Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

123doc Những Vấn Đề Từ Vựng Còn Tồn Đọng Trong Báo Chí Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.31 KB, 19 trang )

Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, báo chí là phương tiện thơng tin
đại chúng nhanh nhất, hiệu quả nhất, có nhiều cơng chúng nhất. Báo chí tác động
mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống, là động lực quan trọng cho sự phát triển của xã
hội. Vai trị động lực này khơng chỉ nhắm tới khía cạnh đời sống xã hội, mà việc sử
dụng từ ngữ trên báo chí cịn ít nhiều chi phối tới vốn từ và cách sử dụng từ ngữ ở
nhiều độc giả. Hiện nay, nhiều người vẫn đặt ra câu hỏi: Liệu từ ngữ dùng trên báo
chí đã phải là chuẩn? Và chuẩn hay không chuẩn từ vựng ảnh hưởng ra sao đến khả
năng truyền đạt tư tưởng và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ở người làm báo?
Chính những câu hỏi trên đã cuốn hút nhóm làm khoa học chúng tơi đi tìm
lời giải qua đề tài này.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề từ vựng còn tồn tại trên báo
chí hiện nay. Đối tượng cụ thể là những bài báo chứa từ, ngữ chưa hợp chuẩn, chưa
được cộng đồng sử dụng tiếng Việt hiện nay thống nhất chấp nhận.
3. Nhiệm vụ
- Về mặt lý thuyết: Tiểu luận này nhằm làm rõ các vấn đề về từ vựng hiện cịn tồn
tại và chưa thống nhất trên báo chí. Do đó, tiểu luận cần bám sát vào lý thuyết
chuẩn ngơn ngữ, đồng thời đặt ra cho mình nhiệm vụ bổ sung, đóng góp vào lý
luận xây dựng chuẩn ngơn ngữ.
- Về mặt thực tiễn: Khảo sát các lỗi và hiện tượng chưa thống nhất trong cách sử
dụng từ ngữ trên một tờ báo để chỉ ra tại sao một số bài báo cịn gây khó hiểu, khó
chịu cho độc giả. Từ đó, chúng tơi bước đầu đưa ra các giải pháp thực tiễn để khắc
phục tình trạng trên.
4. Lịch sử nghiên cứu
1




Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

Vấn đề chuẩn ngơn ngữ nói chung và chuẩn từ vựng nói riêng đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều người.
Về mặt lý luận:
- Có các cơng trình nghiên cứu về chuẩn ngơn ngữ và chuẩn từ vựng khái
qt như:
- Cơng trình nghiên cứu về chuẩn ngôn từ và lỗi sai trên báo chí như:
Áp dụng lý thuyết vào các nghiên cứu khoa học cụ thể, chúng tơi được biết
tới cơng trình:
Song, coi các vấn đề từ vựng trên báo chí như đối tượng trung tâm thì chúng
tơi chưa biết tới tác phẩm, cơng trình nào. Vì thế, bài tiểu luận này, trên cơ sở
những cơng trình đã được cơng bố và quan điểm chủ quan, chúng tôi sẽ đi vào làm
nổi bật các lỗi sai về từ trên báo in.
5. Phạm vi tư liệu và phạm vi đề tài
Phạm vi đề tài: khảo sát các lỗi sai, các hiện tượng chưa thống nhất về từ,
ngữ trên báo in.
Phạm vi tư liệu: Chúng tôi sẽ đi vào khảo sát một vài số của báo “Tiền
phong”. Cụ thể: tư liệu khảo sát trên các số: 281, 283.
6. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cơ bản mà chúng tôi sử dụng trong báo cáo khoa học này
là:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, miêu tả.
- Phương pháp so sánh
Phương pháp thống kê được sử dụng để thu thập tư liệu. Phương pháp phân

tích sử dụng để phân tích tư liêu, xếp tư liệu vào những loại cụ thể. Sau đó chúng
tơi sử dụng phương pháp so sánh để tìm ra những điểm khác biệt và mối tương
quan giữa các kiểu lỗi đã tìm được.
2


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

NỘI DUNG

I. Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài
Trước khi đi vào khảo sát, miêu tả, phân loại các loại lỗi chúng tơi sẽ nói về
một vài vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài này.
1. Từ là gì ?
Hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 300 định nghĩa về từ. Tuy nhiên để
chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản thì có thể hiểu là “là đơn vị nhỏ nhất có
nghĩa của ngơn ngữ được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng
nên câu”. (Quan niệm của các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng
Trọng Phiến)
Quan niệm về từ, cách phân loại các kiểu từ hiện nay chưa có sự thống nhất.
Vì vậy cũng gây ảnh hưởng lớn đến việc chuẩn hố từ vựng. ở đây có liên quan đến
vấn đề chuẩn. Vậy chuẩn ngôn ngữ , chuẩn từ vựng là gì là gì?
2. Chuẩn ngơn ngữ
Có nhiều cách hiểu về chuẩn ngôn ngữ. Tuy nhiên những quan điểm này hầu
như khơng có sự mâu thuẫn:
Theo GS Nguyễn Văn Khang thì “ngơn ngữ chuẩn mực có thể hiểu là biến
thể ngơn ngữ đã qua chỉnh lí, đáp ứng được nhu cầu giao tiếp đa dạng và phức tạp
của cộng đồng nói năng để thực hiện hiện đại hố”.

GS Vũ Quang Hào cho rằng: “Chuẩn mực ngôn ngữ được xem xét trên hai
phương diện: Chuẩn mực mang tính quy ước xã hội tức là phải được xã hội chấp
nhận và sử dụng. Mặt khác chuẩn mực phải phù hợp với quy luật phát triển nội tại
của ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch sử”.
Như vậy chuẩn ngôn ngữ phải đảm bảo tính đúng và thích hợp. Chuẩn ngơn
ngữ có hai điểm quan trọng:

3


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

- Chuẩn ngôn ngữ mang tính quy ước xã hội và được xã hội đó cùng chấp
nhận sử dụng.
- Chuẩn ngơn ngữ khơng mang tính ổn định. Nó biến đối phù hợp với quy
luật phát triển nội tại của ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch sử. Vì rất có thể “lỗi
của ngày hôm qua trở thành chuẩn hôm nay, lỗi hôm nay sẽ là chuẩn ngày mai”
(Claude Haugège)
Ngôn ngữ chuẩn phải thể hiện được các chức năng sau:
- Chức năng thống nhất
- Chức năng uy tín
- Chức năng tham dự
- Chức năng khung tham chiếu
Một trong những khái niệm có liên quan đến chuẩn ngơn ngữ là chuẩn hố
ngơn ngữ. Chuẩn hố là việc xác định và thực hiện các chuẩn mực ngơn ngữ vào
các điều kiện cụ thể trong xử lí ngơn ngữ.
Chuẩn hố ngơn ngữ là chuẩn hố ngơn ngữ văn học. Nói chung chuẩn mực
ngơn ngữ văn học chủ yếu là ngơn ngữ viết.

Chuẩn hố ngơn ngữc của một quốc gia nói chung là nhằm:
- Loại bỏ trở ngại giao tiếp mà do hàng loạt các lí do đã tạo ra các biến thể,
gây khó khăn cho giao tiếp.
- Thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của ngôn ngữ quốc gia dân tộc
- Thực hiện quá độ từ chuẩn cũ sang chuẩn mới
Chuẩn hố ngơn ngữ đã đựơc xác định là triển khai theo hướng xã hội hoá và
phát triển theo hướng dân chủ hố.
Những cái khơng đúng, khơng phù hợp gọi là lệch chuẩn hoặc lỗi
Theo cơng trình nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Vân thì chuẩn hố từ vựng
đặt ra một số vấn đề sau:
- Từ ngữ sử dụng trong văn bản phải phù hợp với phong cách của văn bản
ấy
4


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

- Hiện nay nhiều người thích sử dụng những từ cổ, từ Hán Việt để gây sự chú
ý. Tuy nhiên do chưa hiểu kĩ nghĩa của các từ nên đã sử dụng từ sai. Vì vậy cần
phải nắm chắc nghĩa của từ để sử dụng cho đúng, phù hợp với văn cảnh.
- Sử dụng từ địa phương hợp lí. Nên coi một số từ địa phương là chuẩn trong
các trường hợp sau:
+ Từ địa phương và từ toàn dân được dùng song song
+ Từ để gọi tên sự vật, hiện tượng chỉ có ở địa phương.
3. Lỗi ngôn ngữ
Lỗi ngôn ngữ là những thể hiện ngôn ngữ làm người tiếp nhận thông tin hiểu
sai, không hiểu hoặc không chấp nhận, phù hợp với tư duy của con người.
Tuy nhiên khi nhìn nhận một lỗi ngôn ngữ nên dựa vào những kiến thức

chung mà cộng đồng vẫn chấp nhận hoặc không chấp nhận.
Đôi khi có thể do năng lực ngơn ngữ của người phát tin kém mặc dù trong tư
duy người phát thì đúng nên không truyền đạt hết được những thông tin cần thơng
báo. Do đó làm người nghe hiểu sai hoặc khơng hiểu được nội dung. Điều đó đã
phávỡ nguyên tắc tương ứng 1-1 giữa việc mã hoá và giải mã.
Do người viết muốn sáng tạo ra những cái mới để tạo ra sự hấp dẫn nhưng
đơi khi những cái mới đó làm người đọc hiểu sai nghĩa, không phù hợp với sự chấp
nhận chung của cộng đồng. Tuy nhiên nếu các sáng tạo đó phù hợp với cộng đồng,
được cộng đồng chấp nhận thì nó lại có sức lơi cuốn người đọc. Trường hợp đó
người ta lại khơng coi là lỗi.
Khi xác định lỗi ngôn ngữ phải dựa trên những đặc trưng về phong cách
chức năng, tức tu từ học chuẩn mực một cách không cứng nhắc, rập khuôn. Mỗi
phong cách chức năng khác nhau lại có cách viết, cách sử dụng từ...khác nhau. Lỗi
ngơn ngữ có liên quan đến nhiều mặt khác nhau của ngôn ngữ học như: phong cách
học, từ vựng học, ngữ pháp học...Mỗi mặt đều có hệ thống chuẩn mực riêng cho
phép người ta nhận định đâu là lỗi ngôn ngữ.
5


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

Theo ý kiến của Gs Nguyễn Văn Hiệp và Gs Nguyễn Minh Thuyết trong các
văn bản thường mắc phải các loại lỗi sau:
+ Lỗi lặp, thừa từ
+ Lỗi thiếu từ
+ Lỗi dùng từ sai nghĩa
+ Lỗi sai về phong cách
Với tác giả Hoàng Anh lại chia thành 4 loại lỗi:

+ Lỗi về phong cách
+ Lỗi về nghĩa của từ
+ Lỗi về kết hợp từ
+ Lỗi về lặp từ
Qua cơng trình nghiên cứu Phạm Thị Hồng Vân đã khảo sát được các loại lỗi
sau:
+ Dùng từ sai nghĩa
+ Dùng từ sai kết hợp
+ Dùng từ sai phong cách
+ Lỗi lặp từ, thừa từ
+ Một số lỗi khác: sai quy chiếu, tự tạo từ mới, dùng từ địa phương, sai trật
tự từ...
Cịn chúng tơi qua quá trình khảo sát và dựa trên những ý kiến đó có thể chia
ra thành các loại lỗi như sau:
+ Lỗi dùng từ khơng chính xác
+ Lỗi dùng sai về phong cách
+ Lỗi lặp từ, thừa từ
+ Lỗi thiếu từ
+ Lỗi kết hợp
+ Lỗi dùng từ địa phương
+ Hiện tượng sáng tạo từ mới
6


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

II. Khảo sát lỗi
1. Lỗi sử dụng từ khơng chính xác

Mỗi từ khi được dùng phải biểu đạt chính xác nội dung cần thể hiện, tức là
nghĩa của nó phải thích hợp nhất với điều định nói. Nếu người nói hay người viết
khơng đáp ứng được yêu cầu này phat ngôn của họ sẽ trở nên khó hiểu hoặc bị sai.
Nhìn chung, hiện tượng này thường gặp ở những trường hợp sau đây:
+ Do người viết không nắm được nghĩa của từ, nhất là các từ Hán Việt, các
thuật ngữ khoa học.
+ Do người viết nhầm lẫn các từ gần âm gần nghĩa với nhau.
+ Do ngưòi viết muốn sáng tạo từ mới nhưng lại khơng có dấu hiệu hình
thức để đánh dấu, khiến ngưịi đọc dễ hiểu sai vấn đề.
Ví dụ 1:
Trong số các nguyên nhân được đề cập đến có vấn đề môi trường sống bị
xuống cấp và các loại thức ăn chế biến ngày càng được sử dụng các loại hoá chất,
mà người ta chưa biết tác hại của chúng thế nào, đến đâu.
(số 88, 2006)
“Xuống cấp” có nghĩa là ở vào tình trạng chất lượng sút kém hẳn so với
trước. Thường dùng cho các cơ sở hạ tầng: nhà cửa, trường, lớp... chứ với “môi
trường sống” không dùng từ “xuống cấp”. Đặt trong trường hợp câu này không phù
hợp lắm, mà ở ví dụ này ý tác giả muốn nói tình trạng mơi trường sống bị ơ nhiễm
bẩn tới mức độ gây độc hại. Vì vậy nên dùng từ “ơ nhiễm ” thay cho từ “xuống
cấp”.
Ví dụ 2:
Tuy nhiên sau nhiều tháng bị cày xới, đường Thạch Bàn giờ đây đã bị xuống
cấp.
Do khơng có dấu hiệu hình thức giúp ta hiểu từ cày xới theo một nghĩa khác
nên câu này dễ gây ra hiểu lầm cho người tiếp nhận thơng tin. Điều mà tác giả bài
báo muốn nói ở đây là: do có q nhiều ơ tơ với trọng tải nặng đi qua nên đường
7


Website: Email :


Tel  : 0918.775.368

mới bị hỏng, chứ không phải theo cách hiểu của đa số mọi người là do đường bị
cày lên thật. Do đó từ cày xới bị quy vào loại dùng từ sai nghĩa.
Chúng tôi sửa câu này bằng cách cho từ cày xới vào dấu ngoặc kép hoặc có
thể in nghiêng nó.
2. Lỗi sử dụng từ sai phong cách
Dùng từ sai phong cách nghĩa là dùng từ khơng hợp văn cảnh, hồn cảnh tiếp
khơng theo nghi thức. Hồn cảnh giao tiếp theo nghi thức địi hỏi ngơn ngữ được
sử dụng trong đó phải trang trọng, nghiêm túc, hồn chỉnh, có tính gọt giũa. Cịn
hồn cảnh giao tiếp khơng theo nghi thức (cịn gọi là hồn cảnh giao tiếp thân mật,
khơng mang tính chính thức xã hội) cho phép dùng ngôn từ tự do, thoải mái (thậm
chí tuỳ tiện). Nếu người nói người viết khơng nắm vững điều này thì anh ta dễ dàng
mắc lỗi phong cách.
So với các kiểu lỗi khác, kiểu lỗi này nghiêm trọng hơn ở chỗ là nó ít nhất
cũng phá vỡ tính thống nhất trong giọng điệu chung của tồn văn bản. ấy là cịn
chưa kể đến những băn khoăn khó tránh khỏi của người đọc, người nghe về tầm
vóc văn hố của chủ thể phát ngơn.
Ví dụ 1:
Cơ gái da bánh mật với tấm bikini hai mảnh xinh quá là xinh nhoẻn miệng
cười...
Nếu đây là hoàn cảnh giao tiếp thân mật, gần gũi, trong một phạm vi hẹp thì
viẹc dùng ngữ Xinh quá là xinh được chấp nhận. Nhưng câu nói trên là của một nhà
báo nên theo chúng tơi phải thay bằng từ: rất xinh.
Ví dụ 2:
Ơng giám đốc công ty thương mại bia Hà Nội cho biết: mỗi ngày nhà máy
bia Hà Nội sản xuất ra 25 nghìn lít bia hơi, trong khi mỗi ngày lượng bia hơi tiêu
thụ của thành phố là...100 nghìn lít, vì thế người ta có pha phách các loại bia hơi
khác vào bia hơi Hà Nội để bán là điều không kiểm soát được.

8


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

Câu trên không chỉ phạm lỗi lặp từ mà có cả lỗi phong cách. Đó là sự nhầm
lẫn giữa phong cách sinh hoạt tự nhiên với phong cách báo chí. Trong báo chí
khơng nên sử dụng những từ ngữ kiểu như văn nói trừ những trường hợp đặc biệt.
Chúng tôi sẽ sửa “pha phách” là “pha”. Cả hai từ đều có nghĩa là trộn lẫn vào nhau
theo một tỷ lệ nhất định để tạo thành một hỗn hợp nào đó. Nhưng từ “pha phách” rõ
ràng mang tính khẩu ngữ hơn. Do vậy cần tránh những cách dùng từ như thế này.
Sửa lại:Ông giám đốc công ty thương mại bia Hà Nội cho biết: mỗi ngày nhà
máy sản xuất ra 25 nghìn lít, trong khi mỗi ngày lượng tiêu thụ của thành phố
là...100 nghìn lít. Vì thế người ta có pha các loại bia hơi khác vào bia hơi Hà Nội
để bán là điều khơng kiểm sốt được.
Ví dụ 3:
Ban tổ chức dỡ tấm nilon phủ ngoài và xẻo chả.
(tr2, số 38, 2003)
“Xẻo” với nghĩa là cắt gọn ra thành miếng, một phần nhỏ. Tuy nhiên dùng
“xẻo” trong phong cách viết thì khơng hay lắm.
Sửa lại: Có thể thay “xẻo” bằng “cắt”.
Ban tổ chức dỡ tấm nilon phủ ngoài và cắt chả.
3. Lỗi lặp, thừa từ
Lặp từ nghĩa là dùng nhiều lần một từ trong câu hoặc trong những câu liền kề
nhau. Có một số trường hợp, người ta sử dụng phép lặp từ như một phương tiện
ngôn ngữ phục vụ cho một mục đích nhất định. Chẳng hạn:
+ Lặp từ để liên kết các câu trong văn bản:
Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà

tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Tre-anh hùng lao động.
Tre - anh hùng chiến đấu.
(Thép Mới)
+ Lặp từ để diễn đat thật chính xác ý kiến:
9


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

Nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ các bản tuyên bố của Chính phủ ta và
của chính phủ nước Cộng hồ dân chủ Nhân dân Lào.
+ Việc lặp lại các thuật ngữ khoa học trong văn bản khoa học hay lặp lại các
từ ngữ cần thiết trong văn bản hành chính- cơng vụ để tránh gây mơ hồ về nghĩa
cũng thuộc trường hợp này.
Ngồi những trường hợp nói trên, việc lặp đi lặp lại một từ trong câu hay
trong những câu liền kề nhau khiến cho câu văn, đoạn văn trở nên nặng nề. Nó
chứng tỏ sự nghèo nàn về vốn từ của người viết, và được coi là một loại lỗi dùng
từ.
Ví dụ 1:
Mỗi khi nước sơng lọt vào, rau rút chết hàng loạt; lá vàng, thối phao, thân
nhũn, rễ có màu đen, và dài, ngọn teo lại, không trắng, và lá khơng mở ra được.
Câu văn trên có hai từ nối “ và” trong một câu là quá lủng củng. Vì vậy cách
sửa là bỏ hai từ “ và” thay bằng dấu phẩy.
Ví dụ 2:
Khu quản lí giao thơng 1 cho biết: trong tổng số gần 1000 tuyến đường đô
thị tại TPHCM, có 30% số tuyến đường cần trung tu( sửa chữa vừa) nhưng đã quá
hạn, 40% số tuyến đường đã quá hạn đại tu(sửa chữa lớn) và 30% số tuyến đường
còn lại đã đến hạn duy tu( sửa chữa nhỏ)

Theo chúng tôi, ở đây nên bỏ ba cụm từ trong dấu ngoặc kép: sửa chữa vừa,
sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ; hoặc dùng những lối diễn đạt khác để khơng làm câu
văn trở nên rườm rà như trên.
Ví dụ 3:
Ngay sau khi sự việc xảy ra, ông Dương đã gọi điện “cầu cứu” chính quyền
địa phương đến giải quyết nhưng không hiểu sao không thấy cán bộ phường Thanh
Nhàn đến giải quyết.
Lỗi lặp từ giải quyết.
Ở câu văn trên chúng ta nên bỏ từ giải quyết thứ 2
10


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

4. Lỗi thiếu từ
Người viết viết thiếu từ cần thiết gây ra những phát ngôn mơ hồ về nghĩa,
những cách hiểu lầm cho độc giả.
Ví dụ 1:
Đại hội X là lúc đặt tất cả các vấn đề lên, bàn bạc đến nơi đến chốn.
Theo từ điển tiếng Việt( Hoàng Phê), “ lên” là di chuyển đến một chỗ, một vị
trí cao hơn, hay là được coi là cao hơn. Như vậy, sau “lên” phải có một tân ngữ đi
kèm.
Chúng tơi nghĩ nên sửa là: Đại hội Đại hội X là lúc đặt tất cả các vấn đề lên
bàn nghị sự, bàn bạc đến nơi đến chốn.
Ví dụ 2:.
Với bí thư Đồn Viện Vệ sinh phịng dịch qn đội- Thiếu Ngơ Quang
Hải, việc tham mưu cho thủ trưởng đơn vị, và làm “ khớp nối” phối hợp giữa
Đồn với Đảng uỷ, Cơng đồn các phòng ban trong cơ quan cũng đòi hỏi người

cán bộ Đồn phải có tầm,…”
Người viết chỉ sử dụng một từ “ tầm” tạo cho độc giả nhiều cách hiểu khác
nhau. Đó có thể là tầm hiểu biết, tầm hoạt động… Do đó người làm báo khơng nên
viết nhiều câu có nhiều cách hiểu như vậy.
Ví dụ 3:
Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, 3 vị tổng thống gần đây của Ai Cập đều xuất
thân quân đội.
(tr5, số 38, 2003)
Thường đi cùng “xuất thân” có thêm một giới từ “từ” để chỉ rõ nguồn gốc
của ai đó.
Chúng tơui sửa lại là: Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, 3 vị tổng thống gần đây
của Ai Cập đều xuất thân từ quân đội.
Ví dụ 2: Trong tiếng mõ, tiếng kinh là tiếng nấc nghẹn của những người mẹ,
người chị và nhiều hơn cả những ánh mắt trẻ thơ tội nghiệp dõi ra biển.
11


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

(tr3, số 110, 2006)
Nên thêm từ “là” vào trước những ánh mắt. Người viết đã bỏ quên mất từ
“là” biến câu này thành một câu so sánh “nhiều hơn cái gì”. Nhưng mục đích ở đây
tác giả muốn nhấn mạnh đến những đứa trẻ tội nghiệp. Do đó câu này nên chêm
thêm từ “là” vào để câu được rõ nghĩa hơn.
Chúng tôi sửa lại là: “Trong tiếng mõ, tiếng kinh là tiếng nấc nghẹn của
những người mẹ, người chị và nhiều hơn cả là những ánh mắt trẻ thơ tội nghiệp
dõi ra biển”
5. Lỗi dùng từ sai kết hợp

Không phải bất cứ từ nào cũng kết hợp được với nhau để tạo thành câu đúng.
Các từ, khi được dùng ở phạm vi câu cũng như phạm vi tồn văn bản ln nằm
trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau về ngữ pháp và ngữ nghĩa. Nói cách khác, mỗi
từ phải thích ứng với các từ khác đứng trước nó và đứng sau nó. Nếu người viết
không đáp ứng được yêu cầu này anh ta có thể tạo ra những sự mâu thuẫn, phi
logích giữa các thành tố ngôn ngữ cấu thành câu hay văn bản. Hơn nữa, các đơn vị
trên câu không phải là phép cộng gộp của các từ mà giữa chúng có sự liên kết chặt
chẽ. Sự liên kết này do bản thân nghĩa trong các từ tạo nên.
Ví dụ 1:
Thưa ông, tại sao ông Nguyễn Văn Lâm và đoàn công tác được nhận thêm
phong bì khi mà họ đã được lo chi phí tồn bộ ăn ở.
Ở đây từ “tồn bộ” có tư cách là một tiền tố đứng trước động từ “ chi phí” để
bổ nghĩa cho nó. Như vậy người viết đã thay đổi trật tự thông thường nên gây ra
lỗi. Chúng tôi sửa là: Thưa ông, tại sao ơng Nguyễn Văn Lâm và đồn cơng tác
được nhận thêm phong bì khi mà họ đã được lo tồn bộ chi phí ăn ở
Ví dụ 2: ..., bà lúc nào dường như cũng nghe thấy tiếng nói của bố bà và
nhìn thấy gương mặt thân u của ơng.
(tr9, số 38, 2006)
12


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

Dường như nên đặt trước “lúc nào cũng” thì phù hợp với thói quen sử dụng
ngôn ngữ của người Việt hơn.
Chúng tôi sửa là ..., bà dường như lúc nào cũng nghe thấy tiếng nói của bố
bà và nhìn thấy gương mặt thân yêu của ông
6. Lỗi dùng từ địa phương

Trong giao tiếp, bên cạnh ngơn ngữ tồn dân, các đơn vị thuộc về biến thể
ngôn ngữ như phương ngữ, từ địa phương cũng rất hay được sử dụng.
Theo giáo sư Nguyễn Thiện Giáp: “Từ địa phương là những từ được dùng
hạn chế ở một số hoặc một vài địa phương. Nói chung từ ngữ địa phương là bộ
phận nào đó của dân tộc, chứ không phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học khi
dùng vào sách báo nghệ thuật, các từ ngữ địa phương thường mang sắc thái tu
từ”.
Tuy nhiên nếu tần số sử dụng của các từ địa phương được lặp lại nhiều trong
báo sẽ gây sự khó hiểu cho độc giả.
Ví dụ 1.
Tám tháng trời lăn lóc khắp miền Tây và đậu nhất ở Bến Tre.
Trong ví dụ này, người viết sử dụng chất Nam Bộ nhưng nếu người tiếp nhận
khơng biết “đậu” cũng có nghĩa là đỗ lại, dừng lại sẽ dẫn đến cách hiểu sai về
nghĩa.
Chúng tôi nghĩ rằng nên thay từ đậu bằng từ đỗ thì sẽ phù hợp hơn
Ví dụ 2: Lục Vũ, thi bá đời Đường xưa tả chuyện uống trà nghe mới...ghiền
làm sao: “...”.

(tr6, số 38, 2003)

Ghiền là từ địa phương có nghĩa là nghiện. Nhưng ở đây nếu dùng từ ghiền
sẽ gây khó hiếu cho độc giả.Vì thế chúng tơi thay ghiền bằng nghiện.
Ví dụ 3:
Do giai đoạn cuối năm 2005, đầu 2006, Ban QL-ĐT thi cơng ồ ạt nên phía
Bưu điện không làm kịp. Bởi thế đã làm bể tuyến cáp, gây thiệt hại gần 4 tỷ đồng.
13


Website: Email :


Tel  : 0918.775.368

Bể cũng có nghĩa là vỡ nhưng nhiều người không phải là người miền trong sẽ
khó có thể hiểu được từ này, chính vì vậy chúng tơi nghĩ nên sửa lỗi trên bằng cách:
thay vì dùng bể chúng ta sẽ dùng từ vỡ để đảm bảo tính thống nhất tồn dân.
7. Hiện tượng sáng tạo từ mới
Là hiện tượng thường xuyên gặp trên báo chí. Đó là hiện tượng kết hợp một
hoặc nhiều yếu tố của từ này với một hoặc nhiều yếu tố của từ khác để tạo thành từ
mới mang nét nghĩa của cả hai từ. Mục đích của người viết muốn tạo ra sự hấp dẫn,
lôi cuốn người đọc hoặc đôi khi tác giả muốn làm cho câu văn ngắn gọn.
Tuy nhiên có trường hợp từ mới đó khơng phù hợp với cái chuẩn và không
được cộng đồng chấp nhận vì nó có thể làm cho người đọc hiểu sai nghĩa, thì đó
gọi là lỗi ngơn ngữ. Nhưng cũng có trường hợp từ mới lại tạo ra được hiệu quả đích
thực của nó và được cả cộng đồng chấp nhận. Và lúc đó người ta khơng thể quy nó
vào lỗi ngôn ngữ.
Ở đây chúng tôi tạm gọi là hiện tượng chứ khơng gọi là lỗi sáng tạo từ.
Ví dụ 1: Khom lưng nhưng không thấp đầu, không gập gối, khách khiêm
kính cúi chào hoa và thư hoạ rồi về nơi an toạ.
(tr6, số 38, 2003)
“khiêm kính” là kết quả của việc kết hợp “khiêm nhường” và “kính trọng”.
Về mặt nghĩa nó mang nghĩa của hai từ này. Hiện tượng này không sai nhưng lại
không phổ biến lắm, khi nghe người ta vẫn cảm thấy hơi “lạ tai”.
Ví dụ 2: Chủ bước vào, tiến tới phía khách cúi đầu chào một cách khiêm
cung, khách cũng đứng lên cúi chào đáp lễ
(tr6, số 38, 2003)
“khiêm cung” được tạo nên từ hai từ “khiêm nhường” và “cung kính”. Đay
là hình thức rút gọn từ chúng ta không thấy xuất hiện nhiều trong các văn bản và
trong giao tiếp hàng ngày.
Sau quá trình khảo sát chúng tôi thu được kết quả như sau:
14



Website: Email :

Số lỗi
%

Lỗi dùng

Lỗi dùng từ

Lỗi dùng

từ không

sai phong

từ sai kết

đúng nghĩa
125
32.89

cách
64
16.85

hợp
20
5.26


Tel  : 0918.775.368

Lỗi lặp,

Lỗi thiếu

thừa từ

từ

90
23.68

50
13.16

Lỗi

Lỗi dùng

tạo từ

từ địa

mới
2
3.94

phưong

6
4.22

III. Hậu quả của việc tồn tại các lỗi về từ trên báo chí
Đối với bài báo: các lỗi dùng từ sai nghĩa, sai kết hợp sẽ làm cho câu văn tối
nghĩa, khó hiểu. Cịn lỗi dùng từ sai phong cách sẽ làm cho từ đó câu đó trở nên
khơng phù hợp khi đặt trong văn bản mà đôi khi tạo nên sự lố bịch. Lỗi lặp từ thừa
từ thì làm cho đoạn văn bài báo trở nên lủng củng hết sức diễn đạt dài dòng gây
nhàm chán.
Đối với với độc giả (người tiếp nhận): Các lỗi về từ như chúng tôi đã khảo
sát ở trên sẽ gây khó khăn cho q trình tiếp nhận văn bản của độc giả. Họ sẽ phải
đọc đi đọc lại nhiều lần để hiểu xem thực sự tác giả ở đây muốn nói điều gì và như
thế rất mất thời gian. Đôi khi đọc đi đọc lại nhiều lần mà độc giả vẫn không hiểu.
Hơn nữa các phương tiện thông tin đại chúng có ảnh hưởng rất lớn đến cơng chúng
vì thế những lỗi về từ trên sẽ vô cùng tai hại nếu bị hiểu sai hoặc hiểu không đúng
dẫn đến việc truyền đạt thông tin sai lạc. Mà truyền thông đã truyền đi thì sẽ khó
sửa lại
Đối với tác giả (người sáng tạo): Các lỗi về từ hẳn là ngoài mong muốn của
họ. Mục đích của họ chỉ muốn truyền đạt cho cơng chúng những điều mình muốn
nói một cách rõ ràng nhất. Vì thế mà khi trong bài viết của họ mắc lỗi thì việc
truyền đạt thơng tin dường như đã thất bại một phần. Việc này cũng phần nào ảnh
hưởng đến uy tín của ngịi bút phóng viên.
Đối với chính tờ báo đó: Các lỗi về từ cùng với các lỗi khác sẽ làm cho bài
báo trở nên lủng củng, khó hiểu đối với q trình tiếp thu của bạn đọc. Nếu việc
này xảy ra nhiều sẽ ảnh hưởng tới niềm tin của bạn đọc với tờ báo. Vì thế mà đơi

15


Website: Email :


Tel  : 0918.775.368

lúc làm mất uy tín của tờ báo làm ảnh hưởng đến việc tiêu thụ báo và doanh thu của
tờ báo.
IV. Một số giải pháp, đề xuất nhằm khắc phục lỗi về từ
1. Khắc phục trên trình bài viết trong quá trình biên tập và xuất bản
Khắc phục lỗi dùng từ sai nghĩa. Để khắc phục lỗi này thì chỉ có một cách là
người viết phải cẩn thận khi sử dụng những từ mà mình chưa nắm rõ nghĩa nhất là
từ Hán Việt thì phải tra từ điển để hiểu rõ nghĩa xem có đúng với ý định muốn viết
của mình khơng rồi mới viết vào bài
Còn đối với nhà biên tập khi gặp lỗi này thì cũng khơng thể tuỳ tiện sử được
mà phải dựa vào từ điển nếu thấy sai thì có thể thay bằng từ khác nhưng phải chú ý
đến sắc thái nghĩa phải tương ứng
Đối với trường hợp dùng từ chuyển nghĩa thì tác giả nên có dấu hiệu hình
thức để cho người đọc dễ nhận biết. Đó là dấu ngoặc kép
Khắc phục lỗi dùng từ sai kết hợp thì người viết và nhà biên tập phải đọc lại
nhiều lần nếu thấy kết hợp là khơng thuận tai thì phải kiểm tra lại và sửa lại sao cho
thuận tai, và phù hợp với cách nói cách diễn đạt của người Việt
Dùng từ sai phong cách: Khi viết tác giả phải nắm vững phong cách mình
đang viết là phong cách báo chí nên tránh dùng các từ thuộc phong cách khẩu ngữ
và phải sử dụng từ ngữ sao cho phù hợp với văn cảnh.
Cịn nhà biên tập thì phải căn cứ vào phong cách chức năng của bài, văn
cảnh xuất hiện từ đó trongg tờ báo đó để sửa.
Lỗi lặp từ, thừa từ: Đối với lỗi này thì người viết hoặc người biên tập phải
đọc lại nhiều lần sau khi phát hiện lỗi thì phải bỏ những từ thừa. Cịn đối với các từ
lặp thì có thể bỏ nếu được, nếu khơng ta có thể thay thế bằng cách gọi khác đồng sở
chỉ hoặc bằng đại từ
Đối với lỗi thiếu từ: để phát hiện lỗi này khơng khó vì có những cụm từ và
những cụm từ và những từ nhất thiết nó phải đi với một số hư từ hay một bộ phận

16


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

nào đó kèm theo. Đọc lên khi thiếu ta sẽ dễ phát hiện ra. Vì thế nhà biên tập chỉ cần
phát hiện ra thiếu gì rồi điền thêm vào
Cịn việc dùng từ địa phương: Khơng nên dùng từ địa phương trong bài cịn
nếu muốn dùng để tăng sắc thái nghĩa địa phương thì người viết nên mở ngoặc kép
ra từ đó ở tiếng tồn dân là gì
Hiện tượng tạo các kết hợp từ mới có kết hợp chấp nhận được thì nên để cịn
kết hợp nào phi lý khơng phù hợp với tiếng Việt thì phải bỏ
2. Ngồi ra ta cũng có thể lấy ý kiến của bạn đọc về vấn đề này và từ đó rút
kinh nghiệm để sữa chữa. Đưa ra các câu hỏi để trưng cầu ý kiến như bạn có thấy
dễ hiểu khi đọc các bài viết khơng và nếu khó hiểu thì ở chỗ nào ở bài nào.

17


Website: Email :

Tel  : 0918.775.368

Tài liệu tham khảo
1. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học
và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 2003.
2. Đức Dũng, Viết báo như thế nào, Nxb Văn hố -Thơng tin, 2000
3. Hữu Đạt, Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đai học Quốc gia Hà

Nội, 2001.
4. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, 2002
5.Lê Thị Hồng Nhung, Khảo sát cách sử dụng từ ngữ lệch chuẩn trên báo
Hoa học trị, Khố luận tốt nghiệp, 2005
6. Phạm Thị Hồng Vân, Khảo sát lỗi ngơn ngữ trên báo Hà Nội mới, Khố
luận tốt nghiệp, 2005.
7. Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2003

18


Website: Email :

MỤC LỤC

19

Tel  : 0918.775.368



×