Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP y học (HOÀN CHỈNH) thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc TTYT huyện sóc sơn, TP hà nội 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.16 KB, 76 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hồn thành khố luận này, em đã
nhận được nhiều sự giúp đỡ của thầy cơ và bạn bè. Với lịng biết ơn sâu sắc, em xin
chân thành gửi lời cảm ơn tới:
Ban Chủ nhiệm Khoa Y Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội, thầy cô giảng viên
Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em
trong quá trình học tập và nghiên cứu để em có thể hồn thành khố luận này.
Em xin bày tỏ sự kính trọng, lịng biết ơn chân thành tới TS. Vũ Ngọc Hà,
ThS. Nguyễn Thành Trung, ThS. Mạc Đăng Tuấn – những người thầy đã trực tiếp
hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện và
hồn thành khố luận này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên Trung tâm Y tế
huyện Sóc Sơn, các Phòng khám đa khoa khu vực và các Trạm y tế thuộc huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập và thu thập
số liệu cho nghiên cứu này.
Em xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành tới các thầy cơ giảng viên Khoa Y
Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã dạy dỗ, trang bị kiến thức cho em trong suốt 6
năm theo học tại trường.
Cuối cùng em xin bày tỏ lịng biết ơn tới những người thân trong gia đình,
những người bạn thân thiết của em, những người đã cùng chia sẻ khó khăn, dành
cho em những lời động viên, chia sẻ quý báu trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu.
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2020


LỜI CAM ĐOAN

Em là Lưu Thị Liên, sinh viên khoá QH.2014.Y, ngành Y đa khoa, Khoa Y
Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân em trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của


TS. Vũ Ngọc Hà, ThS. Nguyễn Thành Trung.
2. Cơng trình này khơng trùng lặp với bất kì nghiên cứu nào đã được công bố
tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thơng tin trong nghiên cứu là hồn tồn chính xác, trung thực
và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu.
Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm
2020
Tác giả


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BV

Bệnh viện

BSGĐ

Bác sĩ gia đình

DASS

Depression, Anxiety and Stress Scale (Thang
đánh giá trầm cảm, lo âu, stress)

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu


GTNN

Giá trị nhỏ nhất

GTLN

Giá trị lớn nhất

NVYT

Nhân viên y tế

n

Tồn bộ đối tượng tham gia nghiên cứu

PK

Phịng khám

RLTT

Rối loạn tâm thần

SKTT

Sức khoẻ tâm thần

TYT


Trạm y tế

UBND

Uỷ ban Nhân dân

WHO

World health Organization (Tổ chức Y tế thế
giới)


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Các chỉ số và biến số nghiên cứu............................................................17
Bảng 2.2. Mức độ stress, lo âu, trầm cảm theo thang điểm DASS 21.....................20
Bảng 3.1. Phân bố nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu.........................................22
Bảng 3.2. Phân bố tỉ lệ giới tính của đối tượng nghiên cứu.....................................22
Bảng 3.3. Đặc điểm về dân tộc, tôn giáo, nơi ở hiện tại của đối tượng nghiên cứu 23
Bảng 3.4. Đặc điểm về hôn nhân, số con của đối tượng nghiên cứu.......................24
Bảng 3.5. Đặc điểm về lĩnh vực chuyên môn của đối tượng nghiên cứu.................25
Bảng 3.6. Đặc điểm về trình độ của đối tượng nghiên cứu......................................25
Bảng 3.7. Đặc điểm về thời gian công tác trong ngành y, thời gian công tác tại
PK/TYT của đối tượng nghiên cứu..........................................................................26
Bảng 3.8. Đặc điểm về chức vụ của đối tượng nghiên cứu......................................27
Bảng 3.9. Đặc điểm về thu nhập của đối tượng nghiên cứu.....................................27
Bảng 3.10. Đặc điểm về thời gian làm việc một ngày của đối tượng nghiên cứu ...
28 Bảng 3.11. Mức độ stress của NVYT phân theo đặc điểm cá nhân....................32
Bảng 3.12. Mức độ lo âu của NVYT phân theo đặc điểm cá nhân..........................33
Bảng 3.13. Mức độ trầm cảm của NVYT phân theo đặc điểm cá nhân...................34

Bảng 3.14. Mức độ stress của NVYT theo đặc điểm công việc...............................35
Bảng 3.15. Mức độ lo âu của NVYT theo đặc điểm công việc................................36
Bảng 3.16. Mức độ trầm cảm của NVYT theo đặc điểm cơng việc.........................38
Bảng 3.17. Mơ hình hồi quy các yếu tố liên quan và tình trạng stress của NVYT
huyện Sóc Sơn.........................................................................................................39
Bảng 3.18. Mơ hình hồi quy các yếu tố liên quan và tình trạng lo âu của NVYT
huyện Sóc Sơn.........................................................................................................40
Bảng 3.19. Mơ hình hồi quy các yếu tố liên quan và tình trạng trầm cảm của NVYT
huyện Sóc Sơn.........................................................................................................41


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Hình thức lao động của đối tượng nghiên cứu.....................................27
Biểu đồ 3.2. Tỉ lệ mắc stress, trầm cảm và lo âu của NVYT huyện Sóc Sơn, thành
phố Hà Nội năm 2019..............................................................................................29
Biểu đồ 3.3. Tỉ lệ của các mức độ stress theo thang điểm DASS 21 của NVYT
huyện Sóc Sơn.........................................................................................................29
Biểu đồ 3.4. Tỉ lệ của các mức độ lo âu theo thang điểm DASS 21 của NVYT
huyện Sóc Sơn.........................................................................................................30
Biểu đồ 3.5. Tỉ lệ của các mức độ trầm cảm theo thang điểm DASS 21 của NVYT
huyện Sóc Sơn.........................................................................................................31
Biểu đồ 3.6. Tỉ lệ đối tượng nghiên cứu biểu hiện theo các nhóm stress, lo âu, trầm
cảm..................................................................................................................................31


MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN....................................................................................... 3

1.1.

Giới thiệu về stress, lo âu, trầm cảm........................................................... 3

1.1.1.

Khái niệm.................................................................................................... 3

1.1.1.1.

Khái niệm stress......................................................................................3

1.1.1.2.

Khái niệm lo âu.......................................................................................4

1.1.1.3.

Khái niệm trầm cảm................................................................................5

1.1.1.4.

Khái niệm Nhân viên y tế (NVYT)...........................................................5

1.1.1.5.

Stress nhân viên y tế................................................................................5

1.1.2.


Các yếu tố liên quan đến stress, lo âu và trầm cảm ở nhân viên y tế..........6

1.1.2.1.

Nguyên nhân gây ra stress, lo âu và trầm cảm........................................6

1.1.2.2.

Những yếu tố gây ra rối loạn tâm thần trong lao động...........................6

1.1.2.3.

Những điều kiện gây rối loạn tâm thần trong ngành y tế........................7

1.1.3.

Hậu quả của rối loạn tâm thần lên sức khoẻ............................................... 7

1.2. Giới thiệu về các thang đo lường stress, lo âu, trầm cảm và bộ công cụ DASS 21 của
Lovibond................................................................................................................... 8
1.3.

Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam .. 9

1.3.1.

Một số nghiên cứu trên thế giới.................................................................. 9

1.3.2.


Thực trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế tại Việt Nam......11

1.4.

Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu............................................................ 13

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................16
2.1.

Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 16

2.1.1.

Tiêu chuẩn lựa chọn.................................................................................. 16

2.1.2.

Tiêu chuẩn loại trừ.................................................................................... 16

2.2.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu............................................................. 16


2.3.

Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 16

2.3.1.


Thiết kế nghiên cứu................................................................................... 16

2.3.2.

Cỡ mẫu nghiên cứu................................................................................... 16

2.3.3.

Các chỉ số và biến số nghiên cứu.............................................................. 17

2.4.

Công cụ nghiên cứu.................................................................................. 19

2.5.

Phương pháp thu thập số liệu.................................................................... 20

2.6.

Phương pháp phân tích số liệu.................................................................. 20

2.7.

Các sai số và cách khắc phục.................................................................... 20

2.8.

Đạo đức trong nghiên cứu......................................................................... 21


2.9.

Hạn chế của nghiên cứu............................................................................ 21

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.................................................................22
3.1..............................................Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
22
3.1.1.

Đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu............................................ 22

3.1.2.

Đặc điểm công việc của nhân viên y tế huyện Sóc Sơn.............................25

3.2. Xác định tỉ lệ stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế tại huyện Sóc Sơn, thành
phố Hà Nội năm 2019.............................................................................................. 29
3.3. Xác định một số yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế
thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội......................................... 32
3.3.1. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở nhân viên y tế theo đặc điểm cá nhân
...................................................................................................................

32

3.3.2.

Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở nhân viên y tế theo đặc điểm cơng
việc ...............................................................................................................
35


3.4.

Phân tích đa biến giữa các yếu tố liên quan với stress, trầm cảm, lo âu ... 39

Chương 4: BÀN LUẬN......................................................................................... 43
4.1. Đặc điểm của nhân viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn năm 2019.................
43


4.2. Mơ tả thực trạng về tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế thuộc Trung
tâm y tế huyện Sóc Sơn năm 2019.......................................................................... 44
4.3. Một số yếu tố liên quan đến stress, lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế huyện Sóc Sơn
năm 2019................................................................................................................. 49
4.3.1. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân với tình trạng stress, lo âu, trầm cảm.................
49
4.3.2. Mối liên quan giữa các yếu tố về đặc điểm công việc với tình trạng stress, lo âu, trầm
cảm
52
KẾT LUẬN............................................................................................................ 54
KHUYẾN NGHỊ.................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại hội nghị Y tế Quốc tế, New York, năm 1948, Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) định nghĩa về sức khỏe: “Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về
thể chất, tinh thần và xã hội, chứ khơng phải là chỉ khơng có bệnh hay tật” [51]. Từ
định nghĩa về sức khỏe cho thấy rằng từ những thập kỉ 40 của thế kỉ 20 sức khỏe
tâm thần đã được Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá có vai trị rất quan trọng, ngang

hàng với sức khỏe thể chất và sức khỏe xã hội. Thực tế cho thấy sức khoẻ tâm
thần có mối liên quan mật thiết với tâm lý xã hội và sức khỏe thể chất, khơng có bất
kì biến cố bất lợi nào trong xã hội mà không ảnh hưởng đến tâm lý, và cũng khơng
có bất kì bệnh lý cơ thể nào lại không ảnh hưởng đến tâm lý.
Theo Liên hợp quốc, ước tính khoảng 25% dân số thế giới bị gánh nặng về
sức khoẻ tâm thần, là một trong ba lý do chính làm tăng gánh nặng kinh tế ở các
nước trên thế giới [5].
Vấn đề sức khoẻ tâm thần ở Việt Nam khơng nằm ngồi tình hình chung của
tồn cầu. Kết quả điều tra quốc gia năm 1999-2000 cho thấy tỉ lệ mắc 10 bệnh tâm
thần phổ biến là 15%, trong đó có trầm cảm và lo âu [17]. Gần đây một số nghiên
cứu ở quy mô nhỏ hơn cho thấy tỉ lệ rối loạn tâm thần khoảng 20-30% [17]. Nghiên
cứu của Trường Đại học Y tế công cộng về “Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở
Việt Nam 2008” cho kết quả nhóm bệnh chấn thương, tâm thần kinh và bệnh tim
mạch là nguyên nhân hàng đầu gây nên gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam [8].
Hậu quả của rối loạn tâm thần không chỉ gây ảnh hưởng đến sức khoẻ mỗi cá
nhân mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn xã hội. Nghiên cứu của Viện
Sức khoẻ tâm thần (2008) trên 9.201 người thuộc 10 nhóm ngành nghề lao động đặc
biệt chịu căng thẳng cho thấy 10,7% người lao động bị các rối loạn liên quan đến
sức khoẻ tâm thần [1]. Đối với ngành y tế, nhiều nghiên cứu cho thấy nhân viên y
tế có tỉ lệ lạm dụng thuốc và tự tử cao hơn các ngành nghề khác, có tỉ lệ cao stress,
lo âu, trầm cảm liên quan đến công việc căng thẳng. Các rối loạn tâm thần của
nhân viên y tế góp phần đưa đến các hậu quả như kiệt sức, vắng mặt, nhân viên có
ý định chuyển cơng tác, giảm sự hài lịng của người bệnh và mắc nhiều lỗi trong
q trình chẩn đốn, điều trị, chăm sóc [36].
Tại tuyến y tế huyện, nhiều nghiên cứu đã cho thấy tỉ lệ rối loạn tâm thần
(RLTT) ở nhân viên y tế (NVYT) đang ở mức cao. Nghiên cứu của Lê Thành Tài,
Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh (2008) “Tình hình stress nghề nghiệp của nhân
viên

9



điều dưỡng”, tiến hành trên đối tượng là 40 điều dưỡng viên đang công tác tại BV
đa khoa huyện Châu Thành - Hậu Giang cho kết quả tỉ lệ stress của điều dưỡng là
32,5%. Các yếu tố có thể gây stress nghề nghiệp cho điều dưỡng bao gồm thâm
niên công tác, làm việc nhiều giờ (>8h/ngày), công việc nhiều áp lực, không hứng
thú, làm việc trong điều kiện thiếu thốn máy móc, trang thiết bị, đơng người, ồn ào,
tiếp xúc nhiều mầm bệnh, dễ bị thương tích, thường gặp phản ứng của bệnh nhân và
người nhà, mâu thuẫn với đồng nghiệp, cấp trên, thu nhập chưa thoả đáng và công
việc ít có cơ hội thăng tiến [18].
Theo Sở y tế Hà Nội, huyện Sóc Sơn được coi là một trong những đơn vị đi
đầu trong việc phát triển mơ hình Bác sĩ gia đình (BSGĐ). Với sự giúp đỡ của các
bệnh viện (BV) tuyến trên, chất lượng khám và điều trị cho bệnh nhân được nâng
lên, số lượng bệnh nhân cũng tăng lên một cách rõ rệt, tổng số lượt khám bệnh năm
2015 là 300.178, năm 2016 là 345.000 lượt, năm 2017 là 528.595 lượt. Song song
với việc triển khai mơ hình BSGĐ, Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn vẫn làm tốt các
công tác tiêm chủng mở rộng cho trẻ, truyền thơng giáo dục sức khỏe về phịng,
chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân để nâng cao sức khỏe cho
nhân dân... [11]. Cùng với đó là đặc thù nghề nghiệp căng thẳng, đối mặt với các
nguy cơ lây nhiễm, đối mặt với người bệnh và người nhà có phản ứng khơng tốt…
thì các NVYT rất dễ lâm vào trạng thái rối loạn tâm thần. Vì vậy việc xác định,
đánh giá các tình trạng sức khỏe tâm thần hiện nay của NVYT Huyện Sóc Sơn để
trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp dự phịng cho tình trạng này là hết sức cần
thiết.
Từ những lý do trên, chúng em tiến hành nghiên cứu: “Thực trạng và các
yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc Trung tâm
y tế huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, năm 2019” với 2 mục tiêu:
1. Xác định tỉ lệ stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện
Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, năm 2019.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress, trầm cảm và lo âu của nhân

viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, năm 2019.


Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu về stress, lo âu, trầm cảm
1.1.1.

Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm stress
“Stress” là một thuật ngữ tiếng Anh bắt nguồn từ chữ La tinh “strictus” và
một phần của từ “stringere” mang ý nghĩa là sự căng thẳng, bất hạnh, nghịch cảnh,
đè nén. Thuật ngữ stress lúc đầu được dùng trong vật lý học để chỉ sức nén mà vật
liệu phải chịu. Sau đó đến thế kỉ thứ 17, stress được dùng trong y học và tâm lý học
với ý nghĩa một sức ép hay một xâm phạm nào đó tác động vào con người gây ra
một phản ứng căng thẳng [39].
Trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn có rất nhiều khái niệm khác nhau về
stress tuỳ theo từng cách nhìn vấn đề của mỗi tác giả mà họ đưa ra những quan
niệm khác nhau.
Năm 1914, W.B.Cannon lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ stress trong các
nghiên cứu về y sinh học. Tuy nhiên, người có cơng lớn trong việc đưa ra khái
niệm stress một cách khoa học đó là Hans Selye (nhà sinh lý học người Canada).
Theo ông, stress là phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những kích
thích từ mơi trường. Đó là những phản ứng của cơ thể nhằm khơi phục trạng thái
cân bằng nội môi, khắc phục được các tình huống bất lợi để đảm bảo duy trì và
thích nghi thoả đáng của cơ thể trước những điều kiện sống ln ln biến đổi. Nói
cách khác, bình thường stress góp phần giúp con người thích nghi với mơi trường
sống. Nếu sự đáp ứng của cá nhân đối với stress không đầy đủ, không phù hợp và
cơ thể không tạo nên một sự cân bằng mới, thì những chức năng của cơ thể ít nhiều

cũng bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lý về thể chất và tâm lý sẽ xuất hiện. Học
thuyết của H.Selye nhấn mạnh vai trò của cảm xúc đối với thể chất và đó là nguyên
nhân của một số bệnh tâm thể như loét dạ dày – tá tràng, hen phế quản… [15]
Từ phát hiện của H.Selye, rất nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về
stress. Nhà tâm lý học Richard Lazarus cho rằng: Stress là trạng thái hay cảm xúc
mà chủ thể trải nghiệm khi họ nhận ra rằng các yêu cầu, đòi hỏi từ bên ngồi và bên
trong có tính chất đe dọa, có hại, vượt qua nguồn lực cá nhân và xã hội mà họ có
thể huy động đựợc [2].


Nhà tâm lý học Mc Grath coi “stress như một sự mất thăng bằng giữa đòi hỏi
và khả năng đáp ứng. Khi đáp ứng khơng thỏa đáng sẽ có hậu quả không tốt” [9].
Trong cuốn sách “Stress từ bệnh học tâm thần đến cách tiếp cận trị liệu” của
Giáo sư Ferreri do Giáo sư Nguyễn Việt dịch thì stress được hiểu là mối liên quan
giữa con người với môi trường xung quanh. Stress vừa chỉ tác nhân cơng kích vừa
chỉ phản ứng của cơ thể trước tác nhân đó. Do đó, stress là mối tương tác giữa tác
nhân cơng kích và phản ứng của cơ thể [30].
Còn theo bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, stress tiếng anh có hai nghĩa: nghĩa thứ
nhất là một mối kích động đánh mạnh vào con người, nghĩa thứ hai chỉ phản ứng
sinh lý – tâm lý của con người ấy. Mối kích động có thể là tác nhân vật lý, hóa học,
một vi khuẩn hoặc một tác nhân tâm lý xã hội, nói chung là một tình huống căng
thẳng đột xuất địi hỏi con người huy động tiềm năng thích ứng và phản ứng lại.
Phản ứng gồm hai mặt: Phản ứng đặc thù riêng cho từng loại kích động và phản ứng
chung cho một loại nhưng kích động khác nhau [13].
Như vậy, có thể thấy stress từ các góc độ khác nhau sẽ được hiểu theo những
định nghĩa khác nhau. Có người nói đến stress như một nguyên nhân, có người nói
đến như hậu quả. Có người nhìn nhận thuần túy dưới góc độ sinh học, như là phản
ứng mang tính sinh lý của cơ thể, số khác, thường là của các nhà tâm lý, đề cập đến
cả yếu tố sinh học và tâm lý. Trong phạm vi nghiên cứu này, dưới góc độ tâm lý
học, định nghĩa về stress của Richard Lazarus được chúng em sử dụng để định

nghĩa tình trạng stress do phù hợp với điều kiện, định hướng và thang công cụ đo
lường sử dụng trong nghiên cứu.
1.1.1.2. Khái niệm lo âu
Lo là một phản ứng cảm xúc tự nhiên của con người trước những mối đe
dọa, khó khăn, thử thách mà nhận thức được của một người với tâm sinh lý bình
thường, đó là cảm giác sợ hãi, mơ hồ, khó chịu lan toả cùng các rối loạn cơ thể ở
một hay nhiều bộ phận nào đó. Lo âu thực chất là tín hiệu báo động, báo trước cho
cá thể biết rằng sẽ có sự đe doạ từ bên trong hoặc bên ngồi cơ thể (những khó
khăn, thử thách, đe doạ của tự nhiên hoặc xã hội), từ đó giúp con người tìm ra được
các giải pháp phù hợp để tồn tại và phát triển [21].
Tuy nhiên, khi lo âu mang tính chất dai dẳng, lan tỏa, tản mạn, khơng liên
quan, khơng khu trú vào một sự kiện hồn cảnh đặc biệt nào đó ở xung quanh hoặc
có liên quan với những sự kiện đã qua, khơng cịn tính chất thời sự nữa thì nó lại trở


thành bệnh lý. Khi đó lo âu gây trở ngại cho công việc, học tập, sinh hoạt, ảnh
hưởng xấu tới các mối quan hệ bình thường của cá nhân và được gọi là rối loạn lo
âu [25].
1.1.1.3. Khái niệm trầm cảm
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ
biến, đặc trưng bởi sự buồn rầu, mất sự thích thú hoặc khối cảm, cảm giác tội lỗi
hoặc giá trị bản thân thấp, rối loạn giấc ngủ, ăn uống và kém tập trung” [10].
Theo bảng phân loại tâm thần lần thứ 4 của hiệp hội tâm thần học Mỹ (DSM
– IV, 1984): “Trầm cảm là trạng thái rối loạn cảm xúc, biểu hiện bằng giảm khí sắc,
mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng sự mệt mỏi và giảm
hoạt động, phổ biến là tăng sự mệt mỏi sau một số cố gắng nhỏ, tồn tại trong một
khoảng thời gian kéo dài, ít nhất là hai tuần” [35].
Trầm cảm là một rối loạn khí sắc thường gặp trong các rối loạn tâm thần. Nó
là một tình trạng buồn chán, giảm hứng thú quá mức và kéo dài, từ đó ảnh hưởng
đến các hoạt động trong cuộc sống như công việc/học tập, gia đình và xã hội. Là rối

loạn tâm thần có thể điều trị được [6].
Với các khái niệm trên, trầm cảm được xem xét biểu hiện ở các mặt: cảm
xúc, nhận thức, cơ thể và hành vi.
1.1.1.4. Khái niệm Nhân viên y tế (NVYT)
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới năm 2006 thì NVYT là tất cả những
người tham gia vào hành động có mục đích chính là để tăng cường sức khỏe. Cụ thể
hơn, nhân viên y tế bao gồm bác sĩ, điều dưỡng viên, nữ hộ sinh, nha sĩ, dược sĩ, kĩ
thuật viên phịng thí nghiệm, cũng như quản lý và công nhân hỗ trợ - chẳng hạn như
quản lý bệnh viện, các quan chức tài chính, đầu bếp, bảo trì sửa chửa và nhân viên
vệ sinh [3, 16]. Từ đó có thể hiểu NVYT là tất cả những người hoạt động trong lĩnh
vực y tế, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe của nhân dân.
1.1.1.5. Stress nhân viên y tế
Từ khái niệm về stress và khái niệm NVYT nêu trên, trong phạm vi nghiên
cứu của mình, chúng em định nghĩa stress của NVYT như sau stress của NVYT là
trạng thái căng thẳng về tâm lý xuất hiện ở người NVYT trong quá trình hoạt động
lĩnh vực y tế cũng như trong đời sống thường ngày. Trong đó một phần là do sự tác
động của những điều kiện khó khăn, phức tạp từ hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức


khỏe của nhân dân hoặc từ trong chính bản thân của mỗi người gây ra, một phần là
do cách họ cảm nhận và giải thích những sự tác động đó, tùy thuộc vào khả năng xử
lý của bản thân có thể ảnh hưởng đến NVYT trên các mặt sinh lý, tâm lý và xã hội.
1.1.2.

Các yếu tố liên quan đến stress, lo âu và trầm cảm ở nhân viên y tế

1.1.2.1. Nguyên nhân gây ra stress, lo âu và trầm cảm
Giống như các rối loạn tâm thần khác, mặc dù nhiều nghiên cứu đã cung cấp
một số dữ liệu nhưng cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân

chính xác gây ra stress, lo âu, trầm cảm. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được
các yếu tố liên quan đến các rối loạn đó. Bao gồm các yếu tố sau [7, 31, 46]:
-

Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, cân nặng, tình trạng bệnh tật, tính cách,
suy nghĩ, trình độ học vấn, lối sống…
Gia đình: di truyền, số người trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, tình trạng về kinh tế, vật chất…

-

Môi trường xã hội: an ninh trật tự, tình hình chính trị, văn hố, kinh tế…
Nơi làm việc: các mối quan hệ trong cơng việc, văn hố tổ chức, môi trường
làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị, khối lượng công việc, các nguy cơ gặp
phải trong cơng việc, vị trí, chức danh…

-

Mơi trường tự nhiên: thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, nhiệt độ, giao thông, bụi, sự
ô nhiễm…

1.1.2.2. Những yếu tố gây ra rối loạn tâm thần trong lao động
Các rối loạn tâm thần trong lao động là kết quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau
giữa người lao động và điều kiện lao động. Trong một nghiên cứu của Viện Y học
lao động và An toàn của Mỹ đã nhận thấy nếu cá nhân đóng vai trị quan trọng trong
ngun nhân gây ra RLTT thì điều kiện lao động cũng là một yếu tố không thể
thiếu. Một số điều kiện gây ra RLTT trong lao động như [4, 37]:
-

Nhiệm vụ: làm việc nặng nhọc, không được giải lao thường xuyên, thời gian

làm việc kéo dài và làm việc ca kíp, cơng việc địi hỏi trách nhiệm cao nhưng
quyền lợi thấp, không sử dụng đúng kĩ năng…

-

Quản lý: thiếu sự tham gia của người lao động trong giải quyết cộng việc,
giáo dục truyền thông nghèo nàn, thiếu chính sách gia đình-tình bạn…
Quan hệ cá nhân với cá nhân: môi trường xã hội nghèo nàn và thiếu sự giúp
đỡ lẫn nhau hoặc sự giúp đỡ của đồng nghiệp và lãnh đạo.

-


-

Vai trị cơng việc: có mâu thuẫn hoặc khơng hiểu rõ tính chất của cơng việc,
trách nhiệm q lớn, chịu áp lực chỉ đạo của nhiều người.
Công việc: công việc thiếu an tồn, khơng có cơ hội tiến thủ, thay đổi quy
trình làm việc mà người lao động khơng được chuẩn bị từ trước.
Môi trường lao động: điều kiện vi khí hậu nơi làm việc xấu, nguy hại đến sức
khoẻ như q đơng người, ồn, ơ nhiễm khơng khí.

1.1.2.3. Những điều kiện gây rối loạn tâm thần trong ngành y tế
Trong những thập kỉ vừa qua, các cơng đồn ngành nghề, các tổ chức khoa
học, bao gồm các Văn phòng Lao động quốc tế có mối quan tâm ngày càng tăng về
tác động của RLTT đối với NVYT [39, 52]. Nhiều nghiên cứu cho thấy NVYT có tỉ
lệ lạm dụng thuốc và tự tử cao hơn so với ngành nghề khác, NVYT có tỉ lệ stress,
trầm cảm và lo âu cao liên quan đến công việc căng thẳng. Các RLTT của NVYT
góp phần đưa đến các hậu quả như kiệt sức, vắng mặt, nhân viên có ý định chuyển
cơng tác, giảm sự hài lòng của người bệnh và mắc nhiều lỗi trong q trình chẩn

đốn, điều trị, chăm sóc [36].
Một số điều kiện phổ biến liên quan đến đặc thù ngành góp phần gây ra
RLTT cho NVYT như [36]:
-

Mức biên chế đầy đủ.
Khối lượng công việc quá nhiều.
Thời gian làm việc kéo dài.
Mức độ ổn định của công việc.
Mức độ rõ ràng của công việc.
Mối quan hệ với người bệnh: thái độ của người bệnh và người nhà người
bệnh, sự mong đợi của người bệnh…

-

Tiếp xúc với các chất lây nhiễm và độc hại.
Sự căng thẳng khác nhau giữa các ngành nghề chăm sóc sức khoẻ, thậm chí
trong cùng một ngành nghề lại tuỳ thuộc vào nhiệm vụ.

1.1.3.

Hậu quả của rối loạn tâm thần lên sức khoẻ

Tổng hợp từ nhiều nghiên cứu cho thấy, các RLTT nói chung và tình trạng
stress, lo âu, trầm cảm nói riêng khơng những tác động xấu cho cá nhân mà còn ảnh
hưởng bất lợi cho người xung quanh và xã hội. RLTT được xem là một trong những
nguyên nhân phổ biến nhất của nhiều căn bệnh như [5]:


-


Bệnh tâm thần kinh: mất ngủ, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, buồn phiền, cáu
gắt, rối loạn trí nhớ,…
Bệnh tim mạch: tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, loạn
nhịp tim, hồi hộp đánh trống ngực,…
Các bệnh về da: da dễ bị mẩn ngứa, phát ban, chàm…hay các bệnh về da có
tính kinh niên, mãn tính rất khó chữa trị.
Bệnh tiêu hố: viêm lt dạ dày-tá tràng, xuất huyết tiêu hố, thủng dạ dày,
tiêu chảy, khơ miệng, chán ăn, ăn không tiêu, rối loạn chức năng đại tràng…

-

Bệnh tình dục: giảm ham muốn, di tinh, mộng tinh, xuất tinh sớm…
Bệnh cơ xương khớp: co cứng cơ, đau lưng, đau khớp, cảm giác kiến bị ở
ngón tay, máy mắt, chuột rút, run rẩy…

-

Toàn thân: suy sụp, mệt mỏi, dễ mắc các bệnh dị ứng hay truyền nhiễm.

Tình trạng stress, lo âu, trầm cảm còn gây nên các thay đổi về hành vi, phổ
biến là việc lạm dụng rượu bia, thuốc lá, chất gây nghiện. Điều này càng làm suy
giảm đáng kể tình trạng thể chất, đồng thời làm tinh thần thêm bấn loạn dẫn đến các
mối quan hệ cá nhân căng thẳng, cả trong gia đình lẫn nơi làm việc. Nếu khơng
được điều trị kịp thời thì người bệnh sẽ mất dần sự tự tin, mất khả năng đưa ra quyết
định chính xác và xuất hiện các hành vi bất thường. Từ đó dẫn đến việc bị đồng
nghiệp, bạn bè và người thân xa lánh, hoặc gây ra các tổn thất về tài chính, vật chất,
thậm chí xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng của bản thân và người xung quanh [19].
1.2.Giới thiệu về các thang đo lường stress, lo âu, trầm cảm và bộ công cụ DASS
21 của Lovibond

Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều bộ công cụ được sử dụng để nghiên cứu,
đánh giá các vấn đề sức khoẻ tâm thần (SKTT). Có thể kể đến một số bộ công cụ
được sử dụng nhiều trong nghiên cứu khoa học như bộ câu hỏi đánh giá cảm nhận
về stress (PSS 10), thang đánh giá về stress (GHO 12), thang tự đánh giá lo âu của
Zung (SAS), thang đánh giá lo âu của Beck (BAI), thang đo đánh giá trầm cảm của
Beck (BDI), thang đánh giá trầm cảm và lo âu (AKUADS), thang đánh giá stress,
lo âu, trầm cảm của Lovibond (DASS 21 và DASS 42)… [26].
Năm 1995, Lovibond S.H và Lovibond P.F tại khoa tâm lý học Đại học New
South Wales, Australia đã xây dựng nên thang đo đánh giá stress, lo âu và trầm cảm
kí hiệu là DASS 42. Bên cạnh thang đo DASS 42 cịn có một phiên bản rút gọn là
DASS 21 được xây dựng năm 1997. DASS 42 thích hợp trong lâm sàng, còn DASS


21 lại thích hợp cho nghiên cứu. Các nghiên cứu cần thiết đã được tiến hành và
khẳng định sự nhất quán giữa DASS 42 và DASS 21 [38, 45].
Thang đo DASS 42 và DASS 21 kết hợp được cả hai yếu tố lâm sàng và xã
hội, là những yếu tố cần thiết cho một nghiên cứu. Các nội dung được đề cập trong
DASS khơng hẳn có ý nghĩa chẩn đốn như các triệu chứng được đưa ra trong
hướng dẫn phân loại quốc tế bệnh tật lần thứ 10 (ICD 10), mà mục đích của nó là
đưa ra một thực trạng trong quần thể nghiên cứu giúp cho nhà quản lý nhân lực có
những chính sách để cải thiện, nâng cao hiệu suất nguồn nhân lực. Đồng thời
khuyến cáo những đối tượng nghiên cứu nếu gặp phải những vấn đề được liệt kê
trong DASS một cách thường xuyên và ở mức độ nặng thì nên tìm sự giúp đỡ từ các
chuyên gia tâm lý [47].
Thang đo DASS 21 đã được Viện Sức khoẻ tâm thần Quốc gia biên dịch, thử
nghiệm trên một số đối tượng nghề nghiệp khác nhau. Thang đo DASS 21 đã được
nhiều nghiên cứu đánh giá về tính giá trị, độ tin cậy và khẳng định có thể áp dụng
tại Việt Nam, khơng có sự khác biệt về mặt văn hoá [50].
Từ những lý do trên, chúng em đã chọn thang đo DASS 21 để sử dụng cho
nghiên cứu của mình.

1.3.Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam
1.3.1.

Một số nghiên cứu trên thế giới

Hiện nay, các vấn đề sức khoẻ tâm thần đang ngày được quan tâm nhiều hơn.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm theo nhiều hướng và
trên nhiều đối tượng khác nhau như: công nhân, học sinh – sinh viên, nhân viên lái
xe buýt, cựu chiến binh, đặc biệt là đối tượng là các NVYT – người trực tiếp hay
gián tiếp chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân… [33, 41, 43, 49].
Nghiên cứu của Refai Yassen Al-Hussein và Ahmed Moshirf Al-Mteiwty
(2007) sử dụng thang đo DASS 21 để đánh giá tỉ lệ NVYT bị trầm cảm, lo âu, stress
tại 07 bệnh viện (BV) tại thành phố Mosul – Iran. Mẫu của nghiên cứu gồm hai
nhóm: 250 điều dưỡng và 250 NVYT khác gồm nhân viên X-quang, nhân viên
phòng xét nghiệm, dược sĩ, cán bộ vật lý trị liệu. Kết quả thu được có đến 16%
điều dưỡng bị trầm cảm trong khi tỉ lệ này ở nhóm nhân viên cịn lại là 7,6%; có
20,8% điều dưỡng có rối loạn lo âu, nhóm cịn lại là 7,6%, có 10% điều dưỡng bị
stress trong khi nhóm cịn lại là 6%. Nghiên cứu khẳng định rằng điều dưỡng có
nguy cơ mắc các RLTT hơn các NVYT khác. Tuy nhiên nghiên cứu chưa phân tích
được nguyên nhân cụ thể


dẫn đến kết luận cũng như các yếu tố liên quan đến vấn đề SKTT của các nhóm đối
tượng [40].
Nghiên cứu của Khalid S.Al-Gelban (2009) sử dụng thang đo DASS 42 để
đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm trên đối tượng là 304 bác sĩ ở vùng Aseer
Saudin Arabia. Kết quả cho thấy tỉ lệ cán bộ mắc các vấn đề SKTT khá thấp với
trầm cảm 7,6%, lo âu 8,6% và stress 7,2%. Nghiên cứu tìm hiểu mối liên quan giữa
trạng thái stress, lo âu, trầm cảm với: tuổi, giới tính, quốc tịch, tình trạng hơn nhân,
bằng cấp và số năm kinh nghiệm, nghiên cứu tìm thấy hai yếu tố liên quan có ý

nghĩa thống kê với cả trạng thái stress và lo âu là giới tính và trình độ chun mơn,
trong đó thì nữ giới bị stress, lo âu nhiều hơn nam giới [48].
Nghiên cứu của Asad Zandi và cộng sự (2011) đánh giá tỉ lệ stress, lo âu,
trầm cảm của 272 điều dưỡng làm việc tại 29 khoa phòng thuộc một BV quân đội.
Nghiên cứu dùng thang đo DASS 21, kết quả nghiên cứu cho thấy điều dưỡng bị
trầm cảm là 24,9%, lo âu 27,9% và stress 23,8%. Nữ giới có tỉ lệ stress, lo âu và
trầm cảm cao hơn nam giới. Có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa trầm cảm, lo
âu, stress với tuổi, trình độ học vấn, số giờ làm thêm và nơi làm việc. Nghiên cứu
chỉ tập trung tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố nhân khẩu học, công việc…
chưa mở rộng đến các yếu tố cá nhân như mối quan hệ với gia đình, bạn bè, xã hội
[44].
Nghiên cứu của 03 tác giả Mostafa A F.Abbas, Lamiaa Z.Abu Zaid, Mona
Hussaein (2013) đã khảo sát tình trạng lo âu, trầm cảm của điều dưỡng tại các BV
tại King Fahad Medical City, Vương quốc Saudi Arabia. Nghiên cứu sử dụng bộ
công cụ đánh giá rối loạn lo âu và trầm cảm HADS (Hospital Anxiety and
Depression Scale) với cỡ mẫu nghiên cứu 715 điều dưỡng viên. Kết quả cho thấy
25% điều dưỡng có triệu chứng trầm cảm, trong đó có 10% có thể mắc bệnh trầm
cảm; 27% có triệu chứng lo âu, trong đó có 20% trường hợp có thể mắc rối loạn lo
âu. Nghiên cứu nhận thấy một số yếu tố như ly hơn/gố, ít rèn luyện thể dục, hút
thuốc lá là yếu tố nguy cơ cho các triệu chứng lo âu, trầm cảm của NVYT. Tuy
nhiên, khác với các nghiên cứu trước, tác giả khơng tìm thấy mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa yếu tố cơng việc như trực đêm, tăng ca với tình trạng lo âu,
trầm cảm của NVYT… [34]
Nghiên cứu của Creedy D.K (2017) sử dụng thang đo là DASS 21 đã khảo
sát tình trạng stress, lo âu, trầm cảm trên 1037 điều dưỡng/nữ hộ sinh tại Australia,
cho kết quả tỉ lệ stress là 22,1%, 17,3% trầm cảm và 20,4% lo âu. Nghiên cứu cũng
đưa ra ý kiến rằng các RLTT của NVYT có liên quan nhiều đến các đặc điểm công
việc, tuy nhiên nghiên cứu chưa đi vào phân tích kĩ các yếu tố này [42].
10



1.3.2.

Thực trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế tại Việt Nam

Tại Việt Nam, vấn đề SKTT dần được quan tâm nhiều hơn, tuy nhiên các
nghiên cứu về stress, lo âu và trầm cảm của NVYT vẫn còn hạn chế, chủ yếu là các
nghiên cứu về stress nghề nghiệp. Có thể liệt kê một số cơng trình nghiên cứu sau
đây:
Nghiên cứu của Lê Thành Tài và cộng sự (2008) đánh giá tình trạng stress
nghề nghiệp của điều dưỡng đang làm việc tại BV đa khoa Trung ương Cần Thơ,
BV đa khoa thành phố Cần Thơ và BV đa khoa Châu Thành – Hậu Giang. Nghiên
cứu sử dụng bộ công cụ đánh giá stress nghề nghiệp của David Fontana (The
Professional Life Stress Test). Kết quả nghiên cứu cho thấy BV đa khoa Trung ương
Cần Thơ có tỉ lệ stress cao nhất (53,1%), sau đó là BV đa khoa thành phố Cần Thơ
(33,9%) và thấp nhất là BV đa khoa Châu Thành – Hậu Giang (32,5%). Các yếu tố
có thể gây stress nghề nghiệp cho điều dưỡng bao gồm thâm niên công tác, làm việc
quá nhiều thời gian (>8h/ngày), công việc nhiều áp lực, không hứng thú, làm việc
trong điều kiện thiếu máy móc, trang thiết bị, đơng người, ồn ào, tiếp xúc nhiều
mầm bệnh, dễ bị thương tích, thường gặp phản ứng của người bệnh và người nhà,
mâu thuẫn đồng nghiệp, cấp trên, thu nhập chưa thoả đáng và cơng việc ít thăng tiến
[18].
Tại Đồng Nai, nghiên cứu của Đỗ Nguyễn Nhựt Trần và cộng sự (2008)
đánh giá tình trạng stress và các yếu tố liên quan trên toàn bộ NVYT huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai cho thấy: tỉ lệ NVYT bị stress là 79%, tỉ lệ NVYT bị stress
thường xuyên là 27%. Có mối liên quan giữa stress và các yếu tố khác bao gồm:
trình độ học vấn, tính chất cơng việc, mức độ hài lịng, hoạt động thể lực, thời
gian nghỉ ngơi không hợp lý, áp lực hạn cuối phải hồn thành cơng việc, ít nhận
được sự quan tâm từ cấp trên, bị quấy rối và phân biệt đối xử, thiếu trang thiết bị.
Nghiên cứu cũng đã mở rộng đến các yếu tố cá nhân như: mối quan hệ với gia đình,

bạn bè, hàng xóm hay tham gia các hoạt động thể lực, tuy nhiên chưa tìm thấy mối
quan hệ giữa trạng thái stress với các yếu tố này [24].
Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thuý (2011) đánh giá stress trên 120 NVYT
khối lâm sàng tại BV Ung bướu Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng thang đo DASS 21
kết hợp đánh giá 03 trạng thái stress, lo âu, trầm cảm. Kết quả thu được có 36,9%
NVYT có biểu hiện stress, 41,5% biểu hiện lo âu và 15,3% có biểu hiện trầm cảm.
Trong đó mức độ stress, lo âu, trầm cảm nặng lần lượt là 0,9%, 4,5% và 1,8%. Kết
quả phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy một số yếu tố liên quan có ý nghĩa
thống kê làm tăng trạng thái stress là: số buổi trực ≥4 buổi, cảm nhận cơng việc ít
hứng thú, thường
19


xuyên tiếp xúc với hoá chất độc hại, cảm nhận thấy mối quan hệ với người bệnh
không tốt. Nghiên cứu chưa đánh giá hết các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tình trạng
stress như đời sống cá nhân, gia đình, các mối quan hệ ngồi cơng việc… Đồng thời
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở phân tích các yếu tố liên quan tới tình trạng stress mà
chưa phân tích được các yếu tố liên quan tới tình trạng lo âu và trầm cảm [23].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Trung Tần (2012), “Stress của NVYT tại
Bệnh viện tâm thần Tiền Giang”. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 136 NVYT tại
bệnh viện tâm thần Tiền Giang cho thấy có tới 75,7% các NVYT thỉnh thoảng
stress, trong đó 14,7% các NVYT rơi vào tình trạng stress thường xuyên [20].
Nghiên cứu của Đậu Thị Tuyết (2013) sử dụng thang đo DASS 21 đánh giá
tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của NVYT khối lâm sàng tại 02 địa điểm: một BV
công là BV đa khoa thành phố Vinh và một BV tư nhân là BV đa khoa khu vực 115
Nghệ An. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ NVYT khối lâm sàng biểu hiện stress,
lo âu, trầm cảm là tương đối cao (trung bình lần lượt là 20,4%, 29%, 13,6%). BV
đa khoa thành phố Vinh có tỉ lệ stress và trầm cảm thấp hơn nhưng lại có tỉ lệ lo âu
cao hơn BV đa khoa khu vực 115 Nghệ An, sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê.
Kết quả phân tích hồi quy logistic xác định được 11 yếu tố liên quan tới stress, lo

âu và trầm cảm, đồng thời khơng có yếu tố nào chung giữa 2 BV. Một số yếu tố liên
quan chính như tại BV đa khoa thành phố Vinh, stress liên quan với mức độ hứng
thú trong cơng việc, trầm cảm liên quan đến tình trạng cơ sở vật chất, máy móc và
trang thiết bị; BV đa khoa 115 Nghệ An, stress liên quan đến nguy cơ lây nhiễm
bệnh tật, lo âu liên quan với sự rõ ràng trong phân công công việc. Nghiên cứu đã
tìm hiểu thêm một số yếu tố tác động như: cá nhân, gia đình, mơi trường xã hội
nhưng nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc mô tả chung chứ chưa phân tích sâu hơn [31].
Nghiên cứu của Ngơ Thị Kiều My và cộng sự (2014) tiến hành trên 370 điều
dưỡng và hộ sinh khối lâm sàng BV Phụ Sản – Nhi Đà Nẵng, sử dụng bộ công cụ
chuẩn DASS 21 của Lovibond để đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm. Kết
quả cho thấy tỉ lệ điều dưỡng, hộ sinh khối lâm sàng bị stress, lo âu, trầm cảm lần
lượt là 18,1%, 33,2%, 18,4%. Kết quả phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy
một số yếu tố liên quan với stress là công việc hiện tại chưa ổn định, diện tích nơi
làm việc chật chội, quan hệ với cấp trên chưa tốt; các yếu tố liên quan với lo âu
gồm không luyện tập thể dục, gặp biến cố cá nhân, tình trạng sức khoẻ khơng tốt,
chưa cơng bằng trong đánh giá công việc; các yếu tố liên quan với trầm cảm bao
gồm tình trạng sức khoẻ


khơng tốt, chưa tự chủ trong cơng việc, ít tham gia hoạt động văn thể mỹ tại bệnh
viện, quan hệ với cấp trên không tốt [14].
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Mạnh Tuân và cộng sự (2018) sử dụng thang
đo DASS 21, được tiến hành tại BV Trưng Vương nhằm đánh giá tình trạng stress,
trầm cảm, lo âu của tồn bộ 650 NVYT tại BV. Kết quả cho thấy tỉ lệ stress là
10,5%, trong đó, có 6,9% ở mức độ vừa, 3,4% mức độ nặng và 0,2% mức độ stress
rất nặng. Có 20,8% mẫu nghiên cứu có biểu hiện trầm cảm, mức độ vừa chiếm tỉ
lệ 15,4%, 1,9% trầm cảm ở mức độ rất nặng. Tỉ lệ lo âu ở NVYT ghi nhận trong
nghiên cứu là 31,5%, chủ yếu là lo âu mức độ vừa với 21,8%, có khoảng 4,6% mẫu
nghiên cứu có tình trạng lo âu ở mức độ rất nặng. Kết quả phân tích hồi quy đa biến
xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến stress ghi nhận là việc kiêm nhiệm quản

lý, áp lực công việc và cơng việc đơn điệu. Đối với tình trạng trầm cảm, áp lực
công việc cao và việc cảm thấy không hài lòng về nơi làm việc là 2 yếu tố tác động
chính làm tăng tỉ lệ trầm cảm sau khi phân tích đa biến. Khơng hài lịng với mơi
trường làm việc, nơi làm việc và áp lực công việc cao là những nguyên nhân chủ
yếu làm gia tăng tỉ lệ lo âu ở NVYT. Đồng thời nghiên cứu cũng đi vào phân tích
mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân với tình trạng stress, lo âu, trầm cảm, tuy
nhiên kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng khơng tìm thấy mối liên quan giữa stress, lo
âu, trầm cảm với tuổi, giới, trình độ chun mơn, tổng thu nhập bình qn hàng
tháng [29].
Qua tìm hiểu các nghiên cứu trong nước và ngoài nước, chúng em nhận thấy
SKTT của NVYT cần được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, có thể thấy số lượng
các nghiên cứu về stress, lo âu và trầm cảm của NVYT cịn hạn chế. Với mong
muốn góp phần vào nghiên cứu sức khoẻ tâm thần và một số yếu tố liên quan trên
đối tượng NVYT, chúng em thực hiện nghiên cứu này để cung cấp thêm thơng tin,
góp phần mô tả bức tranh về sức khoẻ tâm thần cán bộ ngành y tế để từ đó có thể
đưa ra các giải pháp để tăng cường sức khoẻ tâm thần cho NVYT.
1.4. Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu
Sóc Sơn là một trong 5 huyện ngoại thành Hà Nội, huyện nằm ở phía bắc của
thành phố Hà Nội, cách trung tâm thủ đơ khoảng 35km. Huyện Sóc Sơn bao gồm 26
đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Sóc Sơn và 25 xã: Bắc Phú,
Bắc Sơn, Đơng Xn, Đức Hồ, Hiền Ninh, Hồng Kỳ, Kim Lũ, Mai Đình, Minh
Phú, Nam Sơn, Phú Cường, Phù Linh, Phù Lỗ, Phú Minh, Quang Tiến, Tân Dân,
Tân Hưng, Tân Minh, Thanh Xuân, Tiên Dược, Trung Giã, Việt Long, Xuân Giang,
Xuân Thu [27].


Bằng sự phát huy nội lực của mình, vận dụng xu thế tất yếu khách quan của
sự phát triển, Sóc Sơn đã dần phát huy vai trò là ngoại thành của trung tâm phát
triển kinh tế thứ hai của đất nước. Với cơ sở hạ tầng ngày một hoàn thiện, cùng sự
xuất hiện của các trung tâm công nghiệp (Trung tâm công nghiệp Nội Bài), các cụm

công nghiệp, các làng nghề được đầu tư phát triển, đã biến Sóc Sơn từ một huyện
thuần nông, với nông nghiệp là chủ yếu thì giờ đây, cơ cấu kinh tế Sóc Sơn đã được
chuyển dịch theo hướng tiến bộ: Công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp. Bên cạnh
những thành tựu về kinh tế, các lĩnh vực văn hóa xã hội cũng có những bước phát
triển mạnh mẽ. Các chỉ tiêu về y tế cũng đạt nhiều thành quả đáng phấn khởi [27].
Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn được thành lập năm 1988 theo quyết định số
3025 ngày 30/06/1988 của UBND Thành phố Hà Nội và Quyết định số 494 ngày
22/07/1988 của UBND huyện Sóc Sơn. Tháng 10 năm 2008, sát nhập 26 Trạm Y tế
xã, thị trấn, nâng tổng số cơ sở y tế trực thuộc lên 30 đơn vị. Thực hiện sự chỉ đạo
của Sở Y tế Hà Nội, ngày 10/05/2016, Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn đã tổ chức
hội thảo đề án xây dựng mơ hình bác sĩ gia đình tại Hà Nội. Đến nay, Trung tâm đã
có 5 khoa chun mơn, 3 phịng chức năng, 4 phịng khám khu vực và 26 trạm y tế
xã, thị trấn đạt chuẩn, với đội ngũ 417 cán bộ chuyên môn. Trong đó có 2 bác sĩ
chuyên khoa II, 14 bác sĩ chuyên khoa I, 11 thạc sĩ, 4 dược sĩ đại học, 55 bác sĩ, 41
dược sĩ trung học và nhiều nhân lực khác có trình độ chun mơn cao [28].
Cùng với nguồn nhân lực, Trung tâm còn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đảm
bảo có đủ các phịng chun mơn theo quy định, đặc biệt là đầu tư trang thiết bị kĩ
thuật hiện đại như: Máy siêu âm màu, máy nội soi (tai mũi họng, tiêu hoá, cổ tử
cung), máy X-quang kĩ thuật số, điện tim, máy đo tật khúc xạ, ghế răng, máy xét
nghiệm, kính sinh hiển vi, máy khí dung… nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của người bệnh và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân [28].
Ngoài ra, để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, Trung tâm y tế huyện Sóc
Sơn đã liên kết với các bệnh viện lớn tuyến 1, tuyến 2 trên địa bàn thành phố Hà
Nội như: BV Châm cứu Trung ương, BV Tim Hà Nội, BV Lão khoa Trung Ương,
BV Ung bướu Hà Nội, BV Mắt Hà Nội, BV Bắc Thăng Long… [11].
Bằng các giải pháp thiết thực và hiệu quả với phương châm “Người bệnh là
trung tâm phục vụ”, Trung tâm Y tế Sóc Sơn tiếp tục khẳng định vai trị nổi bật của
mình trong hoạt động chuyên môn, thực sự trở thành nơi bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ cho nhân nhân, góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng ngày càng cao cho



huyện Sóc Sơn trong sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố và xây dựng nơng
thơn mới, đưa Sóc Sơn sớm trở thành huyện phát triển năng động của Thủ đô [28].


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) là những cán bộ, nhân viên y tế đang công
tác tại các Trạm Y tế (TYT), Phòng khám (PK) Đa khoa khu vực, Phòng khám Đa
khoa huyện… trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
2.1.1.

Tiêu chuẩn lựa chọn

-

Là nhân viên y tế (bao gồm: bác sĩ, dược sĩ, y tá, điều dưỡng viên, kĩ thuật
viên…) hiện đang công tác tại các Trạm Y tế, Phòng khám Đa khoa khu vực,
Phòng khám Đa khoa huyện…thuộc huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

-

Cán bộ phải công tác tại đơn vị từ 6 tháng trở lên tính đến ngày làm nghiên
cứu điều tra tại đơn vị đó.

2.1.2.

Tiêu chuẩn loại trừ


-

Đối tượng khơng đủ các tiêu chuẩn trên.
Đối tượng vắng mặt tại thời điểm điều tra (nghỉ thai sản, nghỉ phép, nghỉ do
ốm đau bệnh tật…)

-

Đối tượng từ chối tham gia nghiên cứu.

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
-

Địa điểm nghiên cứu: Các Trạm Y tế, Phòng khám đa khoa khu vực, Phòng
khám đa khoa huyện trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
Thời gian nghiên cứu: Tháng 06 năm 2019.

2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1.

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

2.3.2.

Cỡ mẫu nghiên cứu

Liên hệ và phát phiếu tự điền cho tồn bộ 355 NVYT thuộc Trung tâm y tế
huyện Sóc Sơn đáp ứng tiêu chí chọn đối tượng. Đã có 355 NVYT đồng ý và điền
thông tin vào phiếu điều tra (100%).



2.3.3.

Các chỉ số và biến số nghiên cứu
Bảng 2.1. Các chỉ số và biến số nghiên cứu

Mục tiêu

Đặc trưng cá
nhân và đặc
điểm công
việc

Biến số

Định nghĩa

Phân loại
biến

Tuổi

Tuổi dương lịch, lấy 2019 trừ
đi năm sinh của ĐTNC

Định lượng

Giới tính


Là giới nam hay nữ

Định tính

Dân tộc

Dân tộc của ĐTNC

Định tính

Tơn giáo

Tơn giáo của ĐTNC

Định tính

Nơi ở hiện tại

Nơi ở hiện tại của ĐTNC

Định tính

Tình trạng hơn
nhân

Là chưa kết hơn/kết hơn/ly
thân, ly dị hay gố bụa

Định tính


Số con

Số con mà ĐTNC hiện có

Định lượng

Lĩnh vực
chun mơn

Chun ngành được đào tạo

Định tính

Trình độ học
vị

Trình độ học vấn cao nhất mà
ĐTNC hoàn thành (trung cấp,
cao đẳng, đại học, CK1, CK2,
thạc sĩ)

Định tính

Thời gian cơng
tác trong
ngành y

Số năm công tác của ĐTNC
trong ngành y


Định lượng

Thời gian công
tác tại
PK/TYT

Số năm công tác của ĐTNC
trong TYT và PK

Định lượng


×