Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tu lieu ve muoi co gai Nga Ba Dong Loc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.71 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Ngã ba Đồng Lộc



Trở lại "túi bom"- Ngã ba Đồng Lộc vào những ngày tháng 7, chúng tôi ai cũng bồi


hồi xúc động cho dù đã đến đây nhiều lần. Ngã ba Đồng Lộc và tên của 10 cô gái đã


đi vào huyền thoại, vào trang sử vàng truyền thống của dân tộc cũng như truyền


thống "Dũng cảm - Thông minh - Sáng tạo" của CBCNV ngành GTVT.



Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng Lộc, Can Lộc, Hà


Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc có tổng diện tích 50 ha, nằm gọn trong một thung lũng hình


tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo, mặt đường giống như một


lòng máng, bom địch thả xuống bên nào đất đá cũng lăn xuống đường làm cản trở


giao thông. Ngã ba Đồng Lộc được coi như cổ họng, vượt qua được sẽ phân tán toả


ra nhiều tuyến đường khác nhau đi vào Nam. Ngã ba Đồng Lộc là trọng điểm có tầm


quan trọng chiến lược nên trong chiến tranh phá hoại kẻ địch âm mưu ném bom hủy


diệt nhằm cắt đứt sự chi viện sức người, sức của,... của hậu phương lớn miền Bắc xã


hội chủ nghĩa đối với tiền tuyến lớn miền Nam.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

xuống đây 48.600 quả bom các loại. Hồi 17h ngày 24-7-1968, Tiểu đội 4 thanh niên


xung phong gồm 10 cô gái trẻ, tuổi từ 17 đến 22 được lệnh ra Ngã ba Đồng Lộc san


lấp hố bom và sửa chữa đường để cho xe vượt qua đoạn đường độc đạo này. Bỗng


một tốp máy bay phản lực bất thình lình quay lại sau một vài giây và ào ạt trút bom.



Sau trận oanh tạc, chỉ còn một hố bom sâu hoắm. Không nghe thấy một tiếng người.


Cả 10 cô gái đã hy sinh. Ngày 7-6-1972, các chị đã được truy tặng danh hiệu Anh


hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tiểu đội 4 hơm ấy có 10 cơ gái trẻ gồm: Võ Thị


Tần, 22 tuổi, tiểu đội trưởng; Hồ Thị Cúc, 21 tuổi, tiểu đội phó cùng 8 chiến sỹ: Võ


Thị Hợi, 20 tuổi; Nguyễn Thị Xuân, 20 tuổi; Dương Thị Xuân, 19 tuổi; Trần Thị Rạng


19 tuổi; Hà Thị Xanh,18 tuổi; Nguyễn Thị Nhỏ, 19 tuổi; Võ Thị Hạ, 19 tuổi; Trần Thị


Hường, 17 tuổi.



Với truyền thống tốt đẹp "uống nước nhớ nguồn", hàng ngày có rất nhiều đồn các



cơ quan, ban ngành về đây thắp nhang tưởng nhớ 10 cô gái trẻ đã hy sinh anh dũng.


Nhiều cây xanh mang tên của các cơ quan đơn vị đã được trồng quanh khu vực. Ngã


ba Đồng Lộc bây giờ bốn mùa xanh tươi, ngày đêm rì rào tiếng gió thổi.



Khu tưởng niệm, Nhà truyền thống đã được xây dựng khang trang hiện đại. Từ năm


1990, Cơng đồn GTVTVN và Báo GTVT đã nhiều lần tổ chức quyên góp tu bổ và xây


dựng tượng đài Chiến thắng tại Ngã ba Đồng Lộc. Năm nay, nhân dịp kỷ niệm 57


năm ngày truyền thống lực lượng TNXP và 60 năm ngày Thương binh, liệt sỹ, Báo


Lao động phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tổ chức dâng hương, động thổ


xây dựng Tháp chuông tại khu di tích này. Nhiều cơ quan, đơn vị và cá nhân đã tham


gia đóng góp rất nhiệt thành, trong đó có Cơng đồn GTVT VN và nhiều đơn vị trong


ngành GTVT.



Trong dòng người về Ngã ba Đồng Lộc những ngày tháng 7 này, chúng tơi đã gặp


nhiều đồn của các đơn vị trong ngành GTVT: Đoàn của Bộ GTVT, Cơng đồn GTVT


VN, Cienco 5, Cienco 1, Cienco 8, Tổng công ty XD Thăng Long, các Khu quản lý


đường bộ 2 và 4, các Sở GTVT Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Nam...



Đồn của Bộ GTVT có Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường, Chủ tịch Cơng đồn GTVTVN


Tạ Đăng Mạnh cùng nhiều đồng chí lãnh đạo của các đơn vị trực thuộc đã về đây


dâng hương tưởng nhớ đến 10 cô gái và hàng ngàn cán bộ chiến sỹ thanh niên xung


phong của ngành GTVT đã hy sinh anh dũng tại đây.



Quanh mộ của 10 cô gái, chúng tôi cũng gặp rất nhiều người quen đang lặng lẽ thắp


hương cho từng phần mộ. Nhiều mẹ, nhiều chị vừa thắp hương vừa khóc. Những


tiếng nấc nghẹn ngào cùng tiếng gió như từng vong linh thanh xuân dội về, thiêng


liêng đến bất tận...



Trở lại Ngã ba Đồng Lộc những ngày tháng 7, xin được thắp nén tâm nhang tỏ lòng


nhớ ơn những người con gái, con trai, mãi mãi tuổi thanh xuân, trong đó có 10 nữ



Anh hùng TNXP. Ngã ba Đồng Lộc rồi đây sẽ ngân vọng tiếng chuông mỗi sớm mỗi


chiều để nhớ về một thời máu lửa, hào hùng của dân tộc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Hồ Thu Thủy



<b>Chị Võ Thị Tần </b>


<i>Gửi ngày 13 tháng 7 năm 2005 </i>


<b>Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nơng dân nghèo đói nhưng giàu lịng u nước, lại được sự giáo dục của</b>
<b>nhà trường nên chị Võ Thị Tần đã sớm hình thành lý tưởng cách mạng, lối sống giản dị, tiết kiệm, chịu đựng </b>
<b>gian khổ để học tập.</b>


Năm 1963 –1964, chị là Phó bí thư chi đồn địa phương. Tần đã góp sức cùng bà con xóm làng xây dựng cuộc sống
mới tưoi đẹp, thúc đẩy phong trào HTX lớn mạnh. Năm 1965, Tần đã cùng nhiều chị em trong toàn huyện xung phong
vào lực lượng TNXP trực tiếp lao dộng, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.


Chị Võ Thị Tần


Ngày mới nhập ngũ, Tần biên chế vào C552 – P18 Hà Tĩnh bảo vệ thông suốt các tuyến đường ra mặt trận. Mồng
2-5-1965, Tần cùng đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ thông đường và bốc xếp hàng ở bến phà Địa Lợi thuộc đường 15A trên
đất Hương Khê. Tháng 11-1965 đến 6-1966, Tần được điều về làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông trên đường 15A
đoạn từ cầu Tùng Cốc đến Đức Thọ. Do có nhiều thành tích trong cơng tác và anh dũng trong chiến đấu, đạo đức tư
cách tốt nên Tần đã đựoc chi bộ C552 đề nghị Đảng uỷ cấp trên chuẩn y kết nạp vào Đang cộng sản Việt Nam vào dịp
kỷ niệm Đảng ta 37 tuổi (3-2-1967). Ban chỉ huy đã quyết định giao cho Tần nhiệm vụ Tiểu đội trưởng Tiể đội 4- C552.
Tháng 4-1967 đến tháng 6-1967, Tần cùng đơn vị được điều về công tác bảo vệ đường 15A ở Đồng Lộc. Trong quá
trình từ ngày nhập ngũ đến tháng 7-1968, chị đã phấn đấu lập nhiều thành tích, chỉ huy tiểu đội hồn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao. Tiểu đội do chị phụ trách luôn xứng đáng là lực lượng chủ công, con chim đầu đàn của đơn vị.
Trong cuộc sống hàng ngày, Tần là cô gái vui vẻ, cởi mở, tính nết thẳng thắn, vơ tư u đời song rất dứt khốt, rành
mạch. Cuộc đời chị vì thế có phần đơn giản, hạnh phúc hơn chị Cúc. Bố mẹ cưng con gái lớn. Ông Cung - bố chị bao
giờ cũng coi Tần như còn nhỏ. Mẹ chị càng yêu con gái hơn ai hết. Mẹ không muốn con gái đi lấy chồng xa. Mẹ đồng ý


gả chị cho một anh trai làng, người mà chị yêu. Tuy nhiên, cuộc chiến đấu chống Mỹ còn đang ác liệt. anh Hồng đã vào
bộ đội, lên đường vào chiến trường miền Nam. Cịn Tần sau đó đi TNXP. Họ hẹn nhau ngày toàn thắng sẽ nên duyên
vợ chồng. Sau ngày anh Hồng xuất ngũ trở về địa phương thì chị Tần đã vĩnh viễn ra đi. Đâu đớn và xót thương người
yêu, anh đã đi lại săn sóc bộ mẹ già của chị. Mãi sau này khi đã ngi ngoai, anh mới xây dựng gia đình với người con
gái khác. Thật cảm động vì anh chị đã rước ảnh chị Tần về thờ trong ngôi nhà của mình và vẫn tiếp tục đi về với bố mẹ
chị Tần như con cai trong gia đình.


Ngày 19-7-1968, trước lúc hy sinh 5 ngày, chị Tần đã viết thư về cho mẹ. Bức thư tràn đày tình cảm yêu thương nhớ
mong mẹ và cũng tràn đầy tinh thần yêu nước, căm thù giặc, quyết tâm sắt đá đánh kẻ thù và tinh thần lạc quan cách
mạng phơi phới.


<b>Chị Nguyễn Thị Xuân </b>


<i>Gửi ngày 13 tháng 7 năm 2005 </i>


<b>Chị Nguyễn Thị Xuân sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Bố chị là đảng viên 1930 – </b>
<b>1931. Tuổi thơ Xuân gắn liền với hình ảnh ngơi nhà nhỏ 3 gian, cái bếp con con và mảnh sân vuông vắn trước </b>
<b>thềm.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chị Nguyễn Thị Xuân


Năm 1967, học xong lớp 7 Xuân cùng nhiều chị em khác trong toàn huyện lên đường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng
của tuổi trẻ.


Xuân quen anh Vĩnh trên một bãi bom nổ chậm. Hôm ấy, trên đường từ Vĩnh Lộc về đơn vị. Xuân gặp máy bay đánh
bất ngờ. Trong lúc chạy vào hầm trú ẩn, Xuân đánh rơi cái túi xáh nhỏ, trong đó có nhiều thứ, tìm khơng thấy đâu cả. “
Có lẽ đất đá vùi lấp đi rồi” – Xuân ngơ ngẩn muốn khóc. Anh Vĩnh đến - Anh đội mũ sắt, quân phục bạc màu. Câu đầu
tiên anh nói với Xn là:” Cịn bao nhiêu bom nổ chậm, sao o lại vào đây ?”. Xuân nói vắn tắt việc mất cái túi, rịi dè
dặt:


<i>- Trong túi em để thẻ đồn viên, khơng thể đánh mất thẻ đàn được anh ạ!</i>


<i>- Nó bị văng ra xa, nắp túi vẫn còn, nhưng o thử xem có rơi mất chi khơng?</i>
<i>- Em cảm ơn anh!</i>


Xn đi cùng anh trong sự im lặng. Thỉnh thoảng Xuân nhìn sang anh. Dáng anh cao lớn, chắc đậm. Tự nhiên Xuân
thấy tin anh ấy. Xuân hỏi tên và quê quán anh. Thế là câu chuyện bắt đầu từ đó.


Đơn vị bộ đội cơng binh phá bom của anh Vĩnh phối hợp với C2 đảm bảo giao thông gần một năm. La Khê - Địa Lợi,
Cầu Ác, Cầu Cháy...Biết bao nhiêu kỉ niệm. Anh Vĩnh là một đảng viên, một tiểu đội phó dũng cảm và kiên quyết. Xuân
càng quý và tin anh. Ngày hôm sau anh Vĩnh lên đường đến trận địa mới. Rồi thư anh về, những lá thư viết vội giữa
nhiều trận đánh. Những lá thư không được phẳng phiu và có nhiều nếp gấp, như có cả mùi bom đạn hăng nồng. Càng
xa anh, Xuân càng yêu càng nhớ và một lòng chờ đợi. Xuân tâm sự với bạn bè:” Nhiều đêm nằm em thấy anh Vĩnh về
thăm. Bẵng đi một thời gian khơng có thư anh về, em đã lo. Em nghĩ đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Nhưng em
vẫn đợi...”. Sau này Xuân mới biết anh Vĩnh nhiều lần bị thương...


Mối tình đẹp vừa chớm nở thì một ngày tháng 7, Xuân cùng đồng đội vĩnh viễn ra đi.


<b>Chị Võ Thị Hà </b>


<i>Gửi ngày 14 tháng 6 năm 2006 </i>


<b>Sinh ra ở thị trấn Đức Thọ, Hà vốn là cô gái không quen lao động nặng. Cha Hà – ông Võ Trọng Lạc quê gốc ở </b>
<b>thị trấn Đức Thọ gặp bà Trần Thị Khuyên quê Bến Thuỷ- Vinh. Hai người cưới nhau và sinh được 5 người con. </b>
<b>Hà là con thứ ba.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Chị Võ Thị Hà


Chưa đầy 17 tuổi Hà đã gác lại những ước vọng về con đường học hành để lên đường vào TNXP, đến với Ngã ba
Đồng Lộc, nơi “túi bom” khốc liệt. Mẹ Hà chuẩn bị đủ thứ cho Hà đi và dặn :” Con làm sao cho bằng chị, bằng em”. Có
hơm Hà về thăm nhà, ăn vội ăn vàng để đi kẻo chậm. Lúc nào về Hà cũng mang theo một vài quyển truyện để đọc “
Khơng có sách, ngồi giờ ra trận địa con buồn lắm mẹ ạ”. Mẹ Hà hiểu đứa con gái thuỳ mị, đa cảm, có phần “tiểu tư
sản” của mình, chưa từng lăn lộn với thực tế của cuộc sống, vẫn còn non dại so với chị em trong tiểu đội nên tìm mọi


cách để động viên con. Sau mấy tháng ở tập thể, thấy con khoẻ mạnh , rắn rỏi hơn, bà rất mừng.


Lần cuối cùng Hà về thăm nhà, mẹ Hà có ý tìm đàn gà nhưng khơng thấy đâu cả. Biết mẹ tìm gà để làm thịt, Hà yên
lặng, tủm tỉm cười quay đi ”mẹ tìm chi đó?”. Mấy con gà nỏ biết đi mô, hay lại mất rồi” “ mất sao được, con vừa thấy
chúng ở sân mà”. Mẹ Hà yên tâm, 5 mẹ con quây quần bên nhau, ăn rất ngon lành. Các em tíu tít nghe chuyện, chuyện
Khe Sanh, chuyện Đồng Lộc. Sau đó mẹ Hà gửi máy con gà con đến Đồng Lộc để chị em ni. Nó càng sinh sơi nảy
nở. rồi có lần Hà đem về nhà một con gà mái. Một hơm tự nhiên nó vỗ cánh gáy như gà trống. Mẹ của Hà bảo với em”
thế nào chị Hà cũng có chuyện rồi”. Quả thật như vậy – 2 ngày sau nghe tin Hà hy sinh.


Những ngày ở tiểu đội, vì Hà ít tuổi nhất nên bao gìơ cũng được chị Tần, chị Cúc, chị Nhỏ coi như em út. Việc nặng
các chị giành lấy, không cho Hà làm. Chị Tần hay vuốt tóc, tâm tình, động viên Hà những giây phút nhớ nhà, nhớ mẹ.
Hà hay nghĩ ngợi. Thỉnh thoảng ngồi một mình trầm tư, có khi thơ thẩn một mình, có khi lại cặm cụi ghi nhật ký 17 mùa
trăng, Hà thanh thản ra đi khi chưa hề vướng một chút tơ lòng.


<b>Chị Trần Thị Rạng </b>



<b>Sinh ra tại xóm chài Thọ Thuỷ - Đức Vĩnh – Đức Thọ, từ nhỏ cô bé Rạng đã tỏ ra can đảm, ít nói song tinh </b>
<b>nghịch. Thời thơ ấu Rạng theo cha mẹ làm nghề chèo lái trên sông La.</b>


Rạng lớn lên lúc bom đạn giặc Mỹ đánh phá ác liệt ở bến đò Hào – quê hương. Chứng kiến cảnh đau thương của xóm
và nhân dân. Rạng quyết định rời cuộc sống sông nước lên bờ sinh hoạt với đoàn thanh niên, tham gia phục vụ chiến
đấu tại huyện nhà.


Chị Trần Thị Rạng


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

trong số những người trúng tuyển. Rạng mừng lắm, về thuyền soạn sửa đồ đạc và từ giã gia đình. Ngày Rạng ra đi bố
mẹ lên bờ tiễn và theo dõi bóng con. Rạng dong dỏng cao, nước da trắng hồng như bao nhiêu ngườì con gái từng
uống nước sông La. 17 tuổi, chân trời mơ ước mở ra trước mắt Rạng. Được sống và chiến đấu ở nơi chiến trường
khốc liệt đối với Rạng coi như là đã được thực hiện hoài bão của tuổi trẻ.



Đồng đội TNXP đều là những người cùng trang lứa. Cả tiểu đội A4 của Rạng chỉ có chị Tần, chị Cúc, chị Nguyễn Thị
Xuân và chị Thao là đã từng ở TNXP 3 năm còn Rạng và 12 người nữa đều là “lính nhiệm kỳ II” vào TNXP với bao
điều bỡ ngỡ. Vốn là con nhà chèo lái, tay cầm cào cuốc thuổng khơng quen, trình độ văn hố cịn thấp song với một
quyết tâm sắt đá” vươn lên cho bằng chị, bằng em”, Rạng đã nhiệt tình lao động và say mê học tập văn hố. Ngồi giờ
ra trận địa, Rạng cùng chị em làm toán, làm văn, tập hát, lúc nghỉ giải lao lại tìm cách trêu đùa đại đội trưởng và mấy
anh lái xe ủi. Cuộc sống tuy gian khổ, ác liệt nhưng vui tươi, sôi nổi, tràn đầy tinh thần lạc quan. Rạng ngày càng rắn
rỏi , bạo dạn. Mặc dù lăn lộn với nắng mưa, bom đạn nhưng vẻ xinh tươi trên khuôn mặt Rạng vẫn không bao giờ tắt.
18 mùa xuân, cuộc đời đang như ánh ban mai, vậy mà Rạng đã phải vĩnh viễn giã từ đồng chí, đồng đội, yên nghỉ ngàn
thu trên núi đồi quê hương.


<b>Chị Trần Thị Hường </b>


<i>Gửi ngày 13 tháng 7 năm 2005 </i>


<b>Chị Trần Thị Hường là con của một liệt sĩ chống Pháp. Cha chị là vệ quốc quân hy sinh năm 1953 ở mặt trận. </b>
<b>Khi ông hy sinh, Hường mới 4 tuổi, mẹ Hường đang có mang em Lý. Năm em Lý lên 2 và Hường tròn 5 tuổi, </b>
<b>mẹ đi lấy chồng. Hai chị em ở với bà ngoại và cậu mợ tại xóm Đơng Quế, thị xã Hà Tĩnh.</b>


Chị Trần Thị Hường


Tuy sống thiếu tình cảm bố mẹ nhưng được bà và cậu mợ thương u rất mực nên tính tình của Hường vẫn hồn nhiên
vui vẻ. Chị có giọng hát hay và lại hay hát. Hường được mệnh danh là “chim sơn ca” của tiểu đội và của cả C522. Mái
tóc Hường đen dài và óng ả. Với mái tóc và giọng hát trời phú ấy, Hường đã được nhiều chàng trai cảm mến. Sau
những giờ lao động mệt nhọc ở ngoài trận địa. Hường và anh chị em lại quây quần hát múa, diễn kịch. Phong trào “
Tiếng hát át tiếng bom” đã lan rộng khắp các chiến trường từ Bắc vào Nam. Ở C552 trong các buổi tập văn nghệ,
Hương bao giừo cũng là hạt nhân chính. Những bài hát “ Cô gái mở đường”,” Đường ta đi dài theo đất nước”,” Co gái
Sài Gòn đi tải đạn”...đã được Hường và anh chị em hát say sưa. C522 còn diễn kịch hát dân ca, vở “ Con đường và dải
lụa”.


Hường không chỉ hát hay mà cịn là cơ gái đằm thắm và dịu dàng, thích quan tâm đến mọi người theo cách riêng của
mình. Cuộc chiến ngày càng ác liệt song không làm nụ cười và tiếng hát tắt trên đôi môi Hường. Chỉ tiếc rằng Hường


khơng cịn chờ đến ngày tồn thắng để cùng đồng đội hát bài ca khải hoàn. Hường đã vĩnh viễn ra đi giữa mùa hạ thứ
21 của đời mình


<b>Chị Hà Thị Xanh </b>


<i>Gửi ngày 13 tháng 7 năm 2005 </i>


<b>Sinh ra ở vùng quê Đức Hoà - Đức Thọ, Xanh vốn là cô gái hiền lành, ít nói nhưng làm việc thì rất chăm. Xanh </b>
<b>đậm người, khoẻ mạnh, làm việc gì cũng xốc vác, hay nhận việc khó về mình. </b>


Mơi trường chiến đấu, lao động, học tập đã khiến cho Xanh cùng chị em trong tiểu đội gắn bó với
nhau như ruột thịt. Một lần được nghỉ phép, Xanh rủ Hà về nhà mình chơi. Cả 2 đến Đức Hồ vào
lúc qúa trưa. Đang đi trên đường làng rợp bóng, Hà chợ nảy ra ý tinh nghịch:” Thế này nhé, lát nữa
mình vào trước nói chuyện với mẹ chút việc này. Khi nào nghe mình gọi, Xanh hãy ra được
khơng?”. Xanh mỉm cười gật đầu. Thật lòng Xanh muốn chạy về nhà ngay. Hà đẩy Xanh vào bụi chuối, xốc ba lơ đi vào
nhà. Xanh hồi hộp nhìn qua kẽ lá, thấy mẹ đang ngồi khâu ở đầu hè. Mấy đứa em đang quây quần xung quanh. Thấy
Hà, các em reo ầm lên:


<i>- Chị Xanh về mẹ ơi!</i>


Mẹ Xanh ngẩng lên hơi luống cuống nhưng khi thấy Hà, bà bình tĩnh lại. Các em Xanh bị tẽn tị, đứng im như tượng
nhìn Hà. Hà bỏ mũ ra và tươi cười nói:


<i>- Con ở đơn vị Xanh được về thăm bọ mạ một lát.</i>
<i>- Mần răng con Xanh không về con?</i>


Hà mỉm cười ngồi xuống ghế: - Lẽ ra Xanh cũng về nhưng ngại mẹ ạ. Mẹ Xanh chưa hiểu: ” Nó ngại chi con?”. Chờ


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mẹ Xanh rót nước chè ra bát, Hà tủm tỉm: ”TNXP chống Mỹ cứu nước chúng con thực hiện phong trào “ba khoan”,
nghĩa là khoan lấy chồng”. Mẹ Xanh sốt ruột:



<i>- Việc nớ can chi mà con Xanh không về?</i>
<i>- Con sẽ co cách gọi Xanh về ngay! </i>
<i>- Thật không?</i>


<i>- Dạ thật ạ!</i>


Thấy các em tò mò theo dõi câu chuyện, Hà đứng dậy tới gần chiếc cột ngồi hiên tưởng tượng đó là điện thoại. Hà
làm động tác quay máy, nhấc ống nghe lên nói như thật: “ A lơ! Tổng đài đâu? Cho tôi gặp tổng đội 55. Năm lam đấy
phải không? Cho tôi gặp C552.C2 đấy à? Hà đây? Sao lâu thế? Đang tắm à? Này, thu xếp ba lô về nhà ngay. Mẹ chờ
đây! Sao ngại à? Mẹ đồng ý là không nhắc đến chuyện “vớ vẩn” ấy nữa đâu. Khơng có ơ tơ à? Thế thì đi máy bay lên
thẳng vậy. chìa khố mình bỏ trong ống đũa ấy!”


Cả nhà cười ầm lên. Hà vẫn tiếp tục đùa. “Sao? Máy bay hết xăng à? Lấy vài bát cơm nguội cho nó ăn tạm vậy. Ừ! Về
ngay nhé, mình ra sân đón Xanh đây!”. Hà ra sân nhìn lên trời, các em ùa ra theo.


- Máy bay lên thẳng của chị Xanh kia rồi. Nó hạ cánh xuống rồi. Chị Xanh về đến nhà rồi. Các em nhao lên.
<i>- Xanh ơi! Vào nhà đi</i>


Xanh ra khỏi bụi chuối, tươi cười bước lên gò đất nhà mình
<i>- Chị Xanh về thật mẹ ơi!</i>


<b>Chị Võ Thị Hợi </b>


<i>Gửi ngày 13 tháng 7 năm 2005 </i>


<b>Sinh trưởng trong một gia đình nơng dân ở xã Thiên Lộc – Can Lộc, nơi có dãy Hồng Lĩnh quanh năm mây vờn</b>
<b>và ngơi chùa Hương cổ kính nằm ẩn mình trên đỉnh núi, từ nhỏ, cô bé Hợi đã cảm thấy yêu quê hương, yêu </b>
<b>ruộng đồng yêu những người dân quê mộc mạc,” Một nắng hai sương”. </b>


Hợi là con thứ 5 trong gia đình. Để giúp bố mẹ, hàng ngày Hợi dem bò đi ăn trên những bãi cỏ gần chân núi cùng đám
bạn bè trong xóm. Mỗi lần thơn xóm có lễ hội gì, nhất là những ngày đón tết, Hợi thường cùng các bạn đội viên tập văn


nghệ, múa hát suốt đem. Hợi và đám bạn bè hay hát những bài hát về Đảng, về Đoàn thanh niên, về Bác Hồ kính yêu.


Chị Võ Thị Hợi


Năm 1965, học xong lớp 7, Hợi xung phong đi “Ba sẵn sàng”. Tính tình Hợi hiền lành, tác phong nhanh nhẹn, tóc dài,
nước da ngăm đen. sống trong tập thể TNXP, Hợi nhanh chóng hồ nhập, chia ngọt sẻ bùi với chị em, nhất là chị em
trong tiểu đội A4 nơi tuyến lửa. Thi thoảng, Hợi mới có dịp về thăm nhà, thăm cha mẹ:” Bom đạn dội xuống ghê gớm
lắm mẹ ạ! Tiếng bom nổ, tiếng máy bay gầm xé suốt đêm ngày, đất đá bụi tung mù mịt. Nhưng tất cả bọn con đều
không sợ. Cứ đợi dứt đợt bom là chúng con ra đường ngay, để xe khỏi bị tắc trên đường vào Nam mẹ ạ!”.


Bà Em - mẹ Hợi vừa thương con vừa cảm phục nghị lực đứa con gái trơng bềngồi hết sức hiền lành. Khơng cần nghe
con kể, bà cũng hình dung đựơc cuộc sống của con và đồng đọi ở nơi đó. Bà lựa lời khuyên con giữ gìn sức khoẻ để
bình yên trở về trong ngày thắng Mỹ. Bà đâu có ngờ đứa con gái bé bỏng ngoan hiền, khúc ruột thứ 5 của bà đã vĩnh
viễn khơng bao giờ trở về, góp một giọt máu đỏ tươi để tô thắm lá cờ vẻ vang của dân tộc.


<b>Chị Dương Thị Xuân </b>


<i>Gửi ngày 13 tháng 7 năm 2005 </i>


<b>Sinh ra và lớn lên ở vùng quê Đức Tân - Đức Thọ, trong một gía đình đơng con, chị Xn sớm ý thức được </b>
<b>trách nhiệm người chị cả của mình. Là con gái đầu lòng nên Xuân khá vất vả. Bố làm thợ mộc, mẹ bận bịu với </b>
<b>nghề bán hến ở chợ. Nhiều khi Xuân phải nhỉ học để trông nhà, trông em. Xn hiền hậu, nhu mì, mẹ mắng </b>
<b>khơng bao giờ cãi lại. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

đất.


Chị Dương Thị Xuân


Ông Quý - bố Xuân rất chiều con. Những lúc rảnh rỗi trước đây, ông thường xuống đơn vị thăm con. Nhiều bạn Xuân
thầm ước ao có một người cha như thế, nhất là Nhỏ, Cúc và Hường.



Trước khi đi TNXP Xuân có quen anh Tân người cùng xã. Gia đình anh rất quý Xuân nhưng anh Tân chưa dám ngỏ
lời với cha mẹ Xuân. Xuân mến anh Tan nhưng chưa muốn vấn vương chuyện gia đình, chuyện chồng con. Xuân hẹn
anh khi nào thống nhất đất nước thì hẵng liệu. Anh Tân nghĩ vậy là đúng. Trước khi Xuân lên đường, anh trao cho
xuân một quển điều lệ Đảng mà anh vẫn dùng. Anh nói với Xuân:


<i>- Anh cũng đi bộ đội. Sau này trở về chúng ta sẽ la hạnh phúc riêng. Anh lấy sợi ni lông xanh, đỏ buộc vào cổ tay Xuân </i>
rồi nói:


<i>- Màu đỏ là của anh, màu xanh lam này là của em. Khi nào nhớ đến anh, em hãy nhìn chiếc vịng này.</i>


Cũng như mối tình Tần – Hông, Xuân và anh Tân đã không thực hiện được lời hẹ ước vì đất nước cịn có giặc,
chuyện riêng tư đành gác lại. Và ngày toàn thắng thì đã đến nhưng Xuân, chị Tần và 8 chị em trong A4 cùng bao nữ
TNXP khác đx mãi mãi không trở về, gửi lại tuổi trẻ và tình yêu trên những tuyến đường.


<b>Chị Nguyễn Thị Nhỏ </b>


<i>Gửi ngày 13 tháng 7 năm 2005 </i>


<b>Cùng sinh năm 1944 như chị Tần, chị Cúc, nhưng Nhỏ có một hồn cảnh tương tự Cúc. Bố mẹ mất sớm, nhà </b>
<b>chỉ có 2 chị em gái: chị Miên và Nhỏ. Chị Miên thay bố mẹ nuôi Nhỏ từ tấm bé. Gọi Nhỏ vì bố mẹ mất sớm, cơm</b>
<b>khơng có ăn, áo khơng có mặc, bệnh tật hành hạ, càng ngày cơ bé càng cịi cọc, khơng lớn được chút nào. Rồi</b>
<b>đến tuổi, chị Miên đi lấy chồng, nhưng chị không về quê chồng mà ở lại cùng em. Chồng chị là bộ đội thỉnh </b>
<b>thoảng ghé thăm nhà. Sau khi chị sinh cháu trai đầu lòng, chồng chị hy sinh. Chị đành ở vậy nuôi em và nuôi </b>
<b>con.</b>


Chị Nguyễn Thị Nhỏ


Thế rồi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ngày một ác liệt. Nhỏ xin chị vào TNXP. Chị sợ em còn bé dại thơ ngây, chua
gnáh vác nổi việc nước. Nhưng chị Miên vẫn để Nhỏ đi. Chị cho em bộ quần áo lành lặn nhất, gói cho em một nắm
cơm, ròi bế con tiễn Nhỏ lên đường. Nhỏ ra đi chỉ với bộ quần áo và nắm cơm của chị. 2 chị em quyến luyến bịn rịn khi
chia tay. Nhỏ ôm chầm lấy cháu. Thằng bé cũng bám chặt lấy dì. Chị Miên dặn: “ Em gắng làm việc cho bằng chị bằng


em, phải cẩn thận nơi mũi tên hòn đạn. Nếu em làm sao thì chị chỉ cịn một mình em thơi”. Bà con làng xóm ra tiễn
đứng nhìn theo cho đến khi bóng cơ khuất hẳn.


Sau một thời gianở TNXP, Nhỏ về thảm q. Bộ quần áo TNXP cơ mặc cịn nguyên nếp gấp khiến cô chững chạc hẳn
lên. Chỉ một thời gian ngắn ở TNXP, Nhỏ phổng phao lên trông thấy. Khi vào TNXP Nhỏ mới thật sự bước vào tuổi dậy
thì. Trên đơi má mới vương sắc máu hồng. Nhỏ ngày một xinh tươi hơn, thương lấy gương của Cúc soi trộm. Nhỏ
chăm làm, xung phong gương mẫu hơn các em nên được chị Lê Thị Hồng kèm cặp để học thêm. Càng lăn lộn với thực
tế của cuộc chiến đấu, Nhỏ càng thấm thía ý nghĩa tuổi thanh xuân và mong muốn đóng gópđược nhiều sức lực hơn
nữa để Nam bắc sum họp một nhà.


Nhỏ ra đi vào lúc 24 tuổi, không kịp giã biệt người chị và đúa cháu nhỏ thân yêu, để lại tiếc thương cho biết bao người.


<b>Chị Hồ Thị Cúc </b>


<i>Gửi ngày 13 tháng 7 năm 2005 </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>người khác trong làng. Ông nội Cúc đưa 2 mẹ con Cúc về nha rau cháo lần hồi đợi ngày lúa chín ...Đến năm </b>
<b>Cúc 4 tuổi, mẹ Cúc đi bước nữa. </b>


Từ đây Cúc sống trong sự đmf bọc của ông nội và o Loan. Chảng bao lâu, vào một ngày tháng
chạp, ơng nội qua đời, một mình o Loan nuôi cháu, đến năm sau chú Dũng đi bộ đội về vàc cưới
vợ. Từ đây Cúc sống với chú mự và o Loan. Bà Trinh- mẹ Cúc lấy chồng ở Sơn Bằng thỉnh thoảng
về thăm con, nhưng chẳng có gì để ni Cúc.thơig gian này Cúc cịi cọc, mặt choắt lại, đơi mắt ln nhìn xuống, lâu
dần thành thói quen. Tóc Cúc vàng hoe, cụt cỡn như một túm đi lơng bị. Quanh năm Cúc mặc chiếc quần lửng với
tấm aó vá. Cúc đi chăn bò, cắt cỏ, bế em và làm bao việc không tên khác ở trong nhà. Cúc làm chậm nhưng cần cù,
cẩn thận và thật thà nên thường gọi là “Cúc mục”.


Hồi Cúc lên 8, một hôm đun nồi cám lợn xong, Cúc lúi húi quét dọn bếp. Mự vào bưng nồi cám lợn ra, chẳng may
trượt chân làm đổ cả nồi cám lên lưng Cúc. Cúc bị bỏng nặng, suốt ngày nằm sấp trên chiếc chõng con, lúc tỉnh lúc
mê. O Loan hồi ấy ở nhà, thưong xót cháu, 3 tháng liền tìm cách chữa cho cháu bằng bài thuốc dân gian. Cuối cùng
Cúc đã khỏi. Nhưng vết sẹo sần sùi rất lớn, chạy suốt từ bả vai xuống đến thắt lưng thì khơng bao giờ xố được. Cúc


giấu tất cả mọi người điều đó.


Năm 1965 Cúc đi TNXP chống Mỹ cứu nước. Ba năm sống trong tập thể nam nữ thanh niên, chiến đấu trên mặt
đường địch đánh phá, chị đã trưởng thành và khơng cịn là o “Cúc mục “ ngày xưa nữa. Duy chỉ có vết sẹo trên lưng và
nỗi đau sâu lắng trong lịng là khơng thể quên đi được.


Ngày nhập ngũ, chị Cúc đựợc ở với chị Tần. Đôi bạn cùng lứa tuổi, cùng ngày nhập ngũ đã sống với nhau trong niềm
thương u đồng chí, đồng đội, ln giúp đỡ nhau hồn thành xuất sắc nhiệm vụ đựơc giao. Trong 3 năm cùng sống,
cùng làm việc cả 2 chị đã đạt nhiều thành tích. Vinh dự lớn nhất trong đời, đó là giờ phút thiêng liêng 2 chị được đứng
dưới Đảng kỳ và chân dung Hồ Chủ Tịch đọc lời tuyên thệ trước lúc vào Đảng 3-2-1967. Sau đó Cúc được giao nhiệm
vụ Tiểu đội phó, tiẻu đội 4C522. Càng vui sướng với niềm vui ấy bao nhiêu, Cúc càng hăng say công tác bấy nhiêu. Ba
năm trời trôi qua, Cúc đã cùng Tần chỉ huy tiểu đội bám trụ chiến đấu, đảm bảo thông suốt đường 15A trên trận địa
Ngã ba Đồng Lộc.


Một ngày tháng 7 nắng gắt ở Đồng Lộc, vào lúc 16 giờ ngày 24-7-1968, trong lúc cùng 11 người trong tiểu đội ( trừ 5
cô đi lấy quân trangquân dụng, 1 người đã hy sinh trước đó) ra mặt đường cách Ngã ba Đồng Lộc về phía Nam
khoảng 300 m để san lấp hố bom, sửa chữa đường kết hợp cngr có hầm trú ẩn, Cúc cùng 9 chị em trng tiểu đội đã hy
sinh. Trong tiểu đội cịn có chị Trần Thị Thao, “ lính nhiệm kỳ I” vì lý do tập văn nghệ đi sau cùng tiểu đội 5 nên đã sống
sót.


Hơm đó, 10 cơ gái ra đến hiện trường đã nhanh chóng triển khai cơng việc. Kẻ đào, người xúc, hồ hởi làm việc, vừa
làm vừa chuyện trị trêu đùa nhau. Bỗng có một tốp máy bay vượt qua trọng điểm. Tất cả chị em nhanh chóng nép
mình vào triền đồi, nơi thành hố bomcũ tạo nên một cái rãnh lớn. Tốp đi sau của tiểu đội 5 cũng dừng lại quan sát. Một
lúc sau, hết tiếng máy bay cả tiểu đội chồm dậy để tiếp tục làm việc. Bất ngờ, một trong tốp chiếc máy bay lúc nãy quay
lại, thả một lạot bom. Một quả bom rơi trúng vào chỗ của các cô đang làm việc. Tiếng nổ chát chúa, đất đá tung t,
khói bom mù mịt, đen ngịm trùm lên cả đội hình 10 cơ.


Tốp TNXP tiểu đội 5 đi sau chạy ào đến gào thét, bộ đội, nhân dân ở gần đó cũng lao ra gọi tên từng người. Đến nơi,
chỉ cịn thấy hố bómâu hoắm, một vài chiếc cuốc, xẻnh văng ra nhưng khơng cịn thấy một ai, không nghe thấy một
tiếng người. Cả 10 cô gái TNXP đã anh dũng hy sinh. Suốt đêm hơm đó và cả ngày hơm sau, đồng đọi đã đồ bới, tìm


kiếm thi hài các chị, đem về tắm rửa sạch sẽ. Tất cả đều như đang vừa đi vào giấc ngủ dài. Đồng đội đã đặt các chị
vào khu đồi Bãi Dịa với lịng xót thương vô hạn.


Riêng chị Hồ Thị Cúc, mãi sang ngày thứ 3 đồng đội mới tìm thấy chị trên đồi Trọ Voi cách hố bom cũ chừng 20m
trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc, 10 đầu ngón tay bị ứa máu vì đang bới đất để tìm đường ra.
Thương xót người em, người đơng đội có số phận khơng may mắn, tác giả Yến Thanh ( tên thật Nguyễn Thanh Bình-
cán bộ phụ trách kỹ thuật ngành GTVT) cùng có mạt lúc đó nghẹn ngào viết lên bài thơ: “Cúc ơi”


<i><b>Cúc ơi! </b></i>


<i>Tiểu đội đã về xếp một hàng Ngãng</i>
<i>Cúc ơi! Em ở đâu khơng về tập hợp</i>
<i>Chín bạn đã qy quần đủ hết </i>


<i>Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh</i>
<i>A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh</i>


<i>Chỉ thiếu mình em</i>


<i>Chín bỏ làm mười răng được</i>
<i>Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc</i>
<i>Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng</i>
<i>Cúc ơi! Em ở đâu?</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Đất nâu lạnh lắm</i>
<i>Da em xanh</i>
<i>Áo em thì mỏng</i>
<i>Cúc ơi! Em ở đâu?</i>
<i>Về với bọn anh</i>



<i>Tắm nước sông Ngàn Phố</i>
<i>Ăn quýt đỏ Sơn Bằng</i>
<i>Chăn trâu cắt cỏ</i>


<i>Bài tốn lớp 5 em cịn chưa nhớ</i>
<i>Gối cịn thêu dở</i>


<i>Cơm chiều chưa ăn</i>
<i>Ở đâu hỡi Cúc?</i>
<i>Đồng đội tìm em</i>
<i>Đũa găm cơm úp</i>
<i>Gọi em,</i>


<i>Gào em</i>
<i>Khản cổ cả rồi</i>
<i>Cúc ơi!</i>


</div>

<!--links-->

×