyền lợi. Việc thanh toán nợ cũng được tiến hành riêng lẻ đối với
chủ thể nào có yêu cầu mà thôi. Đối với thủ tục phá sản, với đặc thù riêng là một
thủ tục đòi nợ tập thể thì việc địi nợ và thanh tốn nợ cũng diễn ra một cách tập thể.
Trong quá trình giải quyết phá sản, các chủ nợ không thể tách riêng khoản nợ của
mình để u cầu “con nợ” thanh tốn như cách địi nợ thơng thường khác. Trong
thủ tục phá sản, nếu là chủ nợ của DN – HTX thì dù không nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản với DN – HTX đó thì vẫn được tham gia vào thủ tục phá sản và khi có
quyết định thanh lý vẫn được thanh toán theo quy định của pháp luật. Bởi trường
hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý thì các khoản nợ chưa đến hạn
vào thời điểm thanh lý cũng được xử lý như các khoản nợ đến hạn, tuy nhiên khơng
tính lãi với thời hạn chưa đến hạn10. Về nguyên tắc, khi đã có chủ thể yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với DN – HTX, nếu được Tòa án thụ lý giải quyết thì việc giải
quyết vụ án địi DN – HTX đó thực hiện nghĩa vụ về tài sản đều phải được tạm đình
chỉ11, nếu như Tịa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản thì mọi vụ án liên quan

đến nghĩa vụ tài sản mà DN – HTX đó là một bên đương sự đều phải được đình
chỉ12. Đến khi áp dụng thủ tục thanh lý thì tồn bộ tài sản của “con nợ” đều được sử
dụng để trả cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên định sẵn, nếu tài sản của “con
10

Xem Điều 34 Luật phá sản 2004.
Xem Điều 27 Luật phá sản 2004.
12
Xem Điều 57 Luật phá sản 2004.
11

11


nợ” khơng đủ để thanh tốn tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh tốn theo
tỷ lệ giữa khoản nợ mà DN - HTX còn thiếu với tổng tài sản hiện còn của DN HTX13. Khi thực hiện thanh toán nợ theo thủ tục phá sản, tất cả các chủ nợ của cùng
một loại đều bình đẳng với nhau.
Thứ hai, thủ tục phá sản không đơn thuần là một thủ tục đòi nợ mà quan trọng
hơn đây là một thủ tục có khả năng giúp “con nợ” phục hồi.
Khi một DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản thì mục tiêu hướng đến đầu
tiên của chủ nợ, người lao động và của chính DN – HTX đó khơng phải là việc thu
hồi, thanh lý tài sản để giải quyết thực hiện các nghĩa vụ mà là tiến hành phục hồi
hoạt động kinh doanh của DN – HTX. Bởi với tình trạng của mình, “con nợ” sẽ có
nhiều khả năng khơng thể thanh tốn tồn bộ hoặc một phần các nghĩa vụ đó. Giải
pháp tối ưu hơn cả là tiến hành phục hồi hoạt động của DN – HTX, để DN – HTX
đó tiếp tục kinh doanh tạo ra lợi nhuận. Như vậy, sẽ mang lại nhiều hi vọng thu hồi
toàn bộ vốn đầu tư của các chủ nợ, cũng như giải quyết vấn đề lương và việc làm
cho người lao động. Cũng chính từ nguyên nhân đó, hiện nay, các Luật phá sản
được coi là hiện đại trên thế giới đều rất coi trọng việc cứu vãn hoạt động kinh
doanh của DN – HTX mắc nợ. Toà án chỉ tuyên bố phá sản DN – HTX mắc nợ

trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi các biện pháp khôi phục hoạt động kinh
doanh và khả năng thanh tốn của DN – HTX mắc nợ khơng thành cơng, vì việc
phục hồi hoạt động kinh doanh của “con nợ” khơng chỉ có ý nghĩa đối với bản thân
“con nợ” mà cịn có ý nghĩa lớn đối với các chủ nợ, người lao động, các đối tác, đặc
biệt là đối với sự ổn định của nền kinh tế.
Để tạo điều kiện cho việc phục hồi, pháp luật phá sản Việt Nam cho phép DN
– HTX mắc nợ được chủ động xây dựng phương án tổ chức lại hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Kế hoạch này sẽ được trình lên Hội nghị chủ nợ để thông qua, nếu
được thông qua thì coi như “con nợ” được khơi phục lại vị trí ban đầu, tiếp tục sản
xuất kinh doanh theo như kế hoạch đã được thông qua. Được thông qua và thực
hiện phương án phục hồi đem lại hi vọng mới cho sự tồn tại và phát triển của DN HTX cũng như cơ hội thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ của DN - HTX đó.
Thứ ba, trong thủ tục phá sản quyền được thanh toán của các chủ nợ dựa trên
số tài sản hiện còn của DN – HTX mắc nợ.
Trong trường hợp Tòa án ra quyết định thanh lý tài sản, thanh toán các khoản
nợ của DN – HTX thì việc thanh lý đó sẽ được thực hiện trên tổng số tài sản hiện
còn của DN – HTX đó. Trước hết, số tài sản cịn lại sẽ được ưu tiên thanh tốn cho
các khoản nợ có bảo đảm theo quy định tại Điều 35 “Trường hợp Thẩm phán ra
quyết định mở thủ tục thanh lý đối với DN – HTX đó thì các khoản nợ được đảm
bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Tòa án thụ lý đơn
13

Xem Điều 35, 36, 37 Luật phá sản 2004.

12


yêu cầu được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó”. Ngồi ra, đối với những DN đã
được Nhà nước áp dụng các biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh
mà vẫn không thể phục hồi và phải tiến hành thanh lý tài sản, các khoản nợ thì phải
hồn trả tài sản giá trị tài sản đã được Nhà nước hỗ trợ. Sau khi thực hiện các nghĩa

vụ vừa nêu, số tài sản còn lại của DN – HTX sẽ được phân chia cho các nghĩa vụ
quy định tại Điều 37 Luật phá sản theo thứ tự, cụ thể thứ tự ưu tiên của các nghĩa vụ
lần lượt là: phí phá sản, các khoản nợ lương và khoản nợ khác cho người lao động,
các khoản nợ không có bảo đảm. Các khoản nợ khơng có bảo đảm sẽ được phân
chia theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh tốn cho các khoản nợ thì mỗi
chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản khơng đủ để
thanh tốn thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh tốn một phần khoản nợ của mình theo tỷ
lệ tương ứng.
Với nguyên tắc phân chia tài sản này, chúng ta càng thấy rõ hơn vai trị của
các biện pháp bảo tồn tài sản được Tòa án áp dụng đối với DN – HTX lâm vào tình
trạng phá sản, việc áp dụng các biện pháp bảo tồn có đúng lúc và hiệu quả hay
khơng ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng được thực hiện nghĩa vụ các chủ thể có
quyền trong quan hệ phá sản, đồng thời cũng ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của
chính DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản đó vì trong trường hợp tiến hành thanh
lý tài sản với DN – HTX, nếu giá trị tài sản của DN – HTX sau khi thanh toán các
nghĩa vụ mà vẫn cịn thì phần cịn lại này sẽ thuộc về DN – HTX đó14.
Thứ tư, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ qua trung gian.
Khác với việc thực hiện đòi nợ trực tiếp hay thủ tục địi nợ trong tố tụng dân
sự, việc địi nợ thơng qua chế định của Luật phá sản là một thủ tục đòi nợ qua trung
gian. Cơ quan trung gian này chính là Tịa án; Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Các chủ
nợ, người lao động một khi đã lựa chọn thủ tục phá sản sẽ thơng qua Tịa án để thực
hiện tất cả cơng đoạn địi nợ của mình. Tịa án chính là chủ thể trung gian có vai trò
quan trọng trong việc giải quyết quan hệ nghĩa vụ của các bên trong quan hệ Luật
phá sản. Tòa án chính là chủ thể nhận và xem xét đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
để ra quyết định có mở thủ tục phá sản đối với DN – HTX đang bị u cầu hay
khơng. Tịa án cũng trực tiếp can thiệp vào hoạt động của DN – HTX bằng việc
giám sát hoạt động kinh doanh cũng như cấm hoặc hạn chế DN – HTX đó thực hiện
một số hành vi nhất định. Tòa án cũng sẽ xem xét và áp dụng các biện pháp cần
thiết để bảo toàn khối tài sản của DN – HTX nhằm đảm bảo khả năng thanh tốn
cho các chủ thể có quyền. Khi ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với DN – HTX

đó, Tịa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng chính là chủ thể thực hiện việc phân
chia giá trị tài sản còn lại cho các chủ thể theo các nguyên tắc luật định. Như vậy,
việc đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ qua trung gian, khác với
14

Xem khoản 2, Điều 37 Luật phá sản 2004.

13


việc địi nợ thơng thường khi các chủ nợ tự mình và liên hệ với “con nợ” một cách
trực tiếp, khác với thủ tục đòi nợ qua tố tụng dân sự khi Tòa án chỉ là người ra phán
quyết để xác định bên có nghĩa vụ, cịn việc thực hiện nghĩa vụ như thế nào vẫn do
các bên tự quyết định hoặc nhờ sự can thiệp của cơ quan thi hành án.
Ngoài ra, nét đặc biệt của thủ tục phá sản còn được thể hiện qua một số điểm
cụ thể như: thủ tục phá sản chỉ được áp dụng đối với các DN – HTX mắc nợ khơng
có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Khi đã áp dụng thủ tục phá sản,
nhiều khả năng sẽ dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của DN – HTX nếu như các biện
pháp phục hồi đã áp dụng mà không có hiệu quả, trong khi đối với thủ tục tố tụng
dân sự sau khi trả nợ xong “con nợ” vẫn tồn tại và hoạt động kinh doanh bình
thường. Hơn nữa, không như các thủ tục thông thường khác, thủ tục phá sản giải
quyết nhiều quan hệ, cơng việc có tính chất rất phức tạp. Tịa án khơng chỉ giải
quyết các vấn đề về xác định DN - HTX có mất khả năng thanh tốn hay khơng, DN
- HTX đó nợ bao nhiêu, nợ những ai mà đồng thời còn phải quản lý tài sản của DN
– HTX mắc nợ, thành lập và điều hành thiết chế thanh lý và quản lý tài sản, triệu tập
và chủ trì Hội nghị chủ nợ, tiến hành thủ tục phục hồi,…
Như vậy, qua phân tích chúng ta thấy rõ việc giải quyết một vụ việc phá sản
DN – HTX là vô cùng phức tạp, phải giải quyết cùng lúc nhiều mối quan hệ khác
nhau. Chính vì vậy, thủ tục giải quyết phá sản cũng vô cùng đặc biệt và được quy
định chặt chẽ với các quy định pháp luật riêng biệt. Đây không đơn thuần là một

thủ tục địi nợ bình thường mà là một thủ tục tư pháp đặc biệt.
1.1.2.2 Trình tự thủ tục giải quyết phá sản theo Luật phá sản 2004
Trên thế giới, pháp luật phá sản có hai xu hướng khác nhau. Xu hướng thứ
nhất có mục tiêu là “hướng vào con nợ” nhằm tập trung giải cứu các “con nợ” thốt
khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, bảo đảm việc làm cho người lao động, tránh
bất ổn kinh tế thông qua việc tổ chức lại “con nợ”. Xu hướng thứ hai có mục tiêu
“hướng vào chủ nợ” bằng cách tạo điều kiện cho các chủ nợ cùng nhau xử lý đối
với phần sản nghiệp còn lại của con nợ15.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội khác nhau cũng như quan điểm của các
nhà lập pháp từng quốc gia mà quy định về trình tự thủ tục phá sản ở mỗi quốc gia
khác nhau thì khác nhau. Tuy nhiên, đa số các quốc gia trên thế giới sau khi xác
định tình trạng tài chính, khả năng thanh tốn nợ đến hạn của DN - HTX Tịa án sẽ
xác định áp dụng hoặc thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc thủ tục thanh lý
tài sản. Việc lựa chọn áp dụng biện pháp cụ thể nào còn phụ thuộc vào tình trạng tài
chính thực tế của DN – HTX đó.

15

, ngày 11/5/2012

14


Ở Việt Nam, Luật phá sản DN đầu tiên ra đời năm 1993, pháp luật được thiết
kế một trình tự duy nhất áp dụng cho các DN lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể:
i. Giai đoạn Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản
DN
ii. Giai đoạn điều tra đánh giá khả năng thanh toán nợ của DN để ra quyết
định mở hay không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN.
iii Giai đoạn xem xét, áp dụng thủ tục phục hồi DN thông qua thiết chế Hội

nghị chủ nợ
iiii Giai đoạn tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản của DN.
Theo quy định của Luật phá sản 1993, việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản ln phải tn theo trình tự đã định sẵn như trên đã khơng tạo điều kiện để Tịa
án linh hoạt trong quá trình giả quyết yêu cầu. Trong thủ tục được đề ra, cơ chế hòa
giải và tái tổ chức lại hoạt động kinh doanh luôn được coi là một bước bắt buộc Tòa
án và các bên liên quan phải thực hiện. Việc ra quyết định tuyên bố phá sản ngay
đối với DN khơng cịn tiền và tài sản để thanh tốn phí phá sản được coi là một
trường hợp ngoại lệ đặc biệt. Việc quy định như vậy dẫn tới hậu quả là, một DN với
tình hình tài chính kiệt quệ, hoạt động sản xuất kinh doanh đình đốn và biết chắc
chắn là DN đó khơng thể phục hồi thì Tịa án cũng khơng thể linh hoạt tun bố phá
sản để thanh lý tài sản của DN đó ngay. Như vậy, việc hòa giải và phục hồi hoạt
động kinh doanh của DN theo quy định của Luật phá sản 1993 trong nhiều trường
hợp không những trái ý muốn của các bên tham gia quan hệ mà cịn khơng mang lại
hiệu quả như mong đợi.
Nhận thức được những bất cập này, các nhà lập pháp khi soạn thảo Luật phá
sản 2004 đã quy định trình tự thủ tục giải quyết phá sản linh hoạt hơn và hợp lý
hơn. Theo đó, trình tự thủ tục phá sản áp dụng đối với DN – HTX lâm vào tình
trạng phá sản theo Luật phá sản 2004 bao gồm:
i.
ii.
iii.
iiii.

Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;
Phục hồi hoạt động kinh doanh;
Thanh lý tài sản, các khoản nợ;
Tuyên bố DN – HTX bị phá sản16.

Trong Luật phá sản 2004, mối quan hệ giữa các thủ tục cấu thành trong thủ tục

phá sản được quy định uyển chuyển, linh động hơn. Tùy vào từng trường hợp cụ
thể, Tịa án có thể vận dụng thủ tục phù hợp chứ không phải bất kỳ trường hợp nào
khi giải quyết một yêu cầu tuyên bố phá sản đều phải trải qua tất cả các bước nêu
trên. Nghĩa là giữa các thủ tục có sự độc lập tương đối, thực hiện thủ tục trước
khơng cịn là tiền đề cần thiết để thực hiện các thủ tục tiếp theo như quy định tại
Luật phá sản 1993. Cụ thể như, khi có quyết định mở thủ tục phá sản, tùy vào tình
16

Xem khoản 1, Điều 5 Luật phá sản 2004.

15


hình cụ thể mà Tịa án quyết định áp dụng một trong hai thủ tục phục hồi kinh
doanh và thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc quyết định chuyển từ thủ tục phục hồi
kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố DN HTX bị phá sản17. Tịa án cũng có thể tuyên bố phá sản với “con nợ” ngay mà
không cần thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc tuyên bố phá sản sau khi thụ
lý đơn yêu cầu18. Thủ tục phục hồi không những đã không còn là một bước bắt buộc
trước khi chuyển qua thủ tục thanh lý mà ngay khi thủ tục này không thể thực hiện
thành cơng, Tịa án cũng có thể ra quyết định chuyển đổi qua thủ tục thanh lý tài
sản, các khoản nợ19.
Nhìn chung, việc quy định trình tự giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản như
Luật phá sản 2004 mang nhiều điểm tiến bộ và phù hợp với xu hướng chung của thế
giới. Với quy định như vậy, một mặt tạo điều kiện để Tòa án vận dụng linh hoạt các
quy định của Luật khi áp dụng thủ tục phá sản với từng trường hợp cụ thể, mặt khác
tạo thuận lợi để tuyên bố phá sản đối với những DN – HTX khơng có khả năng phục
hồi, tiết kiệm nhiều thời gian và tài sản. Đồng thời, việc quy định như vậy cũng tạo
điều kiện tốt hơn để bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ và người lao động.
1.2 Khái quát chung về thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
1.2.1 Vị trí, ý nghĩa của thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản

Vị trí của thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
Có thể nói, thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản là thủ tục pháp lý
đầu tiên để khởi động quá trình giải quyết phá sản đối với DN – HTX. Như đã phân
tích ở mục trước, khi giải quyết yêu cầu tuyên phá sản một DN – HTX thì trình tự
các bước được quy định tại Điều 5 Luật phá sản hiện hành không nhất thiết phải
tiến hành tuần tự, cũng không nhất thiết khi giải quyết phá sản phải tiến hành đầy
đủ tất cả các bước đã được liệt kê. Giải quyết phá sản một DN - HTX có thể khơng
trải qua giai đoạn phục hồi nếu như khơng có hi vọng vào khả năng tài chính của
DN - HTX. Giải quyết yêu cầu tuyên phá sản một DN - HTX cũng có thể khơng trải
qua thủ tục thanh lý để rồi ra quyết định tuyên bố DN – HTX đó phá sản nếu như
sau khi thụ lý đơn Tịa án thấy khơng đủ căn cứ để mở thủ tục phá sản hoặc quá
trình phục hồi DN - HTX thành cơng và Tịa án ra quyết định đình chỉ thủ tục phục
hồi.
Tuy nhiên, có thể nói rằng việc tiến hành thủ tục phá sản khơng thể khơng có
bước nộp đơn u cầu, đây ln là thủ tục đầu tiên và cần thiết để khởi động tiến
trình giải quyết vụ việc phá sản. Bởi nếu theo quy định của Luật phá sản hiện hành,
nếu khơng có việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Tịa án sẽ khơng có căn cứ
17

Xem khoản 2, Điều 5 Luật phá sản 2004.
Xem Điều 87 Luật phá sản 2004
19
Xem Điều 79, 80 Luật phá sản 2004
18

16


để can thiệp vào điều chỉnh quan hệ phá sản. Đối với vị trí của quyết định mở thủ
tục phá sản, ngoại trừ trường hợp Tòa án ra quyết định tuyên bố DN – HTX bị phá

sản khi DN – HTX khơng cịn hoặc khơng đủ tiền, tài sản để nộp phí phá sản mà
khơng cần thiết mở thủ tục phá sản20, thì quyết định mở thủ tục phá sản luôn là
quyết định quan trọng để mở đầu tố tụng phá sản, sau khi có quyết định mở thủ tục
phá sản, Tịa án mới có đầy đủ các căn cứ cần thiết để khẳng định DN – HTX đã
thực sự lâm vào tình trạng phá sản và đưa DN – HTX đó vào kiểm tra giám sát,
đồng thời, hàng loạt các hoạt động giải quyết phá sản mới bắt đầu được tiến hành
công khai.
Ý nghĩa của thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
Việc nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản có ý nghĩa rất quan trọng trong
quá trình giải quyết phá sản, góp phần tạo điều kiện để sớm áp dụng thủ tục phá sản
đối với các DN – HTX có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản, hạn chế thất thoát tài
sản của DN – HTX, mang lại hiệu quả phục hồi cao hơn. Từ đó bảo vệ tốt hơn cho
quyền và lợi ích của các chủ nợ, người lao động cũng như chính DN – HTX lâm
vào tình trạng phá sản. Cụ thể như sau:
Về ý nghĩa của việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, những quy định về
vấn đề nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có ý nghĩa quan trọng đối với q trình
giải quyết phá sản. Đây khơng chỉ là căn cứ quan trọng để các chủ thể như chủ nợ,
người lao động tự bảo vệ quyền lợi của mình mà còn là cơ sở để cơ quan nhà nước
can thiệp, điều chỉnh các quan hệ phức tạp của quan hệ phá sản, góp phần ổn định
kinh tế, ổn định xã hội.
Nhìn lướt qua một số thủ tục tố tụng của nước ta hiện nay, nếu như trong tố
tụng hình sự, khi một hành vi phạm tội xảy ra, đa số các trường hợp đều không cần
đơn yêu cầu của đương sự mà cơ quan nhà nước vẫn có thể tự mình can thiệp đánh
giá mức độ nguy hiểm và đưa ra xét xử. Trong khi đó, đối với thủ tục phá sản lại có
nhiều điểm khác biệt đáng kể. Trong thủ tục phá sản, việc nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản đến Tòa án là căn cứ đầu tiên và là cơ sở quan trọng để Tòa án có thể
can thiệp vào giải quyết vụ việc phá sản. Luật phá sản hiện hành khơng quy định
cho phép Tịa án tự mình can thiệp vào để giải quyết phá sản một DN – HTX. Theo
quy định cụ thể, nếu như Tòa án, Viện kiển sát, cơ quan thanh tra, cơ quan quản lý
vốn…nếu phát hiện DN – HTX lâm vào tình trạng phá sản thì cũng chỉ có quyền

thơng báo bằng văn bản cho những người có quyền nộp đơn để họ xem xét nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản mà thôi (Điều 20 Luật phá sản). Bởi vậy, có thể nói,
nếu như khơng có việc nộp đơn u cầu sẽ khơng có việc giải quyết phá sản trên
thực tế, từ đó những tác động tích cực của việc giải quyết phá sản DN - HTX như

20

Xem Điều 87 Luật phá sản 2004.

17


bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể, phục hồi hoạt động cho DN – HTX, ổn định kinh
tế…cũng sẽ khơng có cơ sở để thi hành trên thực tiễn.
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là căn cứ quan trọng để các chủ thể
chủ động trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình. Việc quy định quyền cũng như
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chính là cơ sở để các chủ thể yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền can thiệp để bảo vệ quyền và lợi ích. Như đã phân tích, việc
tuyên phá sản một DN - HTX hoặc thậm chí khơng tun bố phá sản nhưng việc
làm ăn kinh doanh của DN - HTX đó trì trệ khơng hiệu quả thì quyền lợi của chủ
nợ, người lao động thậm chí là những thành viên tham gia, quản lý DN - HTX đó
tất yếu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
chính là việc yêu cầu Tòa án can thiệp vào giải quyết các vấn đề phát sinh, cân nhắc
áp dụng các biện pháp cần thiết để đưa ra giải pháp hữu hiệu nhất, bảo vệ tối đa cho
các chủ thể tham gia vào quan hệ phá sản.
Về ý nghĩa của việc mở thủ tục phá sản, quyết định của Tòa án có thẩm quyền
về việc mở hay khơng mở thủ tục phá sản có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chủ
thể tham gia thủ tục phá sản.
Nếu sau khi thụ lý đơn yêu cầu của các chủ thể, Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ việc phá sản xác định DN – HTX chưa lâm vào tình trạng phá sản thì Tịa

án sẽ ra quyết định khơng mở thủ tục phá sản đối với DN – HTX đó. Trong trường
hợp này, tiến trình giải quyết phá sản sẽ chấm dứt, DN – HTX bị nộp đơn yêu cầu
được tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia quan hệ phá sản khơng tiếp tục phát sinh. Điều này thực sự có ý nghĩa đối
với các DN – HTX bị nộp đơn yêu cầu, bởi trong xã hội của chúng ta hiện nay, cách
nhìn nhận về DN – HTX bị Tịa án tiến hành giải quyết phá sản vẫn chưa thực sự
thông thống. Việc xác định rằng DN – HTX đó chưa lâm vào tình trạng phá sản để
tiếp tục hoạt động bình thường như một cách thức “giải oan” cho các DN – HTX có
tình trạng tài chính bình thường, ổn định lòng tin ở các đối tác cũng như sự an tâm
của những người lao động.
Tòa án sẽ ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có những căn cứ chứng minh
DN - HTX đã lâm vào tình trạng phá sản. Quyết định mở thủ tục phá sản có ý nghĩa
quan trọng không những đối với các chủ thể tham gia thủ tục phá sản mà cịn có ý
nghĩa đối với chính DN – HTX bị xác định lâm vào tình trạng phá sản.
Trước hết, với các DN – HTX mắc nợ, quyết định này khẳng định DN – HTX
đã thực sự lâm vào tình trạng phá sản và đưa DN – HTX mắc nợ vào sự kiểm tra
giám sát của Tòa án. Từ đây, Tòa án sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết để quản lý
hoạt động kinh doanh của DN – HTX, cũng như các biện pháp bảo toàn tài sản của
DN – HTX và quan trọng hơn là cùng với các chủ nợ tiến hành thủ tục phục hồi với
DN – HTX đó. Đối với các chủ nợ, đây cũng chính là thời điểm phát sinh quyền đòi
nợ của họ theo thủ tục phá sản.

18


Như vậy, kể từ thời điểm quyết định mở thủ tục phá sản có giá trị thi hành trên
thực tế, các hoạt động giải quyết được tiến hành công khai. Ý nghĩa quan trọng nhất
của quyết định mở thủ tục phá sản chính là việc sau đó Tịa án có thể triệu tập Hội
nghị chủ nợ, mở ra phương hướng phục hồi hoạt động kinh doanh cho DN – HTX.
Như chúng ta đã biết, mở và tuyên một DN – HTX phá sản khơng có ý nghĩa bằng

việc mở thủ tục phá sản và phục hồi thành công DN – HTX đó. Phục hồi hoạt động
của DN - HTX khơng chỉ mang lại cơ hội chi trả đầy đủ các khoản nợ cho người lao
động, các chủ nợ mà còn mang lại hi vọng mới cho một DN - HTX trước đó đã lâm
vào tình trạng tài chính sa sút, để DN - HTX đó tiếp tục kinh doanh thu lợi cho nền
kinh tế.
Qua phân tích, chúng ta đã phần nào hiểu rõ vị trí cũng như ý nghĩa quan
trọng của thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản. Đây khơng chỉ là cơ sở để
Tịa án có thể can thiệp vào giải quyết quan hệ phá sản đang phát sinh. Đây còn là
thủ tục pháp lý đầu tiên để khởi động tiến trình phá sản và có ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo vệ các chủ thể liên quan như các chủ nợ, người lao động, chính DN
– HTX, đồng thời thủ tục này cũng trao cơ hội cho các chủ thể nêu trên tự bảo vệ
quyền lợi của chính mình. Thủ tục này cũng chính là bước đệm để Tịa án tiến hành
cơng khai các hoạt động giải quyết phá sản, là cơ sở để triệu tập Hội nghị chủ nợ
và tiến hành các biện pháp cần thiết phục hồi hoạt động của DN – HTX lâm vào
tình trạng phá sản.
1.2.2 Trình tự, thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
Để hiểu rõ hơn về các bước trình tự trong thủ tục nộp đơn yêu cầu và mở thủ
tục phá sản, trong phần này tác giả xin trình bày khái quát về vấn đề: Căn cứ để nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các chủ thể phải nộp đơn yêu cầu tới đâu cũng như
các công việc mà Tòa án phải tiến hành kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu cho
đến khi ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, và một số cơng việc được
tiến hành sau khi có quyết định này.
Tác giả xin được khái quát trình tự, thủ tục nộp đơn yêu cầu mở và mở thủ tục
phá sản bằng sơ đồ sau:

19


×