Phần mở đầu
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào có tồn tại nhà nớc,thuế đều giữ
vai trò rất quan trọng. Nó ra đời cùng sự ra đời của nhà nớc và là sự thể hiện
quyền lực chính trị của nhà nớc nhằm huy động những phơng tiện vật chất
trong nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu to lớn của bộ máy nhà nớc ở hầu
hết các quốc gia thành công trong xây dựng kinh tế,thuế luôn luôn là một công
cụ quan trọng và đợc sử dụng hết sức linh hoạt để kích thích sự sống của nền
kinh tế. ở nớc ta trong những năm gần đây đã có những chuyển biến tích
cực.Đặc biệt việc áp dụng thuế GTGT và các hình thức gián thu khác (thuế
tiêu thụ đặc biệt,thuế xuất nhập khẩu ) là một phơng hớng quan trọng của cải
cách thuế trong giai đoạn hiện nay,nhằm sử dụng chức năng điều chỉnh thuế
để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, bảo đảm nguồn thu cho
ngân sách nhà nớc, khắc phục tính trùng lặp của thuế doanh thu và từng bớc
hoà nhập với chính sách thuế của các nớc trong khu vực và thế giới. Việc áp
dụng luật thuế GTGT vào đời sống của nớc ta đợc 2 năm. Đây là một luật thuế
mới do vậy vẫn còn nhiều vớng mắc cho cả đối tợng nộp thuế và ngời thu thuế
khi thi hành. Mặc dù trong suốt quá trình triển khai, chúng ta đã có nhiều văn
bản sửa đổi, bổ sung song luật thuế GTGT vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn
thiện cho sát thực tế và phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, bài viết
nhỏ này nhằm cung cấp những thông tin về nội dung cơ bản của thuế GTGT
và việc sử dụng sắc thuế này ở Việt nam cùng với những vấn đề vớng mắc
còn tồn tại và những giải pháp cần tháo gỡ.
Qua bài viết này em muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Phạm Hồng
Vân - giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lý thuyết tài chính tiền tệ - đã tận
tình hớng dẫn em hoàn thành đề án này và cũng nh các ý kiến góp ý của tất cả
bạn bè trong lớp.
1
Phần I
Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT
I. Một số khái niệm chung về GTGT và thuế GTGT
1. Giá trị gia tăng là gì ?
Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm đối với một số sản phẩm hàng hoá
hoặc dịch vụ do cơ sở sản xuất,chế biên,buôn bán hoặc dịch vụ tác động vào
nguyên,vật liệu thô hay hàng hoá mua vào,làm giá trị của chúng tăng
thêm.Nói cách khác,đây là số chênh lệch giữa giá đầu ra với giá đầu vào
do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình sản xuất,kinh doanh,dịch vụ
Giá trị gia tăng có thể tính bằng phơng pháp cộng hoặc phơng pháp
trừ.Theo phơng pháp cộng,giá trị gia tăng là trị giá các yếu tố cấu thành giá trị
tăng thêm bao gồm chủ yếu là giá trị lao động (thờng đợc tính bằng giá trị lao
động) và lợi nhuận về hoạt động sản xuất kinh doanh,dịch vụ.Theo phơng
pháp khấu trừ, GTGT là khoản chênh lệch giữa giá trị khâu sau của sản phẩm
(đầu ra ) với giá trị của nguyên vật liệu hay sản phẩm ở khâu trớc mà nhà kinh
tế đã sử dụng để tạo ra sản phâm hàng hoá hay dịch vụ (đầu vào)
Từ những phơng pháp trên,về mặt lý thuyết,ngời ta có thể biểu thị
GTGT bằng các đẳng thức sau
GTGT=tiền công lao động +lợi nhuận
Hoặc GTGT = giá đầu ra giá đầu vào
Mức chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào càng cao thì đơn vị kinh
doanh càng thành công về mặt hiệu quả.
2. Thuế GTGT là gì ?
Theo luật thuế GTGT đã đợc quốc hội nớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá IX,kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10
tháng 5 năm 1997 thì thuế
GTGT là thuế tính trên khoản giá tri tăng thêm của hàng hoá,dịch vụ phát sinh
trong quá trình từ sản xuất,lu thông đến tiêu dùng
Đây là một loại thuế gián thu,một yếu tố cấu thành trong giá hàng hoá
(hay giá dịch vụ) nhằm động viên sự đóng góp của ngời tiêu dùng nh thuế
doanh thu.Tuy nhiên,thuế GTGT có điểm cơ bản khác với thuế doanh thu là
chỉ ngời bán hàng (hoặc dịch vụ) lần đầu phải nộp thuế GTGT trên toàn bộ
2
doanh thu bán hàng (hoặc cung ứng dịch vụ).Còn ngời bán hàng (hoặc dịch
vụ) ở các khâu tiếp theo đối với hàng hoá dịch vụ đó,chỉ phải nộp thuế trên
phần giá trị tăng thêm.Một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là
sản phẩm hàng hoá,dù qua nhiều khâu hay ít khâu,từ sản xuất đến tiêu
dùng,đều chịu thuế nh nhau
Thuế GTGT đánh vào các sản phẩm,dịch vụ tiêu thụ trong cả nớc,kể cả
hàng hoá nhập khẩu.Thông thờng hàng hoá,dịch vụ dùng cho mục đích xuất
khẩu không thuộc diện đánh thuế GTGT.Mức thuế phải nộp thờng căn cứ vào
công dụng vật chất của sản phẩm,không phân biệt ngời mua dùng vào mục
đích gì.
3. Phơng pháp tính thuế GTGT
Xuất phát từ khái niệm chung về GTGT và thuế GTGT trên đây,các nhà kinh
tế đã đa ra 4 phơng pháp cơ bản của việc tính thuế GTGT nh sau
Phơng pháp thứ nhất:phơng pháp trực tiếp hay phơng pháp kế toán,thuế
GTGT đợc tính bằng cách lấy thuế suất (+) nhân với giá trị tăng thêm đợc biểu
thị bằng tiền công,cộng với lợi nhuận,mà cụ thể là
Thuế GTGT= t*(giá đầu ra giá đầu vào)
Phơng pháp thứ hai phơng pháp cộng gián tiếp,thuế GTGT đợc căn cứ vào
từng thành phần riêng biệt của giá trị tăng thêm,ta có thể viết nh sau
Thuế GTGT=(t*tiền công)+ (t*lợi nhuận)
Phơng pháp thứ ba:phơng pháp trừ trực tiếp hay phơng pháp kế toán, thuế
GTGT đợc tính dựa trên cơ sở tính giá trị tăng thêm là chênh lệch giữa giá
đầu ra và giá đầu vào,cụ thể là :
Thuế GTGT =t*(giá đầu ra giá đầu vào)
Phơng pháp thứ t phơng pháp trừ gián tiếp (còn gọi là phơng pháp hoá đơn hay
phơng pháp khấu trừ.).Theo phơng pháp này,thuế GTGT phải đợc nộp trên cơ
sở lấy thuế tính trên giá đầu ra trừ thuế tính trên giá đầu vào,cụ thể là
Thuế GTGT =(t*giá đầu ra)-(t*giá đầu vào)
Trong 4 phơng pháp tính thuế GTGT nói trên thì 3 phơng pháp đầu hầu nh chỉ
tồn tại về mặt lý thuyết,còn trong thực tế,ngời ta thờng ít áp dụng. Đại bộ phận
các nớc đã thực hiện thuế GTGT đề sử dụng phơng pháp 4, phơng pháp trừ
gián tiếp,hay phơng pháp hoá đơn.Phơng pháp này áp dụng phổ biến do một
số nguyên nhân cơ bản sau đây
3
Việc tính thuế GTGT dựa vào hoá đơn cho nên có u điểm trội hơn hẳn những
phơng pháp khác về mặt kỹ thuật,luật pháp,tạo điều kiện thuận lợi cho sự theo
dõi kiểm tra của các cơ quan quản lý thu thuế
Các phơng pháp 1,2,3 tuy đơn giản nhng khó chính xác.Nó đòi hỏi đơn vị kinh
doanh phải xác định lợi nhuận kịp thời.Hơn nữa,nhìn vào tài khoản kế toán,ng-
ời ta thờng khó phân biệt doanh thu bán hàng cũng nh giá vốn (giá đầu
vào)của từng loại sản phẩm có thuế suất phân biệt khác nhau
Sử dụng phơng pháp 4,ngời ta có thể tính đợc nghĩa vụ thuế một cách kip
thời,tính thuế cho từng kỳ có thể không chính xác,nhng cho một năm tài chính
thì chính xác
Thuế GTGT thờng có ít thuế suất,bảo đảm sự đơn giản,rõ ràng. Về ít thuế
suất,sắc thuế này mang tính trung lập,về cơ bản không can thiệp sâu vào mục
tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất,kinh doanh dịch vụ tiêu dùng theo
nghành nghề cụ thể,không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng,
nghành nghề có thuế suất chênh lệch nhau nhiều nhng lại khó phân biệt để có
sự vận dụng thật chính xác thuế suất theo đúng luật
2. Quá trình ra đời và phát triển
của thuế GTGT trên thế giới
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu đợc nghiên cứu và áp dụng
từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng
góp rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của
chính phủ,để nhanh chóng hàn gắn vết thơng chiến tranh.Thuế doanh thu đợc
áp dụng ở Pháp từ năm 1917.Trong thực tế cách đánh thuế này đã phát sinh
nhiều nhợc điểm về tính chất trùng lắp.Mặc dù qua nhiều lần bổ sung,thuế
doanh thu vẫn còn nhợc điểm nổi bật là thuế thu chồng chéo và trùng lắp.Đến
năm 1954,chính phủ Pháp đã ban hành loại thuế mới với tên gọi là thuế GTGT
theo tiếng Pháp là taxe sur la valeur ajoutee (đợc viết tắt là
TVA).Lúc đầu TVA đợc ban hành để áp dụng trớc đối với ngành sản
xuất,chủ yêu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong
lĩnh vực công nghiệp với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ khấu trừ thuế đối
với khâu trớc đối với nguyên liệu,vật liệu.Quá trình thống nhất hoá Châu âu đ-
ợc thúc đẩy vào những năm 50 đã có tác dụng thuận lợi cho TVA đợc triển
khai nhanh chóng ỏ các nớc khác.Đến năm 1966 trong xu thế cải tiến hệ
4
thống thuế đơn giản và hiện đại chung, ở Châu âu TVA đợc chính thức ban
hành để thay thế một số sắc thuế gián thu
Từ năm 1978,theo yêu cầu điều hoà luật pháp của nớc thành viên Cộng
đồng kinh tế Châu âu (EEC),nớc Pháp điều chỉnh lại luật tài chính,trong đó
phần quan trọng liên quan đến TVA.Năm 1986,TVA ở Pháp đợc áp dụng rộng
rãi đối với tất cả các nghành,nghề sản xuất,lu thông hàng hoá và dịch vụ,nhằm
đáp ứng mục tiêu quan trọng :Bảo vệ số thu kịp thời,thờng xuyên cho ngân
sách nhà nớc và khắc phục tình trạng thu thuế trùng lắp của thuế doanh thu
Khai sinh từ nớc Pháp,thuế GTGT đã nhanh chóng đợc áp dụng rộng rãi
trên thế giới,trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nớc.Đến nay đã có trên
100 nớc áp dụng thuế GTGT,chủ yếu là các nớc Châu phi,châu Mỹ la tinh,các
nớc trong khối cộng đồng chung Châu âu(EC) và một số nớc Châu á
Về tên gọi,nhiều nớc gọi là thuế GTGT,điển hình là Pháp,Anh,Thuỵ
điển một số n ớc gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ nh Canada, Newziland, ở
Phần lan, áo, Đức vẫn còn gọi tên gọi cũ với quan điểm cho rằng đây không
phải là thuế mới mà bản chất vẫn nh thuế doanh thu nh cũ,chỉ thay đổi nội
dung,biện pháp thu.Mặt khác các nớc này còn có lập luận cho rằng,đối với
hàng hoá nhập khẩu,thuế GTGT đánh trên giá trị hàng hoá nhập khẩu,nên
không có ý nghĩa là thuế đánh trên giá trị gia tăng thêm nữa
Các nớc thành viên của Cộng đồng Châu âu (EC) đã chọn thuế GTGT
nh một giải pháp tốt nhất để tăng tính trung lập và thống nhất việc đánh thuế
trong cộng đồng,khuyến khích quá trình công nghiệp hoá và tăng năng suất
các nớc EC có ý định áp dụng một hệ thống thuế suất thống nhất,nhng đến nay
cha đợc thực hiện
Một số nớc sử dụng thuế GTGT không chỉ để thay thế các loại thuế gián
thu với nhiều nhợc điểm,mà còn nhằm tăng thu cho ngân sách nhà nớc (nh Chi
Lê,Đan Mạch)Một số nớc coi loại thuế này nh một nguồn thu mới,cho phép
giảm hay huỷ bỏ một số sắc thuế khác.Nhiều cuộc tranh luận ở Mỹ về thuế
thu nhập công ty,giảm thuế suất thu nhập cá nhân,cho phép giảm thuế tài
sản,tài trợ cho bảo hiểm xã hội,giảm thuế đánh trên quỹ lơng vì thực
chất,thuế GTGT là một loại thuế đánh vào tiêu dùng,nói cách khác là động
viên từ thu nhập của cá nhân hoặc của gia đình khi sử dụng thu nhập cho nhu
cầu tiêu dùng
5
Hiện nay thuế GTGT đợc đánh giá nh một nguồn thu đang nổi lên,kết
hợp với tăng tiêu dùng,đã trở thành một yếu tố quan trọng trong tổng số thu
của một số nớc đang sử dụng loại thuế này.Nhiều nớc đã xác định là số thu
của họ trong năm đầu áp dụng thuế GTGT đã đem lại kết quả cao hơn thuế
doanh thu trớc đó
III. Những ảnh hởng của thuế GTGT đến giá cả,lạm phát
và ngân sách
1. ảnh hởng của thuế GTGT đến giá cả và lạm phát
Thông thờng giá cả và lạm phát tăng hay giảm do nhiều yếu tố tác động,
cả về kinh tế lẫn xã hội.Trong cơ chế thị trờng,quy luật cung cầu,quy luật giá
trị cũng có tác động rất lớn đến giá cả và lạm phát.Do đó,nếu khẳng định việc
ban hành một số hệ thống thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng có tác động
đến mức nào với giá cả,lạm phát thờng là khó chính xác.
Có ngời cho rằng,việc ban hành thuế GTGT sẽ làm tăng giá cả và lạm
phát.Tuy nhiên ở nhiều nớc trong quá nghiên cứu ảnh hởng của thuế GTGT
đối với giá cả và lạm phát ngời ta đã đi đến kết luận là đến nay,cha có căn cứ
khoa học nào để khẳng định rằng bản thân thuế GTGT có thể gây ra lạm phát.
Nếu có ảnh hởng nào đó của thuế GTGT đến giá cả,thì những ảnh hởng này
chỉ là một phần chứ không thể là tất cả.Để có kết luận trên,các nhà kinh tế thế
giới đã tiến hành nghiên cứu bằng thực nghiệm những thay đổi chỉ số giá tiêu
dùng,tín dụng và tiền lơng ở 35 nớc trong vòng 2 năm,cả trớc và sau ngày ban
hành thuế GTGT.Kết quả cho thấy có 22 nớc (63% số nớc đợc nghiên cứu)
gần nh không có hoặc có rất ít ảnh hởng của việc ban hành thuế GTGT đến chỉ
số giá tiêu dùng.Có 8 nớc có sự tăng giá là do bị ảnh hởng đáng kể bởi thuế
GTGT nh Đan mạch, Ecuado, Pháp, Newziland, Nauy, Panama, Tây ban nha
và Urugoay.Giá cả tăng còn do nhiều nguyên nhân,nh sự thay đổi các loại thuế
khác,tăng lãi suất tín dụng,tình trạng cung cầu hàng hoá,khả năng quản lý vĩ
mô của nhà nớc đối với nền kinh tế,tính độc quyền,tâm lý của các tầng lớp dân
c trớc những điều chỉnh về chính sách kinh tế xã hội
Về mặt lý thuyết,thuế GTGT thuộc loại thuế gián thu,một yếu tố cấu
thành trong giá.Vì vậy việc ban hành thuế GTGT có liên quan và tác động trực
tiếp đến giá cả là tất nhiên không thể phủ nhận.Vấn đề cần xem xét là trên
thực tế đối với từng ngành nghề,từng loại sản phẩm hàng hoá,dịch vụ,cũng nh
6
trên toàn cục trên nền kinh tế,việc ban hành thuế gián thu nói chung,thuế
GTGT nói riêng có ảnh hởng đến giá cả trong phạm vi rộng hay hẹp,đến khu
vực sản xuất hay các khu vực khác nh thế nào,còn tuỳ thuộc vào hệ thống thuế
suất,nội dung và tổ chức thực hiện có phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội,với
trình độ dân trí và khả năng đóng góp của các tầng lớp dân c hay không? Về
nguyên tắc khi thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT với mức động viên
cuối cùng nh nhau thì ảnh hởng của thuế GTGT ngang với ảnh hởng của thuế
doanh thu với giá.Tuy vậy nêu nhà nớc không có biện pháp quản lý kiểm tra
giá cả để các cơ sở kinh doanh lợi dụng vin vào lý do có thuế GTGT mới để
tăng giá thì vô hình chung giá cả sẽ có tác động xấu.
Tình hình lạm phát ở từng nớc xảy ra thờng do nhiều nguyên nhân,
trong đó có các nguyên nhân khá quan trọng về sự phát triển chậm hay giảm
sút về kinh tế do các chính sách kinh tế vĩ mô, điều hành của nhà nớc do thu
không đáp ứng nhu cầu chi, không cân đối đợc thu chi ngân sách, do tác động
của giá cả vì giá cả vừa là tác nhân nhng cũng vừa là hậu quả của lạm phát. Vì
vậy không thể xem xét, đánh giá tác động cụ thể của chính sách thuế GTGT
một cách riêng rẽ, tách biệt. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, nếu việc cải
cách chính sách thuế nói chung, thuế GTGT nói riêng phù hợp với quy luật và
sự phát triển kinh tế thị trờng, sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế,
bảo đảm nguồn thu ngân sách, do đó sẽ có tác động tốt, ngăn chặn hay hạn
chế lạm phát. Ngợc lại, nếu đa ra mức thuế quá cao, hoặc quá thấp sẽ có ảnh
hởng đến kết quả thu ngân sách và lạm phát.
Việc đánh giá tác động của chính sách thuế GTGT đến lạm phát không
thể là việc xem xét một cách phiến diện, cục bộ, mà phải đợc phân biệt một
cách khách quan, toàn diện, khoa học trong mối quan hệ hữu cơ với nhiều tiêu
thức về kinh tế, xã hội của đất nớc và mối quan hệ với khu vực quốc tế trong
từng thời kỳ nhất định
7
2. Tác động của thuế GTGT đến số thu ngân sách
Thuế GTGT có thể tạo đợc nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách
Nhà nớc, thông qua việc mở rộng và bao quát diện đánh thuế đối với mọi hoạt
động nhập khẩu,sản xuất kinh doanh và dịch vụ
Mặt khác thuế GTGT bảo đảm việc thu tập trung phần lớn số thuế đánh
vào từng sản phẩm hàng hoá ngay từ khâu đầu đối với từng doanh nghiệp sản
xuất và kinh doanh lớn,có khả năng hạn chế thất thu ngân sách tốt hơn thuế
doanh thu.Việc thu thuế và khấu trừ thuế đợc dựa trên chứng từ,hoá đơn,tạo
căn cứ pháp lý cho việc thu thuế sát hơn với thực tế kinh doanh.Trờng hợp thất
thu thuế ở khâu trớc sẽ đợc khắc phục ở khâu sau.Song dù sao cũng không thể
xây dựng mức thuế suất GTGT quá cao,gây nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp,tác động không tốt đến sản xuất kinh doanh và ảnh hởng xấu tới ngân
sách nhà nớc.
Nếu việc nghiên cứu,xây dựng mức thuế suất hợp lý với tính toán kỹ l-
ỡng để bảo đảm thuế GTGT thờng hay cao hơn 5%-10% so với thuế doanh
thu,sẽ mang tính khả thi,tạo đợc sốthu cho ngân sách nhà nớc một cách tích
cực,đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất,mở rộng lu thông có lợi
cho quốc kế dân sinh
IV. Những điểm giống nhau và khác nhau giữa thuế
GTGT và thuế doanh thu
1. Những điểm giống nhau
Thuế GTGT và thuế doanh thu đều là thuế gián thu đánh vào ngời tiêu
dùng hàng hoá hoặc đợc cung ứng dịch vụ.Thuế này do ngời sản xuất,kinh
doanh dịch vụ nộp cho nhà nớc,nhng thực chất ngời tiêu dùng là ngời chịu
thuế.Nhà doanh nghiệp đóng vai trò là ngời thu hộ thuế cho nhà nớc,họ đã
phải cộng số thuế gián thu phải nộp vào giá bán của sản phẩm hoặc giá dịch
vụ để ngời tiêu dùng trả,nên họ phải nộp đầy đủ số thuế thu hộ này vào ngân
sách Nhà nớc.
Thuế gián thu bảo đảm cho mọi ngời có thể tự do lựa chọn hàng
hoá,quyết định tiêu dùng để chịu thuế cao hay thấp tuỳ thuộc vào túi tiền,sở
thích của mình.Thuế tránh đợc mối quan hệ trực tiếp giữa ngời tiêu dùng là
ngời chịu thuế với cơ quan thuế nên có phần dễ thu hơn thuế trực thu.Đồng
thơì,dễ điều chỉnh mức thuế tăng lên vì thuế gián thu thờng nằm ẩn trong giá
8
hàng hoá,dịch vụ,ngời chịu thuế thờng ít cảm nhận đợc ngay đầy đủ gánh
nặng của loại thuế này.Do vậy,phản ứng của dân chúng về thuế gián thu cũng
ít gay gắt hơn so với thuế trực thu.Về mặt quản lý,thuế GTGT và thuế doanh
thu không quan tâm đến các khoản chi phí hoạt động sản xuất,kinh doanh,dịch
vụ của doanh nghiệp nên chi phí có phần thấp hơn thuế trực thu.
2. Những điểm khác nhau
Giữa thuế GTGT và thuế doanh thu có những điểm khác nhau cơ bản là:
Thuế GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng
khâu sản xuất,lu thông.Nhng thuế doanh thu lại đánh trên toàn bộ
doanh thu của sản phẩm,qua mỗi lần chuyển dịch từ sản xuất đến lu
thông.
Thuế GTGT có khấu trừ thuế ở các giai đoạn trớc thuế doanh thu
không khấu trừ thuế đã nộp ở giai đoạn trớc.
Tổng số thuế GTGT thu đối với từng sản phẩm không phụ thuộc vào
sự tổ chức phân chia các chu trình kinh tế dù các công đoạn sản xuất
kinh doanh đợc chuyên môn hoá cao,tập trung ở một số doanh
nghiệp hay phân chia cho nhiều doanh nghiệp,tổng số thuế thu đợc
vẫn bằng nhau.
Ngợc lại,số thuế doanh thu đối với từng sản phầm phụ thuộc vào sự
tổ chức,phân chia các chu trình kinh tế.Sản phẩm hàng hoá càng phải
trải qua nhiều công đoạn sản xuất,lu thông thì tổng số thuế thu đợc
đối với từng sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối mà ngời tiêu dùng
phải chịu ngày càng cao.
Thuế GTGT thờng có ít thuế suất hơn thuế doanh thu,nên có phần
đơn giản rõ ràng,dễ thực hiện hơn thuế doanh thu.
V. Những u điểm và nhợc điểm của thuế Giá Trị Gia Tăng
1. Ưu điểm chủ yếu của thuế giá trị gia tăng.
Tránh đợc hiện tợng đánh thuế chống lên thuế,phù hợp với nền kinh tế hàng hoá
sản xuất theo cơ chế thị trờng.
Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng đợc áp dụng rộng rãi đối với mọi
tổ chức,cá nhân có tiêu dùng sản phẩm,hàng hoá hoặc đợc cung cấp dịch vụ,nên
có thể tạo đợc nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nớc.
9
Thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ,nên không phải đi sâu xem
xét,phân tích về tính hợp lý,hợp lệ của các khoản chi phí,làm cho việc tổ chức
quản lý thu tơng đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu
Thuế đợc hoán đổi đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí,đẩy mạnh
xuất khẩu,tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trờng quốc
tế
Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập
khẩu,có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất,kinh doanh hàng nôi địa
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu
trừ thuế GTGT đợc thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy ngời mua
phải đòi hỏi ngời bán xuất hoá đơn,ghi doanh thu đúng với hoạt động mua
bán,khắc phục tình trạng thông đồng giữa ngời mua với bán để trốn lậu thuế. ở
khâu bán lẻ,thờng xảy ra trốn lậu thuế. Ngời tiêu dùng không cần đòi hoá đơn vì
đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế.Tuy vậy,ở khâu bán lẻ cuối
cùng,giá trị tăng thêm thờng không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều.
Nâng cao đợc tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của ngời nộp
thuế.Thông thờng trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều
kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra,tự tính thuế,tự kê khai,tự nộp thuế. Từ
đó,tạo đợc tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp th-
ơng,thoả thuận về mức doanh thu,mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế
GTGT cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc ngời mua,ngời bán phải lập và lu giữ
chứng từ,hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế thờng tơng đối sát với thực tế hoạt
động kinh doanh.
Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại
hoá,chuyên môn hoá sản xuất,tích cực đầu t,mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá
thành sản phẩm.
Nhìn chung,trong các sắc thuế gián thu,thuế GTGT đợc coi là phơng pháp thu tiến
bộ nhất hiện nay,đợc đánh giá cao do đạt đợc các mục tiêu lớn của chính sách
thuế, nh tạo đợc nguồn thu lớn cho Ngân Sách Nhà Nớc, đơn giản,trung lập.
2. Nhợc điểm chủ yếu của thuế GTGT
Nhợc điểm của thuế GTGT đợc thể chủ yếu ở các mặt sau:
Chi phí về quản lý,thu thuế GTGT rất tốn kém. Để thực hiện tốt thuế
GTGT,công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của ngời nộp thuế phải rõ
10
ràng,minh bạch.Trên thực tế không phải tất cả các doanh nghiệp vừa và lớn
thuộc mọi thành phần kinh tế đều làm tốt công tác này.Do đó, hầu hết các nớc
đang thực hiện thuế GTGT đều sử dụng hệ thống vi tính để đảm bảo chống thất
thu đạt hiệu quả và quản lý thu thuế đợc thuận lợi. Nếu không theo dõi,quản lý
thuế chặt chẽ,dễ xảy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu đợc thuế.
Thuế GTGT có ít thuế suất nên ngời tiêu dùng có thu nhập cao hay thất thờng
phải nộp giống nhau,thuế mang tính luỹ thoái. Tỷ lệ động viên qua thuế GTGT
với ngời có thu nhập thấp lại lớn hơn tỷ lệ động viên đối với ngời có thu nhập
cao,thuế không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa
ngời giàu và ngời nghèo.
Giữa lý luận và thực tế,thuế GTGT cũng có những điểm cha đợc nhất
quán.Thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm nhng đối với một số nghành
dịch vụ (nh phục vụ sửa chữa,chuyển giao công nghệ,dịch vụ khoa học) cách
đánh thuế và khấu trừ thuế GTGT nh thế nào là hợp lý ? Đối với tài sản cố
định,mức khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào thế nào là thoả đáng Những vấn đề
này là nội dung tranh luận trong nhiều cuộc hội thảo trên thế giới,nhng đến nay
ở nhiều nớc vẫn có nhiều quan điểm và cách xử lý khác nhau.
Thuế GTGT có u điểm là tính tập trung rất cao.Đồng thời cũng lại có nhợc
điểm là thiếu linh hoạt, mềm dẻo,không thật thích hợp với nền kinh tế mới bớc
đầu chuyển sang nền kinh tế thị trờng với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
PHần 2
11
Vấn Đề Xây Dựng Và áp Dụng Mô Hình
Thuế GTGT ở Việt Nam
I. Thực trạng của việc áp dụng thuế doanh thu ở nớc ta trong
những năm trớc đây.
1. Ưu điểm của thuế doanh thu.
Thuế doanh thu là một loại thuế thu vào các hoạt động sản xuất,kinh doanh,
dịnh vụ.Thuế doanh thu mang tính chất của một loại thuế gián thu,một yếu tố
cấu thành trong giá,nhằm động viên đóng góp sự của ngời tiêu dùng cho ngân
sách Nhà nớc.
Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua luật thuế ngày 30 tháng 6 năm
1990,có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 1990 thay thế chế độ thu
quốc doanh ( đối với kinh tế quốc doanh) và một số loại thuế ( trong khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh) nh thuế doanh nghiệp, thuế buôn chuyến, thuế muối,
thuế hàng hoá đối với một số cơ sở sản xuất trớc đây thuộc diện nộp thuế hàng
hoá,nay không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế doanh thu đợc áp dụng thống nhất chung đối với các thành phần quốc
doanh và ngoài quốc doanh nhằm bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các
thành phần kinh tế và sự công bằng, bình đẳng về chính sách động viên thuế
giữa những ngời tiêu dùng cho ngân sách Nhà nớc.
Thuế đợc áp dụng rộng rãi đối với mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ thuộc mọi nghành nghề, mọi hình thức, hoạt động thờng xuyên hoặc không
thờng xuyên, có địa điểm cố định hay lu động ( trừ sản xuất nông nghiệp trớc
nộp thuế nông nghiệp và từ 01-01-1994 nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, sản
xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và sản xuất hàng xuất khẩu ). Vì vậy
thuế doanh thu đã trở thành một nguồn thu tơng đối tập trung, ổn định của
ngân sách Nhà nớc. Từ 1991 đến 1995,thuế doanh thu đã tăng nhanh qua các
năm ( từ 35% đến 45% ) và chiếm từ 16,5% đến 20,3% tổng số phí và thuế
trong ngân sách Nhà nớc.
Thông qua cơ cấu thuế suất cao, thấp khác nhau ( từ 0% đến 30%) giữa các
ngành nghề,Nhà nớc thể hiện quan điểm khuyến khích hay hạn chế,nhằm hớng
12
dẫn,điều chỉnh nền kinh tế có lợi cho quốc kế dân sinh theo hớng phát triển
của đất nớc.
Biện pháp tính thuế doanh thu đơn giản, thuận tiện cho việc kiểm tra của cán
bộ thuế. Các mức thuế suất đợc có kế thừa chế độ thu trớc, không gây đảo lộn
về giá cả, về số thu ngân sách trong những năm đầu chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng.
Riêng đối với khu vực kinh tế quốc doanh, đã đợc Nhà nớc u đãi, chiếu cố về
miễn,giảm thuế giúp đỡ khắc phục một số khó khăn trong bớc đầu chuyển đổi
cơ chế sản xuất,kinh doanh, bảo đảm nộp đợc thuế và có lãi. Số xí nghiệp làm
ăn thua lỗ hiện nay chỉ còn dới 5% tổng số xí nghiệp, cùng với một số xí
nghiệp đợc sắp xếp lại cho phù hợp với cơ chế mới.
2. Nhợc điểm và hạn chế của thuế doanh thu
Trong quá trình thực hiện thuế doanh thu đã bộc lộ những nhợc điểm, hạn chế chủ
yếu là :
Thuế tính trên toàn bộ doanh thu ( gồm cả thuế doanh thu ) qua từng khâu luân
chuyển hàng hoá từ sản xuất,bán buôn đến bán lẻ đã ảnh hởng không tốt đến
giá cả và sản xuất,kinh doanh. Cùng một mặt hàng nếu đợc tổ chức sản xuất và
luân chuyển qua ít khâu tổng số thuế phải nộp sẽ thấp hơn so với việc tổ chức
qua nhiều khâu không phù hợp với cơ chế thị trờng.
Do thuế doanh thu còn nhiều nhóm thuế suất khác nhau nên đã hạn ché tính
trùng lặp của thuế.Trong nghành sản xuất thơng nghiệp, dịnh vụ thuế suất phân
biệt quá chi li, nhng tiêu thức sắp xếp cho từng loại thuế cụ thể thiếu rõ ràng,
khó phân biệt để áp dụng đợc thuế suất chính xác.Có trờng hợp hiểu thế nào
cũng đúng, áp dụng thế nào cũng đợc mặc dù thuế suất chênh lệch nhau rất
lớn.Ví dụ hoá chất cơ bản 1% và hoá chất thông thờng đến 4% ; trong nghành
cơ khí sản xuất máy móc, thiết bị cong cụ 1% ; các sản phẩm cơ khí khác 2%-
4% Do nhiều căn cứ xác định thuế chính xác , thuế suất lại chênh lệnh nhau
nhiều nên đẫ phát sinh không ít tiêu cực, tuỳ tiện trong vận dụng luật thuế.
Thuế doanh thu cha thu đối với mặt hàng thuộc diện đánh thuế tiêu thụ đặc
biệt, hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu nên cha tạo đợc môi trờng thuận lợi cho
việc hoà nhập với thông lệ khu vực, quốc tế, cha hỗ trợ hàng xuất khẩu giảm
giá thành để có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
13
Mục tiêu,yêu cầu và điều kiện thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT
1/ Mục tiêu,yêu cầu của việc ban hành thuế GTGT
Việc ban hành thuế GTGT thay thé thuế doanh thu ở Việt Nam nhằm những
mục tiêu và yêu cầu chủ yếu sau :
Hạn chế những nhợc điểm tồn tại của thuế doanh thu, góp phần thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh phát triển, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu.Thuế GTGT đ-
ợc ban hành gắn với việc sửa đổi, bổ sung một số sắc thuế ( thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế nhập khẩu ) làm cho hệ thống thuế của Việt Nam ngày càng hoàn
thiện, phù hợp với cơ chế thị trờng, tơng đồng với hệ thống thuế trong khu vực
và trên thế giới, góp phần thu hút vốn đầu t nớc ngoài vào Việt Nam.
Tăng cờng việc thực hiện chế độ hoá đơn, sổ kế toán và hạch toán kinh tế đối
với các nhà doanh nghiệp, bảo đảm ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động
của từng cơ sở kinh doanh, tập trung đợc nguồn thu thuế GTGT vào ngân sách
Nhà nớc ngay từ khâu sản xuất hạn chế đợc thất thu về thuế.
2. Điều kiện cần thiết để áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam
Những điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT là :
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh,mua bán hàng hoá lớn và vừa phải thực
hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn, thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định
doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh.
Trình độ cán bộ quản lý thu thuế đợc nâng cao về chế độ chứng từ , hoá đơn,
sổ kế toán, thông thạo về ché độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoán thuế
GTGT. Cơ quan thuế từng bớc trang bị hệ thống máy vi tính, cán bộ ngày càng
thông thạo việc sử dụng các mạng máy vi tính đạt hiệu quả cao.
Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân
hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ
cho việc tính thuế đựơc chính xác.
ý thức tự nguyện,tự giác chấp hành các luật thuế của các nhà doanh nghiệp
từng bớc đợc nâng nên theo phơng châm tăng cờng đức trị
gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phơng châm pháp
trị.
14
Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đa dần việc thực hiện pháp luật
vào nề nếp, kỷ cơng, cả trong nhận thức t tởng và trong hành động thực tề.
Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau,đồng thời có mối quan
hệ, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế GTGT đợc đồng bộ đạt
hiệu quả tốt.
4. Sau hơn hai năm triển khai thực hiện luật
thuế GTGT
1. Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu t, xuất khẩu, thúc
đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và sắp xếp cơ cấu lại nền kinh tế.
Sau khi đạt tốc độ tăng trởng kỷ lục 9,54% năm 1995,từ cuối năm 1996, kinh tế
bắt đầu có biểu hiện trì trệ, nhịp độ tăng trởng suy giảm liên tục, năm 1999 chỉ đạt
4,8%. Nền kinh tế Việt Nam đã mấy lần lâm vào thiểu phát. Thiểu phát gắn với
suy giảm đầu t, tốc độ tăng trởng kinh tế có biểu hiện phức tạp gây tác động tiêu
cực trên nhiều phơng diện. Trong điều kiện nớc ta hiện nay, để ngăn chặn thiểu
phát , thúc đẩy tăng trơng nhanh, tạo ra việc làm và hiệu quả kinh tế cao, Nhà nớc
đã tiến hành các giải pháp kích cầu theo kiểu áp dụng học thuyết Keynes. muốn
kích câù phải tăng khối lợng tiêu dùng cá nhân các hộ gia đình và Nhà nớc lên,
đồng thời phải kích thích tăng đầu t của t nhân và của Nhà nớc để đạt đợc cầu
hiệu quả có quan hệ trực tiếp đến chính sách thuế nói chung, trong đó có thuế
gián thu.Chính vì vậy việc thực hiện các luật thuế mới đã góp phần khuyến khích
đầu t, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.Việc thực hiện luật thuế GTGT đã
tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu t xây dựng cơ bản giảm khoảng
10%.
Trong năm 1999, tuy gặp nhiều khó khăn do đầu t trực tiếp của nớc ngoài giảm
khoảng 12,3% nhng tổng vốn đầu t vẫn tăng so với năm 1998, trong đó vốn đầu t
trong nớc tăng khoảng 28,6%; vốn ODA tăng khoảng 16%. Một số sản phẩm chủ
yếu đạt khá so với năm 1998 là : dầu thô tăng 19% ; sữa hộp tăng 8,7% ; đờng mật
tăng 28%; bia tăng 1,5% ; giấy bìa tăng 8,8%; xi măng tăng 9,2%; thép cán tăng
12,9%; điện phát ra tăng 9,7% Đại bộ phận các doanh nghiệp nộp đợc thuế
GTGT theo đúng luật mà vẫn có lãi.
Theo quy định của luật thuế GTGT, hàng hoá xuất khẩu đợc hởng thuế suất 0%,
tức là đợc toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, giúp cho doanh nghiệp xuất
khẩu tập trung đợc nguồn hàng trong nớc để xuất khẩu và có điều kiện cạnh tranh
15
với hàng hoá trên thị trờng quốc tế.Trong năm 1999 đã hoàn thành 1800 tỷ đồng,
trong đó chủ yếu là hoán thuế cho hàng hoá xuất khẩu. Trong đó, những mặt hàng
đợc hoán thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 nh là : cao su
37,2% ; cà phê 27,6% ; gạo 21,4% ; thuỷ sản 14,1% ; giày dép 36,3% ; dệt may
15,1% ; thủ công mỹ nghệ 52% ; điện tử 54%;
Thuế GTGT và thuế tiêu thụ đặc biệt vào hàng hoá nhập khẩu góp phần bảo hộ có
hiệu quả sản xuất trong nớc, đây là biệt pháp hết sức quan trọng. Thực tế trong
năm 1999, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu 569 lần mặt hàng, với số thuế giảm
gần 100 tỷ đồng và giảm thuế theo chơng trình cắt giảm thuế quan CEPT 3591
dòng hàng (tính đến năm 1999 ) trong đó riêng năm 1999 là 1872 dòng hàng.
Trong năm 2000, tốc độ tăng trởng kinh tế tăng đều qua các quý : quý I là 5,6% ;
quý II - 6,7% ; quý III 7,0% ; quý IV tăng khoảng 7,2%. Ngoại trừ tốc độ
tăng giá khác xa so với kế hoạch năm 2000, các chỉ tiêu chủ yếu còn lại đều đạt và
vợt. Chính Phủ nhận định chúng ta đã chặn đợc đã giảm sút về nhịp độ tăng trởng
kinh tế ( tốc độ tăng trởng năm 1997 là 8,2% ; năm 1998 là 5,8% ; năm 1999 là
4,8% ) song cha vững chắc do những tồn tại yếu kém từ những năm trớc.
Năm 2000, với tốc độ tăng trởng GDP 6,75%, Việt Nam vợt qua nhiều nớc trong
khu vực về tốc độ tăng trởng ( Thái Lan 5,3% ; ấn Độ 5,5% ; Indonesia 3,8% ;
Philipin 3,4% ) tuy nhiên vẫn thấp hơn tốc độ tăng trởng của Trung Quốc (8% )
Malaysia (7,5%) Hàn Quốc(8,5%). Kim nghạch xuất khẩu khu vực trong nớc chỉ
tăng 5,7% do giá giảm. Tổng vốn đầu t toàn xã hội đạt 27,9% GDP, tăng 20% so
với năm 1999, cao hơn so với năm 1998 ( 26,9% GDP, tăng 0,4% ) và
1999( 26,0%, tăng 6,8% ), tạo cơ sơ cho tăng trởng kinh tế song vẫn thấp hơn so
với năm 1997 (30,9% GDP ).
Việc thực hiện các luật thuế mới đã góp phần cơ cấu lại nền kinh tế đợc thể hiện
rõ nét trên các mặt : hợp lý hoá và giảm số thuế suất, từ đó đòi hỏi và khuyến
khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả,đạt và vợt lợi nhuận trung bình
của xã hội. Thông qua việc u đãi đầu t, các luật thuế mới đã khuyến khích việc
đầu t vào các lĩnh vực, ngành, nghề, vùng kinh tế theo định hớng phát triển của
Nhà nớc, thúc đẩy việc chuyên môn hoá, hợp tác hoá, không còn đánh trùng thuế
nh thuế doanh thu trớc đây, khuyến khích việc sản xuất kinh doanh những hàng
hoá mà Việt Nam có thế mạnh nh : nông sản,lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ
do đợc khấu trừ vào một tỷ lệ ấn định từ 3%- 5%, khi mua hàng của nông dân. Tr-
16
ờng hợp nông sản, lâm sản, hải sản xuất khẩu nếu có thuế GTGT đầu vào cũng đ-
ợc hoán thuế.
2. Việc triển khai thực hiện không gây biến động về giá không
làm ảnh hởng lớn đến kế hoạch thu NSNN.
Theo tài liệu của tổng cục thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng cả năm 1999 chỉ tăng
0,1% so với tháng 2 năm 1998 trong đó giá lơng thực giảm 1,9%, giá thực phẩm
giảm 7,8%. Nếu loại trừ nhóm lơng thực, thực phẩm thì giá các nhóm hàng công
nghệ phẩm và dịch vụ trong năm tăng 3% là mức bình thờng và phổ biến của
nhiều nền kinh tế tronh khu vực và trên thế giới. Năm 1999 là năm chỉ số giá tiêu
dùng có tốc độ tăng thấp nhất từ năm 1990 đến nay.
Trong năm 2000,tình hình giá cả cha thoát khỏi đà suy giảm liên tục, năm 1999
chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 0,1% thì năm 2000 chỉ số giá tiêu dùng không tăng
so với cuối năm 1999, do có tới 6 tháng chỉ số giá ở mức âm so với tháng trớc.
Đặc biệt lơng thực giảm mạnh, gây bất lợi cho ngời nông dân. Hiện nay chúng ta
vẫn cha chứng minh đợc chỉ số giá tiêu dùng thấp và nhiều tháng âm là tốt hay
xấu đối với nền kinh tế và có nên đồng nhất tăng CPI với hiệu quả kích cầu hay
không. Nhìn chung tình hình giá cả ổn định nêu trên là do :
Tình hình sản xuất kinh doanh tiếp tục phát triển và việc chỉ đạo điều hành của
chính phủ đợc sát hơn đối với các bộ,các nghành, các địa phơng trong việc quản lý
thị trờng, quản lý giá cả.
Bản chất của thuế GTGT là không làm tăng giá, tuy nhiên trong thời gian ngắn
ban đầu thực hiện luật thuế,giá hàng hoá có nhích nên do một số doanh nghiệp và
hộ t nhân thiếu hiểu biết đã lợi dụng nâng gía nhng sau đó đã đợc chấn chỉnh.
Năm 1999, tổng thu NSNN ớc đạt 102,1% so với dự toán năm. Số thu từ nội địa do
nghành thuế quản lý ớc đạt 105% dự toán năm.Thuế thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu do nghành Hải quan quản lý tăng 34,8% so với năm 1998. Riêng số thuế thu
từ thuế GTGT sau khi trừ, hoán thuế đạt đợc mức tơng đơng thuế doanh thu trớc
đây.
Các nhiệm vụ cơ bản về ngân sách năm 2000 đều đợc thực hiện tốt. Thu ngân sách
hoàn thành vợt dự toán 8,9% riêng thu trong nớc không kể dầu thô tăng 2%.Ước
cả năm thu ngân sách đạt 18,1%GDP xấp xỉ tỷ lệ năm 1999(18,2%), tỷ lệ tơng đối
phù hợp để kích thích sản xuất kinh doanh.
17
Để đạt đợc kết quả trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao của đảng của Chính
phủ, các bộ, các ngành, các địa phơng. Đồng thời công tác tuyên truyền, phổ biến
về pháp luật thuế, tập huấn nhiệm vụ có nhiều tiến bộ hơn so với việc triển khai
các luật thuế trớc đây. Hơn nữa các cơ sở kinh doanh và mọi tầng lớp nhân dân
đều hởng ứng và đồng tình thực hiện các luật thuế mới do các luật thuế mới tiến
bộ hơn và có nhiều u điểm hơn các luật thuế cũ. Bên cạnh đó chính sách thuế đã
có những điều chỉnh phù hợp với nhiệm vụ năm 2000, đồng thời tơng đối uyển
chuyển nhằm đối phó với những biến động của thị trờng đảm bảo khuyến khích
sản xuất phát triển. Trọng tâm cải cách thuế bớc 2 năm 2000 là điều chỉnh mức
thuế GTGT cho phù hợp với từng nghành nghề sản xuất kinh doanh, thực hiện
hoán thuế một cách thuận lợi. Trớc tình hình giá dầu tăng Chính phủ chủ động
giảm thuế nhập khẩu xăng dầu từ 10 % xuống 0% giúp các doanh nghiệp giữ chi
phí sản xuất ở mức hợp lý, bảo đảm sức cạnh tranh mặc dù số thực thu thuế xuất
nhập khẩu chỉ đạt khoảng 80% dự toán năm.
3. Luật thuế mới đã bớc đầu tác động đếncông tác quản lý của
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nớc kiểm tra,giám sát
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế suất thuế GTGT và từ
3 mức thuế suất thuế lợi tức xuống còn 1 mức thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu sắp xếp lại sản xuất,đổi
mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện các mức thuế suất
mới.Sự chuyển biến này thể hiện rõ nhất trong các doanh nghiệp t nhân,công ty
TNHH, công ty cổ phần. Thông qua đó giúp cho các cơ quan chức năng của Nhà
nớc và cơ quan thuế từng bớc nắm đợc sát tình hình sản xuất kinh doanh cũng nh
tăng cờng kiểm tra, giám sát đối với doanh nghiệp.
4. Những tồn tại cần tiếp tục nghiên cứu xử lý.
a/ Về thuế suất GTGT
Tuy đã có những biện pháp xử lý cơ bản những khó khăn về thuế suất thuế
GTGT,nhng vẫn còn một số mặt hàng, nghành nghề vẫn còn vớng mắc cần tiếp
tục nghiên cứu xử lý.
Điều 8 luật thuế GTGT quy định 4 mức thuế suất đối với hàng hoá dịch vụ là 0%,
5%, 10% và 20%. Theo tinh thần của điều luật này lĩnh vực đợc u tiên có mức
thuế suất thấp là hàng xuất khẩu, hàng hoá tạo ra từ sản xuất nông nghiệp, từ hoạt
18
động y tế, giáo dục.Tuy nhiên đang từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất, tất yếu
không thể tránh khỏi sự chênh lệch số thuế gián thu phải nộp giữa hai loại thuế
này.Những sản phẩm trớc đây phải chịu thuế doanh nghiệp với mức thấp 0,5%;
1%; 2% nay lên 10% trên giá cha có thuế, mặc dù đợc khấu trừ thuế đầu vào nhng
số thuế GTGT phải nộp vẫn cao hơn thuế doanh thu phải nộp trớc kia rất nhiều. Vì
vậy khi áp dụng thuế GTGT, một số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về tài
chính, có doanh nghiệp đang làm ăn có lãi nếu nộp đủ thuế GTGT thì bị lỗ. Chẳng
hạn các doanh nghiệp chế tạo cơ khí trớc đây, đang nộp thuế doanh thu từ 1%-2%
( trừ nhóm hàng điện dân dụng và lắp ráp ô tô dới 24 chỗ có mức thuế suất 4% )
nay áp dụng thuế GTGT 10% đã gặp rất nhiều khó khăn. Để giải quyết khó khăn
cho sản xuất, đồng thời thực hiện Nghị định số 18-1999/QH 10 ngày 25/11/1999
của Quốc hội khoá X Chính phủ đã ra Nghị dịnh số 102-1998/NĐ-CP tạm giảm
50% mức thuế GTGTđối với một số sản phẩm nh : than đá, máy cày, máy kéo,
máy bơm nớc, máy công cụ, máy động lực, 7 hàng hoá chất cơ bản, khách sạn, du
lịch, ăn uống, hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở các doanh nghiệp thơng mại.
Đến nay, nhiều doanh nghiệp đang đề nghị giảm mức thuế cho hàng hoa, dịch vụ.
Đây là vấn đề rất quan trọng, cần cân nhắc thận trọng, nếu giải quyết tràn lan sẽ
phá vỡ mục tiêu của cải cách thuế bớc hai, không những không đẩy mạnh đợc
công tác quản lý, hạch toán kế toán của các doanh nghiệp mà còn không có tác
động khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển ảnh hơng lớn tới thu ngân sách
ở Trung ơng cũng nh ở các địa phơng.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do việc sắp đặt các loại hàng hoá dịch vụ
vài các nhóm thuế suất khác nhau cha hợp lý nên dẫn tới hiện tợng một số doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng, nghành hàng có mức thuế GTGT
nộp thấp hơn so với thuế doanh thu trớc đây nên có lãi lớn, ngợc lại, một số doanh
nghiệp sản xuất kinh doand các mặt hàng, nghành hàng có mức thuế GTGT nộp
cao hơn so với mức thuế doanh thu trớc đây bị lỗ lớn. Còn một số nguyên khác nh
khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực tác động lớn đến sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong nớc (giá hàng nhập khẩu và sản xuất hạ, thị trờng tiêu thụ bị
thu hẹp ) trong khi sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn kém nên
nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị lỗ, không nộp đợc theo mức thuế
GTGT hiện hành.
b/ Về quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ.
19
Để xác định đợc số thuế đầu vào, luật thuế GTGT quy định Doanh nghiệp phải có
đầy đủ chứng từ hoá đơn hợp lệ, ghi rõ số thuế GTGT đã thanh toán đợc ghi trên
hoá đơn mua hàng hoặc giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào.Lợi dụng
quy định này một số doanh nghiệp đã sử dụng hoá đơn thật để ghi khống các
khoản thuế và chi phí hàng hoá dịch vụ hợp lý để khấu trừ thuế đầu ra hay tăng chi
phí nhằm trốn thuế, hoán thuế.Nh vậy hoá đơn là có thật nhng hàng hoá dịch vụ
thể hiện trên hoá đơn là không có thật.Kết quả kiểm tra của một số địa phơng cho
thấy một số cửa hàng kinh doanh xăng dầu, bán lẻ cho ngời tiêu dùng không cần
hoá đơn ( thờng chiếm khoảng 50% khối lợng ) sau đó thoả thuận với một số
doanh nghiệp có nhu cầu để xuất hoá đơn khống cho phần xăng dầu bán lẻ.
Doanh nghiệp này sử dụng hoá đơn khống để hợp lý hoá chi phí đầu vào, khấu trừ
thuế đầu ra nhằm trốn thuế chia nhau. Một số cửa hàng kinh doanh vật liệu sử
dụng thủ đoạn này nhằm trốn thuế GTGT.
Một căn cứ để xác định thuế GTGT là giá thanh toán ( hoặc giá tính thuế ) của
hàng hoá dịch vụ đầu ra. Giả định đầu vào không đổi, muốn giảm số thuế phải
nộp, các doanh nghiệp có thể giảm giá đầu ra bằng cách bán hàng không xuất hoá
đơn rồi khai báo là hàng tồn kho để trốn thuế. Bên cạnh đó do ngời tiêu dùng trực
tiếp không cần hoá đơn khi mua hàng nên một số doanh nghiệp đã lợi dụng lấy
hoá đơn này ghi khống giá bán hàng thấp hơn giá thực tế để giảm giá thanh toán
đầu ra (hoặc giá tính thuế ) nhằm trốn thuế GTGT. Thủ đoạn này đã đợc sử dụng
trong trốn thuế doanh thu trớc đây và hiện nay vẫn tiếp tục phát triển. Không
những thế những quy định về thuế suất đã tạo ra kẽ hở cho một số doanh nghiệp
có sản phẩm phục vụ cho các lĩnh vực có thuế suất khác nhau có điều kiện nhập
nhằng để trốn thuế thông qua gian lận thuế suất.
Đối với hoạt động xây dựng cơ bản, việc xác định thuế GTGT đầu vào của từng
công trình để khấu trừ là rất khó khăn, phức tạp, để trùng lặp trong kê khai doanh
nghiệp chính và tổ đội thi công Chúng ta đều biết vì căn cứ xác định thuế GTGT
đầu vào là hoá đơn, chứng từ mà các tổ đội thi công trực thuộc doanh nghiệp
không có t cách pháp nhân do đó hoá đơn, chứng từ mua vật t,hàng hoá đều do
doanh nghiệp chính mua và cấp lại cho tổ đội thi công, xây dựng. Vì vậy việc kê
khai và xác định thuế GTGT đầu vào đối với các công trình xây dựng khác ở địa
phơng gặp nhiều vớng mắc.
Còn đối với nghành giao thông vận tải, theo quy định doanh nghiệp chỉ kê khai và
nộp thuế phần doanh thu của ngời nhận khoán nộp về, còn xuất hoá đơn GTGT
20
khi chủ hàng yêu cầu thì doanh nghiệp phải kê khai nh thế nào ? Vì khi doanh
nghiệp xuất hoá GTGT phải thực hiện việc kê khai thuế GTGT đầu ra nhng lại
không có cơ sở tính thuế GTGT đầu vào để xác định thuế GTGT phải nộp, xác
định chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế ? Hơn nữa đối với trờng hợp
khoán gọn ngời nhận khoán tự do kinh doanh , chỉ nộp về cho doanh nghiệp một
khoản đóng góp cố định không phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của họ.
Khoản thu này mang tính chất gần giống nh doanh thu cho thuê phơng tiện vận tải
của doanh nghiệp, nhằm bù đứp cho các khoản chi phí, khấu hao phơng tiện vận
tải, sửa chữa lớn và một phần chi phí quản lý doanh nghiệp. Với phơng thức khoán
này, ngời nhận khoán là một chủ thể kinh doanh độc lập.
c/ Việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Việc cho khấu trừ đầu vào theo một tỷ lệ ấn định đối với trờng hợp không có
hoá đơn GTGT đối với các mặt hàng nông, lâm, hải sản là phù hợp với tinh thần
thực tế của Việt Nam, nhng chính đây cũng đang phát sinh những mâu thuẫn hoặc
lợi dụng sơ hở chiếm đoặt tiền, trốn tránh thuế. Ban đầu việc khấu trừ này chi cho
phép đối với một số cơ sở sản xuất chế biến nông, lâm, thuỷ sản của ngời sản xuất
trực tiếp bán ra.Tuy nhiên trong quá trình thực thi thuế GTGT, do có những bất
cập về chế độ thuế suất và hoá đơn, chứng từ nên diện khấu trừ khống đã phải
mở rộng ra. Cho đến nay việc khấu trừ theo tỷ lệ % này đã thực hiện cả đối với tr-
ờng hợp mua hàng có hoá đơn thông thờng thì sự việc không còn chỉ dừng lại ở
việc khấu trừ khống nữa . Một câu hỏi nghiêm túc đặt ra là : Thực chất của
việc khấu trừ này là khấu trừ khống hay khấu trừ khoán ?
Trớc hết phải hiểu rằng, khống tức là không có mà vẫn có khấu trừ, còn khoán là
việc cho khấu trừ theo tỷ lệ ấn định trên cơ sở đã có số thuế phát sinh ở khâu trớc,
song không rành mạch về mặt lợng. Nh vậy khoán đợc thực hiện dựa trên cái có thật,
còn khống là việc làm chủ quan xuất phát từ cái không tồn tại.Vì vậy, theo tôi không
nên thực hiện việc khấu trừ khống. Trong các quan hệ kinh tế, không nên chấp nhận
cái ảo, cái không có vì nh vậy sẽ tạo ra h số phản ánh không đúng bản chất của vấn
đề, làm sai lệch những nhận định, phân tích.
Đối với hàng nông, lâm, thuỷ sản cha qua chế biến do các cơ sở sản xuất,
chế biến, thơng mại mua vào. Mặc dù những hàng hoá này cha phải chịu thuế
GTGT ở những khâu trớc đó nhng việc cho khấu trừ theo tỷ lệ 3% hoặc 5% không
phải là khấu trừ khống. Vì trớc khi đem ra bán, sản phẩm hàng hoá từ hoạt động
sản xuất nông nghiệp đã chịu một loại thuế hỗn hợp dới hình thức thu gộp là thuế
21
sử dụng đất nông nghiệp. Vì thế xét về mặt bản chất cũng có thể coi là sản phẩm
nông nghiệp cũng đã chịu thuế GTGT. Do đó việc cho khấu trừ thuế GTGT đầu
vào đối với những sản phẩm này về thực chất là khấu trừ khoán. Tuy rằng đây là
vấn đề có tính lý luận song lại rất quan trọng vì nó quyết định đến tính hợp lý của
chính sách khấu trừ. Chế độ hiện hành quan niệm đây là khấu trừ khống nên chỉ
cho khấu trừ đối với hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản mua ngoài , nếu không phải là
sản phẩm của mua ngoài thì sẽ không cho khấu trừ. Trên thực tế sẽ không thể
tránh khỏi việc các doanh nghiệp lợi dụng vấn đề này để đợc quyền khâú trừ mà
thôi.
Theo chế độ hiện hành, việc cho khấu trừ thuế đầu vào theo một tỷ lệ nhất
định ( khấu trừ khoán ) không áp dụng đối với hàng hoá mua vào dùng làm
nguyên liệu để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu hay để mua xuất khẩu. Cha cần
đề cập đến tính hợp lý của quy định này cũng đã thấy nó bị vô hiệu hoá trên thực
tế. Bởi vì nếu với cùng một mục đích là để xuất khẩu hoặc chế biến để xuất khẩu
nhng nếu thơng vụ thực hiện trực tiếp sẽ không đợc khấu trừ, nếu thực hiện gián
tiếp thông qua cơ sở thứ hai thì đợc khấu trừ hợp pháp. Ai có thể dám chắc rằng
thơng vụ gián tiếp đó thực chất không phải là một màn kịch ?
d/ Về hoàn thuế GTGT
Vấn đề hoàn thuế GTGT còn chậm. Nguyên nhân một phần do doanh nghiệp
cha làm đúng thủ tục, hồ sơ, một phần do cơ quan thuế sợ trách nhiệm. Tính đến
hết 6 tháng đầu năm 1999, cả nớc mới hoàn thuế đợc 236 tỷ đồng trên tổng số 350
tỷ đồng xin hoàn thuế của 800 doanh nghiệp tại 49 địa phơng ( tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ơng ) và tính đến hết tháng 12 năm 1999, tổng số thuế các doanh
nghiệp yêu cầu đợc hoàn đã trên 2000 tỷ đồng nhng nghành thuế mới chỉ giải
quyết hoàn thuế gần 1800 tỷ đồng. Sở dĩ công tác hoàn thuế còn chậm so với thời
gian quy định xuất phát vì những lý do sau :
Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hiện nay, tại cục thuế Hà Nội, 1 hồ sơ
hoàn thuế phải có đủ 8 chữ ký thì mới đợc thực hiện.
Hiện nay trên thị trờng có nhiều loại hoá đơn bất hợp pháp đang lu hành
chính vì vậy việc tiến hành xét hồ sơ hoàn thuế mất rất nhiều thời gian để xác
minh tính trung thực của các tờ hoá đơn xin hoàn thuế.
Do bản thân các doanh nghiệp cha hiểu rõ về chính sách thuế, trình tự và thủ
tục hoàn thuế nên phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất thủ tục.
22
Do trình độ của một số cán bộ còn hạn chế nên hớng dẫn các đơn vị cha đầy
đủ, chính xác vì vậy phải mất nhiều thời gian mới hoàn tất hồ sơ. Ngoài ra các
cơ quan thuế còn dè dặt trong việc hoàn thuế vì sợ số liệu trong hồ sơ xin hoàn
thuế không chính xác.
Bên cạnh đó, việc xử lý hoàn thuế GTGT đợc thực hiện theo trình tự hoàn
thuế trớc kiểm tra sau. Theo nhận định của các chuyên gia thuế, việc quy định
nh vậy chính là cơ hội vàngcho những kẻ gian lợi dụng để chiếm đoạt tiền của
NSNN ( nếu bị phát hiện sẽ hoàn tiền lại sau hoặc nếu không bị phát hiện sẽ
chiếm đoạt luôn ). Đặc biệt do diện doanh nghiệp đợc hoàn thuế rộng ( không chỉ
doanh nghiệp xuất khẩu mà cả doanh nghiệp có thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra
trong 3 tháng liền ) thì trong nhiều trờng hợp chỉ có sự thông đồng nhỏ giữa cán
bộ thuế và doanh nghiệp là ngân sách nhà nớc có thể mất hàng tỷ đồng một cách
nhanh gọn. Ngoài ra, một số doanh nghiệp đã rút tiền hoàn thuế của ngân sách
nhà nớc bằng cách thông đồng với bạn hàng, cán bộ hải quan, cán bộ thuế, để
khai khống số lợng hàng xuất nhập khẩu hay tồn kho để có chênh lệch giả tạo giữa
thuế đầu vào với thuế đầu ra.
Tại Hà Nội, đã phát hiện hành vi gian lận qua kê khai của một số doanh
nghiệp, thu hồi về cho ngân sách 450 triệu đồng, Đồng Nai thu hồi 23 triệu đồng,
Bình Định thu hồi trên 150 triệu đồng
e/ Về thu ngân sách:
Tuy năm 1999 đạt và vợt so với dự toán nhng vẫn còn thất thu ngân sách ở
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khu vực có vốn đầu t nớc ngoài và khu vực công nghiệp,
dịch vụ ngoài quốc doanh.
Các doanh nghiệp lợi dụng các kẽ hở trong luật thuế GTGT để trốn tránh nghĩa vụ
nộp thuế hoặc tìm mọi cách để đợc hàn thuế GTGT. Các doanh nghiệp thực hiện một
số thu đoạn gian lận trong việc thực hiện thuế GTGT nh : khai khống hoá đơn đầu vào.
Ví dụ nh cục thuế thành phố Hồ Chí Minh phát hiện công ty TNHH Phớc Bình ( ph-
ờng 2 Quận 8 ) sử dụng 5 hoá đơn khống của công ty TNHH Việt Vạn Đại (phờng
13 Quận Tân Bình ) chiếm dụng 78 triệu đồng tiền thuế và trả hoa hồng cho công ty
Việt Vạn Đại 30% số thuế chiếm dụng. Các doanh nghiệp còn sử dụng thủ đoạn không
xuất hoá đơn khi bán hàng làm giảm giá thanh toán đầu ra để trốn thuế hoặc hoán
thuế. Chẳng hạn công ty xà phòng Hà Nội nhập một lợng hoá chất lớn rồi bí mật
chuyển giao cho bên liên doanh Lever Haso hàng chuyển đi song không xuất hoá đơn
mà báo cáo là hàng bị tồn kho. Do số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT
23
đầu ra nên công ty đã nhận đợc 1,8 tỷ đồng tiền hoàn thuế trong 6 tháng đầu năm
1999. Đây là thủ đoạn rất tinh vi và làm thất thoát ngân sách Nhà nớc.
24
Phần 3
Những giải pháp tháo gỡ vớng mắc còn tồn
tại và hoàn thiện luật thuế GTGT trong quá
trình phát triển KT-XH ở Việt Nam
1. Về vấn đề thuế suất thuế GTGT
Theo tôi giải pháp thỉnh thoảng tạm giảm 50% thuế suất ở một số nhóm
hàng cụ thể là rất thụ động và cha hợp lý.Nhiều ngành có hàng trăm nhóm
hàng,khi xét giảm sẽ không đảm bảo tính chính xác,tạo ra sự bất bình đẳng
giữa các doanh nghiệp.Trớc mắt cần tiếp tục nghiên cứu để sắp xếp,điều chỉnh
lại các loại hàng hoá,dịch vụ vào các mức thuế suất khác nhau cho hợp lý,đảm
bảo công bằng cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng góp
vào ngân sách Nhà nớc
Việc sắp xếp điều chỉnh phải dựa trên các yếu tố sau:
Thực tế sản xuất,kinh doanh của doanh nghiệp cũng nh khả năng đóng
góp của doanh nghiệp.
Sự khuyến khích hay hạn chế của nhà nớc đối với các loại hàng hoá
dịch vụ cụ thể.
Việc sắp xếp,điều chỉnh không đợc làm tăng số lợng thuế suất đã quy
định trong luật,không đợc làm ảnh hởng tới nguồn thu ngân sách Nhà nớc,phải
phù hợp với quá trình cải cách chính sách thuế và quá trình hội nhập.
Việc sắp xếp hàng hoá và dịch vụ vào mức thuế suất thấp phải có căn
cứ cụ thể,không loang rộng ra những hàng hoá và dịch vụ khác.
Về lâu dài,để thuế GTGT là một sắc thuế mang tính trung lập,đơn giản
hiệu quả thì chỉ nên có 2 mức thuế 5% và 10% (không kể thuế suất 0 %) và
bắt đầu áp dụng từ năm 2006.Sở dĩ nên áp dụng 2 mức thuế suất là do các
nguyên nhân khác nhau.
Việc chỉ áp dụng 2 mức thuế suất 5% và 10 %,loại bỏ mức 20% giúp
nhà nớc có thể điều tiết nền kinh tế vĩ mô thông quá thuế GTGT (do vẫn còn
25