Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN THANH HẢI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Pgs. Ts. Phạm Quang Phúc
Học viên: Trần Thanh Hải
Lớp: Cao học Luật Khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
Tác giả



Trần Thanh Hải


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CBĐT

: Cán bộ điều tra

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

KTBC

: Khởi tố bị can

VKS

: Viện kiểm sát



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ BỊ CAN, THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC KHỞI TỐ BỊ CAN .........................................................................5
1.1. Nhận thức lý luận về khởi tố bị can .............................................................. 5
1.1.1. Khái niệm khởi tố bị can ............................................................................5
1.1.2. Căn cứ khởi tố bị can .................................................................................7
1.1.3. Thẩm quyền và thủ tục khởi tố bị can ......................................................12
1.2. Nhận thức lí luận về hoạt động thực hành quyền cơng tố và kiếm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can ................................................... 18
1.2.1. Khái niệm về hoạt động thực hành quyền công tố và kiếm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố bị can .............................................................18
1.2.2. Vị trí, chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuận theo pháp luật trong việc khởi tố bị can ..18
1.2.3. Ý nghĩa của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố bị can .............................................................25
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................26
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC
TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC KHỞI TỐ BỊ CAN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT ....................................................................................................27
2.1. Quy định của Pháp luật tố tụng hình sự về phạm vi và nội dung thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị
can ......................................................................................................................... 27
2.1.1. Quy định của Pháp luật tố tụng hình sự về phạm vi thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can ......................27
2.1.2. Quy định của Pháp luật tố tụng hình sự về nội dung thực hành thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can

theo quy định của pháp luật ...............................................................................33


2.2. Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can ............................ 43
2.2.1. Số liệu thực tiễn và các mặt công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can .......................................43
2.3. Kết quả đạt đƣợc, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.. 53
2.3.1. Những kết quả đạt được ...........................................................................53
2.3.2. Những hạn chế..........................................................................................55
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế .............................................................57
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................63
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN
HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC KHỞI TỐ BỊ CAN ......................64
3.1. Quan điểm chỉ đạo nâng cao chất lƣợng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động khởi tố bị can của Viện
kiểm sát ................................................................................................................. 64
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can. ........................... 65
3.2.1. Giải pháp về nghiệp vụ công tác ..............................................................65
3.2.2. Giải pháp về lãnh đạo, quản lý và con người ..........................................68
3.2.3. Kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật về khởi tố bị can ..........73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong khoa học tư pháp hình sự, việc ban hành quyết định khởi tố bị can được
hiểu là cơ quan có thẩm quyền tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát) được quyền
tiến hành các biện pháp điều tra để xác định có hay khơng có tội phạm xảy ra, nếu có
tội phạm xảy ra thì ai là người đã thực hiện tội phạm và những tình tiết khác liên quan
đến vụ án hình sự. Ngồi ra, việc cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định khởi tố
bị can còn giúp cho cơ quan có chức năng kiểm sát, giám sát hoạt động điều tra nắm
được diễn biến tình hình tội phạm và cơng tác điều tra tội phạm để có thể đặt ra các
u cầu trong cơng tác phịng ngừa, đấu tranh, truy tố, buộc tội người phạm tội, góp
phần quan trọng trong cơng tác giữ gìn an ninh trật tự đất nước.
Thực tiễn triển khai quy định về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can theo Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn
cịn nhiều hạn chế và sai sót. Mặc dù pháp luật tố tụng hình sự đã có những quy định
khá đầy đủ về quyết định khởi tố bị can, song trong quá trình thực hiện các quy định
của luật vẫn còn một số bất cập, đặc biệt là những quy định liên quan đến vai trò của
Viện kiểm sát trong việc áp dụng những quy định này. Về nguyên tắc, mọi tội phạm
và người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều phải bị xử lí về hình sự. Nhưng việc
xử lí làm sao để đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh việc oan, sai là
điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy
tố và xét xử các vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, Viện kiểm
sát nói riêng vẫn cịn để xảy ra tình trạng oan, sai. Những tồn tại và hạn chế này xuất
phát từ nhiều những nguyên nhân khác nhau, từ nguyên nhân chủ quan đến nguyên
nhân khách quan. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã tháo gỡ phần lớn những
vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, tăng cường trách nhiệm của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. So với quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung những
quy định tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra trong đó có hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can.
Nhằm đi sâu phân tích những vấn đề về lý luận và thực trạng, ngun nhân,
những khó khăn, vướng mắc trong cơng tác thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can, để từ đó đề ra các giải pháp khắc


2
phục những bất cập và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật để nâng cao chất
lượng, hiệu quả đối với công tác này, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp. Tôi xin chọn đề tài “Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố bị can theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề
tài luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta hiện nay đã có một số cơng trình nghiên cứu về đề tài liên quan đến
vấn đề khởi tố bị can và thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc khởi tố bị can như: Trách nhiệm của công tố trong hoạt động khởi tố bị
can, thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định khởi tố bị can, quy định về
căn cứ khởi tố bị can, việc áp dụng các quy định về khởi tố bị can, thủ tục khởi tố bị
can, quy định về khởi tố bị can, phương pháp thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
khởi tố bị can,…được đăng trên tạp chí kiểm sát và tạp chí khoa học pháp lý. Các bài
viết trên đã nêu ra căn cứ pháp lý, thẩm quyền và chức năng của Viện kiểm sát trong
hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can nhưng đều chỉ dừng ở mức độ khái qt chung.
Một số cơng trình khoa học nghiên cứu cụ thể hơn như “Thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của TS. Lê Hữu
Thể - Nguyên Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Luận văn tốt nghiệp
“Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra theo quy định của luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thanh Hằng; Luận văn thạc sĩ “Chức năng
của Viện kiểm sát trong Tố tụng hình sự” của tác giả Võ Phước Long; Luận văn
thạc sĩ “Khởi tố bị can và hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can tại Thành phố Hồ
Chí Minh, thực trạng và một số kiến nghị, giải pháp” của tác giả Phạm Văn Đức.
Các cơng trình trên mới chỉ đề cập nghiên cứu ở những góc độ nội dung khác nhau.
Chưa có cơng trình nào nghiên cứu nhằm đi sâu nghiên cứu hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can theo

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành; phân tích thực trạng, ngun nhân,
những khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát việc khởi tố bị can hoặc
nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật hình sự trước đây,
hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được thay thế với nhiều quy định mới. Do vậy,
hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và tồn diện hơn, để từ đó đề ra các
giải pháp khắc phục những bất cập và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật để
nâng cao chất lượng, hiệu quả đối với công tác này.


3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận,
pháp lý và thực trạng về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố bị can, từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp
luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố bị can.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can
như khái niệm, đặc điểm, nội dung của các hoạt động đó.
Đánh giá thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố bị can trên cả nước.
Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố bị can.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực
trạng hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2015 có tham chiếu với Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
Luận văn nghiên cứu các số liệu liên quan đến công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can của Ngành kiểm

sát nhân dân thời hạn là 05 năm trở lại đây từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về con đường nhận thức chung và khả năng nhận thức chân lý.
Nghiên cứu hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư
pháp , sử dụng các phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh trên cơ sở lý luận khoa học tố tụng hình sự để làm sáng tỏ nội dung cần nghiên
cứu của đề tài.
6. Những điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận của luận văn
- Việc nghiên cứu và tìm hiểu hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can để làm rõ những khái niệm, đặc
điểm và nội dung hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo


4
pháp luật trong việc khởi tố bị can nhằm xác định ưu điểm để tiếp tục phát huy, tìm
ra những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự về
hoạt động này.
- Đưa ra kiến nghị hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc khởi tố bị can.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can về nghiệp vụ
công tác, lãnh đạo, quản lý con người và một số giải pháp khác.


5
CHƢƠNG 1
NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ BỊ CAN,
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC KHỞI TỐ BỊ CAN

1.1. Nhận thức lý luận về khởi tố bị can
1.1.1. Khái niệm khởi tố bị can
Trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm bị can theo quy định của Bộ luật Tố
tụng Hình sự 2015 cụ thể theo quy định tại Khoản 1 Điều 60 quy định: “Bị can là
người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự”
Cụ thể hơn giáo trình luật Tố tụng hình sự của Đại học luật Thành phố Hồ
Chí Minh năm 2018 thể hiện “Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự
chứ khơng chỉ là người (cá nhân) như trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Sự
thay đổi này xuất phát từ sự thay đổi trong quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
về chủ thể của tội phạm. Theo Bộ luật hình sự năm 2015, chủ thể của tội phạm bao
gồm cả cá nhân và pháp nhân. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thể
hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân”.1
Khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về KTBC:“ Khi có
đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật
hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”.
Khoản 1 Điều 443 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về KTBC đối với
pháp nhân: “Khi có đủ căn cứ xác định pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật
hình sự quy định là tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can
đối với pháp nhân”
Cả Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003
đều khơng có quy định khái niệm thế nào là KTBC mà chỉ có các quy định về trình
tự, thủ tục, đối tượng áp dụng, căn cứ cũng như thẩm quyền KTBC.
Theo sách Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 của NXB Công
an nhân dân: “Khởi tố bị can là việc Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát xác định
một người, một pháp nhân đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể bằng một quyết
định pháp luật, là việc bắt đầu tiến hành tố tụng hình sự về một người, một pháp
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình luật Hình sự và Tố tụng hình sự, TS. Võ Thị Kim Oanh
(Chủ biên), NXB Hồng Đức, tr.158-159.
1



6
nhân với tư cách là bị can. Việc khởi tố bị can phải có đủ tài liệu xác định một
người đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong BLHS”.2
Theo giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát năm 2017 của trường Đại học
kiểm sát Hà Nội: “Khởi tố bị can là hành vi pháp lý của cơ quan có thẩm quyền xác
định một người nào đó hoặc pháp nhân nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội và cần
phải tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người đó, pháp nhân đó”3
Theo tiến sỹ Phạm Mạnh Hùng, hiệu trưởng trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ kiểm sát: “Khởi tố bị can là quyết định bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền
khi có đủ căn cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội và cần phải khởi
động quá trình điều tra, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó”4
Khái niệm chung nhất về khởi tố bị can:
Khởi tố bị can là hành vi pháp lý của CQĐT, VKS, Cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra xác định một người nào đó hoặc pháp nhân
nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội và cần phải tiến hành điều tra theo qui định
của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó. Quyết định khởi tố
bị can là cơ sở pháp lý để áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết và tiến hành
các biện pháp điều tra đối với người hoặc pháp nhân đó.
Để có cơ sở thực hiện hành vi pháp lý này, cơ quan có thẩm quyền cần phải
tiến hành một loạt các hoạt động khác, như: tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và các tài liệu ban đầu do các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp;
xác minh các thơng tin, tài liệu đó; bắt quả tang; giám định, định giá tài sản (nếu
có); khám xét,…
Khái niệm Quyết định khởi tố bị can
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 khơng có khái niệm như thế nào là quyết định
KTBC, theo giáo trình luật Tố tụng Hình sự Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
thì: “Khởi tố bị can là quyết định tố tụng do người có thẩm quyền ban hành trong
q trình điều tra khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực

hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm”.5
2

Trần Văn Luyện (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, NXB Công an nhân dân, tr. 352.
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, tập 3, tr.33.
4
Phạm Mạnh Hùng (2012), “Một số vấn đề về trách nhiệm của công tố trong hoạt động khởi tố vụ án, khởi
tố bị can theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí kiểm sát, số 16 (tháng 8), tr. 15.
5
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (1), tr. 433.
3


7
Kết hợp với khái niệm KTBC đã nêu ở trên có thể hiểu khái niệm về quyết
định KTBC như sau:
Quyết định khởi tố bị can là một văn bản pháp lý do bộ luật tố tụng hình sự
quy định về hình thức, nội dung, căn cứ, thẩm quyền và thủ tục ban hành nhằm xác
định một người hoặc pháp nhân là chủ thể của tội phạm.
Quyết định KTBC có ý nghĩa ảnh hưởng rất lớn đối với người bị khởi tố,
quyết định KTBC có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh mạng, chính trị, tới cuộc sống và
tâm lý của bị can. Quyết định KTBC là cơ sở xác định một người đã thực hiện hành
vi phạm tội và cũng là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động
điều tra tiếp theo hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như hỏi cung bị can, tạm
giam bị can để điều tra...
1.1.2. Căn cứ khởi tố bị can
Tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ
án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm”. Như vậy, việc ra quyết định khởi tố vụ án
khi đã xác định sự việc xảy ra mang dấu hiệu của tội phạm. Căn cứ Điều 8 Bộ Luật
hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho

xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự”, như vậy
có thể hiểu yếu tố để cấu thành tội phạm cơ bản bao gồm 04 yếu tố sau: mặt khách
quan; mặt chủ quan; chủ thể; khách thể. Việc xác định dấu hiệu tội phạm thơng qua
kết quả xác minh, làm rõ sự việc đó có phải là nguy hiểm cho xã hội, được quy định
trong Bộ luật Hình sự hay khơng. Khi tiếp nhận tin tức về tội phạm, cơ quan có
thẩm quyền khởi tố phải xác định và đánh giá xem sự việc đó có hay khơng có dấu
hiệu tội phạm để quyết định việc có khởi tố hay khơng khởi tố vụ án. Qua đó kịp
thời phát hiện tội phạm, hạn chế tối đa tình trạng bỏ lọt tội phạm cũng như bảo đảm
khơng truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai đối với người vơ tội. Chỉ có thơng qua
hoạt động kiểm tra, xác minh kịp thời các nguồn tin về tội phạm mới có điều kiện
làm rõ một sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay khơng, chẳng hạn như khi
có tin báo có người chết, cơ quan có thẩm quyền tiến hành khám nghiệm hiện


8
trường, giải phẫu tử thi để kết luận nguyên nhân chết người; khi có đủ điều kiện để
kết luận nguyên nhân chết người là do bị giết thì phải khởi tố vụ án để tiến hành
hoạt động điều tra tiếp theo.
Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi có đủ
căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình
sự quy định là tội phạm thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”. Đối tượng
của khởi tố bị can là pháp nhân được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 433 Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 2015 với nội dung tương tự như trên. Như vậy, KTBC chỉ
được tiến hành khi:
- Thứ nhất, cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm bao

gồm năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi xác định trách nhiệm hình sự và điều kiện
để xác định pháp nhân thương mại phạm tội.
+ Chủ thể của tội phạm là cá nhân: Trường hợp này, chủ thể là cá nhân phải
là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định. Đối với một số
tội phạm pháp luật có yêu cầu chủ thể là cá nhân phải có thêm các dấu hiệu khác
như chủ thể có chức vụ, quyền hạn, là chủ thể xác định như ĐTV, KSV,...gọi là chủ
thể đặc biệt.
Về năng lực trách nhiệm hình sự: được hiểu là khả năng nhận thức của cá
nhân về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả năng điều khiển hành vi
đó, tức họ có sự lựa chọn thực hiện hay khơng thực hành vi nguy hiểm cho xã hội
đó. Người có năng lực trách nhiệm hình sự trước hết phải đạt tới một độ tuổi nhất
định để đảm bảo rằng cá nhân đó có khả năng nhận thức đầy đủ về tính chất pháp lý
của hành vi mà mình gây ra và có đủ khả năng điều khiển được hành vi đó.
Theo quy định của Bộ luật hình sự, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của cá
nhân được chia thành hai trường hợp, theo đó: người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy
định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng qu định tại một trong các
điều 123, 134, 141, 142,143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289,290,299, 303 và 304 của bộ luật hình sự.
Như vậy, có thể hiểu đơn giản là độ tuổi để bị truy cứu trách nhiệm hình sự là từ 14
tuổi, trong đó, từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị chịu trách nhiệm hình sự về các
tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các điều


9
trên. khi đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cá nhân được coi là có năng lực trách
nhiệm hình sự khi không mắc các bệnh làm mất khả năng nhận thức, làm chủ hành
vi. Mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì một người chỉ bị coi là bị mất năng lực
hành vi dân sự khi có quyết định của Tịa án tun người đó bị mất năng lực hành vi

dân sự. Do đó, trên thực tế, khi áp dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không
cần phải xác định từng trường hợp người phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự
hay khơng mà chỉ phải xác định độ tuổi xem cá nhân đó có đủ tuổi để truy cứu trách
nhiệm hình sự hay khơng; trường hợp có căn cứ để nghi ngờ cá nhân đó có dấu hiệu
thuộc trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự thì sẽ tổ chức để kiểm tra xem cá
nhân đó có năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng.
+ Chủ thể là pháp nhân thương mại: Pháp nhân thương mại là pháp nhân có
mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Đây là
chủ thể đặc biệt, theo quy định của Bộ luật hình sự, pháp nhân thương mại chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 75 như sau:
+ Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
+ Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
+ Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận
của pháp nhân thương mại;
+ Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.
Mặt khác, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội
nhất định được quy định cụ thể tại Điều 76 Bộ luật hình sự.
- Thứ hai, cá nhân, pháp nhân có lỗi cố ý hoặc vơ ý.
+ Đối với cá nhân lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành
vi của mình và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội được thể hiện dưới
hai hình thức: cố ý hoặc vô ý.
Lỗi gồm 2 loại: cố ý và vô ý.
Lỗi cố ý lại gồm 2 loại: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
* Cố ý trực tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành
vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.



10
* Cố ý gián tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp
luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của
hành vi đó, tuy khơng mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi vơ ý cũng gồm 2 loại: vơ ý vì cẩu thả và vơ ý vì q tự tin.
* Vơ ý vì cẩu thả là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã
hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
đó, mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này.
* Vơ ý vì q tự tin là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ khơng
xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội.
+ Đối với pháp nhân, một cách tổng quát, những người hoạt động nhân danh
pháp nhân và vì lợi ích của pháp nhân có lỗi vì thế đương nhiên lỗi do các cá nhân
được phân công thực hiện công việc cho pháp nhân sẽ bị coi là lỗi của pháp nhân và
chính pháp nhân phải chịu trách nhiệm về lỗi đó. Mặt khác, tính có lỗi của pháp nhân
ở đây được xác định do pháp nhân hoàn toàn có thể biết trước và điều khiển hành vi
cũng như hậu quả của hành vi do người mà mình đã trao trách nhiệm thực hiện.
Vấn đề nữa cần xác định, đó chính là lỗi của pháp nhân là lỗi cố ý hay vơ ý.
Trong Bộ luật Hình sự 2015 khơng hề có quy định nào liên quan đến việc thước đo
trách nhiệm pháp lý dựa trên lỗi của pháp nhân là cố ý hay vô ý (đối với cá nhân,
khi xác định hình phạt, nếu người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý thì dẫn đến hậu
quả pháp lý nặng hơn rất nhiều, có khi đây cịn là cấu thành tội phạm của nhiều tội
danh). Đối với pháp nhân thương mại, mục đích thành lập và hoạt động đương
nhiên được xác định là lợi nhuận. Do vậy, việc ủy quyền trong các hoạt động phải
xác định được mục đích của sự ủy quyền cụ thể là gì, có phù hợp với các quy định
của pháp luật hay khơng. Đó là căn cứ để xác định lỗi cố ý hay vô ý. Đối với pháp
nhân, không cần phải xác định cụ thể lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp, vô ý do quá tự
tin hay do cẩu thả như đối với cá nhân.
Trong công tác điều tra, phát hiện tội phạm, CQĐT muốn có căn cứ để KTBC

thì phải làm rõ và kết luận đúng đắn về một hành vi phạm tội đã được thực hiện, ai là
người thực hiện hành vi phạm tội đó, mức độ của hành vi phạm tội ra sao cũng như
việc khẳng định hành vi đó khơng phải là tội phạm thì phải có những tài liệu thu thập
được theo đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự dùng làm căn cứ để chứng minh.


11
Vấn đề thu thập, đánh giá chứng cứ làm căn cứ để KTBC trong pháp luật tố
tụng hình sự có vai trị phản ánh q trình xác định chân lý khách quan của vụ án.
Chứng cứ là những gì có thật được thu thập do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định mà các cơ quan có thẩm quyền dùng làm căn cứ để xác định có hành vi phạm
tội, người thực hiện hành vi phạm tội hay không cũng như những tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết vụ án một cách đúng đắn. Không phải bất cứ một thông tin,
tài liệu, đồ vật nào trong vụ án đều hiển nhiên có thể trở thành chứng cứ.
Khi một quyết định KTBC có hiệu lực thì cơ quan có thẩm quyền ban hành
có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế điều tra đối với chủ thể tội phạm.
Theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
“3.Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều
tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho Viện
kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được
quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ
để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan điều tra. Trường hợp Viện
kiểm sát yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày
nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn
hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can

5. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc
quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết
định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và giải thích

quyền, nghĩa vụ cho bị can. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập danh bản, chỉ bản của người bị
khởi tố và đưa vào hồ sơ vụ án. Việc giao, nhận các quyết định nêu trên được lập
biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này."
So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
có một số sự thay đổi như sau: VKS yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong
thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định KTBC; Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 có quy định “Sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp
ảnh, lập danh chỉ bản của bị can và đưa vào hồ sơ vụ án” nhưng Bộ luật tố tụng


12
hình sự năm 2015 lại bỏ quy định này mà quy định sau khi nhận được quyết định
phê chuẩn quyết định KTBC của VKS, CQĐT mới thực hiện các hoạt động này.
CQĐT chỉ có quyền thực hiện việc hỏi cung bị can do ĐTV thực hiện tiến hành
ngay sau khi có quyết định KTBC, trước khi hỏi cung bị can, ĐTV phải thông báo
cho KSV và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết,
KSV tham gia việc hỏi cung bị can (Khoản 1 Điều 183 Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2015).
Từ những sự thay đổi trên có thể thấy rằng so với quy định của Bộ luật Tố
tụng Hình sự 2003 quy định khi Cơ quan điều tra ra quyết định KTBC thì ĐTV có
quyền tiến hành ngay các biện pháp điều tra cần thiết đối với bị can để làm rõ hành
vi phạm tội, cũng có nghĩa là quyết định KTBC có hiệu lực ngay khi CQĐT ban
hành tuy nhiên hiệu lực của quyết định KTBC của CQĐT có tiếp tục duy trì hay
khơng thì phụ thuộc hồn tồn vào việc VKS có phê chuẩn hay khơng. Do đó từ
những quy định của BLTTHS 2015 thể hiện chúng ta có thể hiểu Quyết định khởi tố
bị can của Cơ quan điều tra có hiệu lực ngay sau khi được ban hành tuy nhiên chỉ
tiếp tục có hiệu lực và thực sự có hiệu lực thi hành khi đã nhận được sự phê chuẩn
của Viện kiểm sát cùng cấp. Chỉ khi có sự phê chuẩn của VKS, CQĐT mới tiến

hành chụp ảnh, lập danh bản, chỉ bản của người bị khởi tố và đưa vào hồ sơ vụ án.
Việc tống đạt Quyết định KTBC cho bị can chỉ được CQĐT tiến hành sau khi nhận
được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định KTBC của
VKS. Bằng quy định trên, pháp luật đã tạo ra một cơ chế chặt chẽ nhằm hạn chế tối
đa tình trạng KTBC tràn lan, dẫn đến oan sai, ngăn ngừa việc bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, trên cơ sở tăng cường trách nhiệm của VKS.
1.1.3. Thẩm quyền và thủ tục khởi tố bị can
Thẩm quyền khởi tố bị can theo quy định:
Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi có đủ
căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình
sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”.
Bên cạnh đó, Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 qui định về nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra: “Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:


13
1. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can.
2. Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật.
3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
trong các trường hợp do Bộ luật này quy định.
…”
Như vậy, thẩm quyền KTBC về cơ bản, trước hết thuộc về CQĐT, sau đó là
VKS. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định, trong trường
hợp này, quyết định KTBC phải được VKS phê chuẩn việc khởi tố. Đó là: “Trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định KTBC, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố

và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn
việc khởi tố”.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về
quyền hạn điều tra của Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh
sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã quy định về thẩm quyền KTBC
của những cơ quan này trong trường hợp: Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội
phạm trong lĩnh vực và địa bàn quản lý của mình mà tội phạm đó là tội phạm ít
nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm
tội rõ ràng.
Để cụ thể quyền KTBC, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã trao quyền này
cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT; Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS; Cấp
trưởng, Cấp phó của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra. Đây là qui định nhằm đáp ứng được yêu cầu xác định cụ thể, rõ ràng về
trách nhiệm của các chức danh tố tụng. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ
sung qui định hồn tồn mới so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, qui định về
nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan khác của các cơ quan
của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Quy định này khắc phục
thiếu sót của BLTTHS 2003 chưa qui định cụ thể về người có thẩm quyền KTBC là


14
ai trong trường hợp thuộc thẩm quyền KTBC của các cơ quan của Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Cụ thể Điểm b Khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan của
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, theo đó khi tiến hành tố tụng
hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng
cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng, cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan khác của
Cơng an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có quyền quyết định khởi tố vụ án, KTBC…
Điểm b Khoản 2 Điều 41 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, theo đó, khi
thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự, Viện trưởng VKS có những nhiệm vụ và quyền hạn: Quyết định khởi
tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định KTBC; yêu cầu CQĐT khởi tố
hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, KTBC... Quyết định phê chuẩn,
quyết định khơng phê chuẩn các quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Quyết định hủy bỏ các quyết định khơng có
căn cứ và trái pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra. Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng
VKS có những nhiệm vụ và quyền hạn của Viện trưởng, trong đó có quyền KTBC
và phê chuẩn hoặc huỷ bỏ quyết định KTBC. Kiểm sát viên khơng có các thẩm
quyền này, Kiểm sát viên chỉ được giao thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm tìm và
đưa ra những căn cứ pháp lý để ra quyết định KTBC. Khi đã có căn cứ thì Kiểm sát
viên đề xuất Viện trưởng, Phó viện trưởng ra quyết định KTBC. Điều này chứng
tầm quan trọng của việc ra một quyết định KTBC đối với người phạm tội. Tuy
quyết định KTBC quy định chỉ được ban hành bởi những chủ thể đặc biệt nhưng
trước đó là cả một quá trình xem xét, cân nhắc bởi nhiều chủ thể khác nhau gắn liền
với thẩm quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của họ được pháp luật Tố tụng hình sự
quy định. Các cơ quan này có thẩm quyền và trách nhiệm khác nhau nhưng đều có
chung một mục đích và nhiệm vụ là đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an


15

ninh chính trị, bảo đảm an tồn xã hội, bảo đảm mọi hành vi tội phạm phải được
phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, kịp thời; không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, các quyền lợi và lợi ích của
công dân phải được tôn trọng.
Thủ tục khởi tố bị can
Một người hay một pháp nhân sau khi bị khởi tố thì họ có quyền và nghĩa vụ
của bị can theo quy định của BLTTHS 2015. Để đảm bảo cho bị can thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình thì trong vịng 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố,
CQĐTphải gửi Quyết định KTBC và các liệu có liên quan cho VKS cùng cấp để xét
việc phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định KTBC. Sau khi nhận được được
quyết định phê chuẩn quyết định KTBC hoặc quyết định KTBC của VKS, CQĐT
phải giao quyết định KTBC, quyết định phê chuẩn quyết định KTBC phải giao ngay
quyết định đó và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can. Việc giao nhận các quyết
định trên phải được lập thành biên bản, ghi rõ địa điểm, ngày, giờ, tháng, năm, giao,
nhận; họ tên chức vụ người giao. Người giao quyết định và bị can cùng ký tên vào
biên bản theo quy định tại Điều 133 Bộ luật TTHS 2015. Việc quy định này cho
thấy một người hay pháp nhân phạm tội bị khởi tố sẽ biết rõ một cách khách quan
mình bị khởi tố về tội danh gì, điều khoản áp dụng ứng với tội danh; về nhân thân lý
lịch, thời gian, địa điểm phạm tội,… để có thể tự mình yêu cầu quyền bào chữa hay
yêu cầu người bào chữa trong giai đoạn tố tụng hình sự.
Thủ tục thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can
So với quy định rất chung trước đây về việc thay đổi hoặc bổ sung quyết
định KTBC, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đã quy định tương đối cụ thể việc thay
đổi quyết định KTBC. Theo quy định tại Điều 180 Bộ luật TTHS 2015, CQĐT,
VKS có quyền thay đổi quyết định KTBC khi thuộc một trong các trường hợp
gồm khi tiến hành điều tra nếu có căn cứ xác định hành vi của bị can không phạm
vào tội đã bị khởi tố và Quyết định khởi tố ghi không đúng họ, tên, tuổi, nhân thân
của bị can. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải bổ sung quyết định KTBC nếu có
căn cứ xác định bị can cịn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật Hình sự quy định là
tội phạm.

Về các nội dung khác của điều luật như việc gửi quyết định thay đổi quyết
định KTBC, quyết định bổ sung quyết định KTBC cho VKS để xét phê chuẩn, thời
hạn VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ các quyết định này,


16
việc giao các quyết định đó cho bị can… nhìn chung được quy định tương tự như
đối với quy định về quyết định KTBC.
Về thủ tục thay đổi hoặc bổ sung quyết định KTBC được hướng dẫn khá chi
tiết tại Điều 9 của Thông tư Liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy
định về phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của Bộ
luật Tố tụng Hình sự. Theo đó, trường hợp CQĐT, VKS thay đổi quyết định KTBC
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 180 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can, nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự chưa khởi tố về
tội đó thì trước khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định KTBC phải ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Ví dụ, CQĐT quyết định khởi tố vụ án hình sự, KTBC đối với Nguyễn Văn
A về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Quá trình điều tra xác định hành vi
của A cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì trước khi CQĐT ra quyết định
thay đổi quyết định KTBC đối với A từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
sang tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, CQĐT phải ra quyết định thay đổi quyết định
khởi tố vụ án hình sự từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sang tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Hoặc trong trường hợp khác, giả sử CQĐT quyết định khởi tố vụ án hình sự,
KTBC đối với Nguyễn Văn B về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Quá
trình điều tra xác định B còn thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì trước
khi CQĐT ra quyết định bổ sung quyết định KTBC đối với B về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, CQĐT phải ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự đối
với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Không thay đổi quyết định KTBC khi quá trình điều tra làm rõ hành vi của bị

can phạm vào khoản khác trong cùng tội danh, điều luật đã khởi tố đối với bị can.
VKS quyết định KTBC, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định KTBC
khi đã yêu cầu bằng văn bản nhưng CQĐT khơng thực hiện. Trường hợp VKS khởi
tố bị can thì việc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can do VKS quyết định.
Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, KTBC hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự, bổ sung quyết định KTBC trong trường hợp bị can có nhiều
hành vi phạm tội nhưng cùng tội danh và trường hợp bị can phạm nhiều tội, được
thực hiện như sau:


17
- Nếu một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng cùng một tội danh
và bị phát hiện cùng một thời điểm, thì chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự,
một quyết định KTBC đối với tất cả các lần phạm tội đó. Nếu trong quá trình điều
tra, truy tố phát hiện bị can cịn thực hiện hành vi phạm tội có cùng tội danh mà
chưa bị khởi tố thì ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự về hành
vi phạm tội đó;
- Nếu tại một thời điểm mà một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác
nhau và được phát hiện cùng thời điểm, thì chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình
sự, một quyết định KTBC đối với tất cả các hành vi phạm tội, trong đó ghi rõ từng
tội danh và điều, khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng;
- Nếu một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau mà hành vi
phạm tội trước là để thực hiện hành vi phạm tội sau hoặc các hành vi phạm tội có
liên quan đến nhau, thì chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự, một quyết định
KTBC đối với các hành vi phạm tội, trong đó ghi rõ từng tội danh và điều, khoản
của Bộ luật Hình sự được áp dụng;
- Nếu một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội ở những thời điểm khác
nhau và thuộc nhiều tội danh khác nhau nhưng bị phát hiện cùng một thời điểm, thì
chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự, một quyết định KTBC đối với các hành
vi phạm tội, trong đó ghi rõ từng tội danh và điều, khoản của Bộ luật Hình sự được

áp dụng;
- Khi phát hiện bị can phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của CQĐT cấp trên thì CQĐT cấp dưới phải trao đổi, thống nhất với
VKS cùng cấp để chuyển toàn bộ vụ án cho CQĐT cấp trên tiến hành điều tra.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra của CQĐT, nếu VKS phát
hiện thấy có cá nhân, pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ
án chưa bị khởi tố hoặc có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm
vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác chưa bị khởi tố, thì VKS xem
xét, quyết định việc khởi tố bị can theo quy định tại khoản 4 Điều 179 Bộ luật Tố
tụng hình sự hoặc trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung, yêu cầu Cơ quan điều
tra ra quyết định KTBC, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định KTBC và tiến
hành các hoạt động điều tra theo thủ tục chung. Nếu đã u cầu mà CQĐT khơng
thực hiện thì VKS ra quyết định KTBC, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định KTBC và gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra.


18
1.2. Nhận thức lí luận về hoạt động thực hành quyền công tố và kiếm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can
1.2.1. Khái niệm về hoạt động thực hành quyền công tố và kiếm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố bị can
Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2015 chỉ có quy định về trình tự, thủ tục, đối tượng áp dụng, căn cứ cũng như
thẩm quyền KTBC và hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc KTBC của VKS tuy nhiên chưa có quy định rõ khái niệm
thực hành quyền công tố và kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị
can là gì. Qua nghiên cứu chức năng của VKS trong công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự có thể nêu ra khái niệm như sau:
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
KTBC là một hoạt động đặc thù của ngành VKS nhằm đảm bảo mọi người phạm tội

đều phải được phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt người phạm tội, không làm oan người
vô tội, kiểm tra giám sát việc KTBC của CQĐT, đảm bảo cho việc KTBC có căn cứ,
đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, những vi phạm pháp luật trong quá
trình khởi tố, điều tra được phát hiện kịp thời, khắc phục và xử lý nghiêm minh.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc KTBC là
một hoạt động đặc thù của VKS, chỉ có VKS mới là cơ quan có thẩm quyền phát động
quyền cơng tố một cách độc lập, có quyền chấp nhận hoặc khơng chấp nhận quyết định
khởi tố của cơ quan có thẩm quyền, có quyền yêu cầu CQĐT tiến hành thu thập tài liệu,
chứng cứ để làm rõ tội phạm xảy ra cũng như lỗi của người đã thực hiện tội phạm.
Pháp luật Tố tụng Hình sự đề cao vai trị của VKS trong hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT trong việc ra quyết
định KTBC nhằm bảo đảm cho các quyết định đó được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra,
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vơ tội.
1.2.2. Vị trí, chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuận theo pháp luật trong việc khởi tố bị can
Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014, VKS có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư


19
pháp. Trong tố tụng hình sự, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng, Viện trưởng, Phó
Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên là người tiến hành tố tụng (Điều 34 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015). VKS thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình
sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án. VKS kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để loại trừ các

vi phạm pháp luật của những cơ quan và cá nhân này. VKS thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc
tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, vi phạm pháp
luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội (Điều 20
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ
vụ án của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
quyết định việc buộc tội (Điều 15 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
và Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Qua các quy định của pháp luật cho
thấy, VKS giữ vai trò chủ đạo, quyết định trong các hoạt động tố tụng ở giai đoạn
điều tra trong đó có việc KTBC. VKS có quyền nhưng đồng thời có trách nhiệm
bằng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhằm bảo đảm cho việc
điều tra, truy tố được kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm cho hoạt
động điều tra được tiến hành đúng quy định của pháp luật. Trong q trình thực
hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra, VKS
ln giữ vai trị chủ động, tích cực trong việc phối hợp với CQĐT.
Theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì khi trực tiếp thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối
với các vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS có nhiệm vụ, quyền hạn ra
các quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định KTBC của CQĐT và cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Quyết định hủy bỏ các
quyết định KTBC khơng có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT, Cơ quan được giao


×