Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH? VẬN DỤNG LỸ THUYẾT NÀY ĐỂ GIẢI THÍCH HIỆN TƯỢNG NỢ XẤU TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG VÀ HIỆN TƯỢNG TÍN DỤNG ĐEN TRONG NỀN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.81 KB, 17 trang )

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: KINH TẾ HỌC TIỀN TỆ, NGÂN HÀNG VÀ
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN
XỨNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH? VẬN DỤNG LỸ THUYẾT NÀY
ĐỂ GIẢI THÍCH HIỆN TƯỢNG NỢ XẤU TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG VÀ HIỆN TƯỢNG TÍN DỤNG ĐEN TRONG NỀN
KINH TẾ?


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, thị trường tài chính
cũng khơng nằm ngồi xu thế đó.
Nhưng trong q trình phát triển, những cuộc khủng hoảng tài chính ln là
vấn đề bất cập trong mỗi quốc gia. Các nhà phân tích cho rằng, đa phần các cuộc
khủng hoảng tài chính nổ ra đều có thể tránh được nếu có sự minh bạch và tính cơng
khai. Nếu như các hoạt động của các tổ chức rõ ràng hơn, công khai nhiều tin tức
hơn, hay nói cách khác là có sự cân xứng về thơng tin giữa các bên trong mọi cuộc
giao dịch thì mức độ rủi ro sẽ được hạn chế và giải quyết kịp thời hơn.
Vấn đề này ảnh hưởng không những lâu dài mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tâm
lý, niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường tài chính. Làm thế nào để hạn chế thơng tin
bất cân xứng, làm cách nào để nâng cao chất lượng công bố thơng tin, đảm bảo cho
thị trường tài chính vận hành công bằng, hiệu quả, công khai, minh bạch được đặt ra
rất cấp thiết.


PHẦN I:
LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
Cha đẻ của thông tin bất cân xứng là ba nhà kinh tế học đã đoạt giải Nobel về
các vấn đề liên quan đến thông tin: G.Akerlof, M.Spence and J.Stiglitz.
1.Thông tin bất cân xứng là gì?


Là trạng thái mà ở đó các bên của một giao dịch có sự nhận biết (thơng tin)
khơng giống nhau về đối tượng và các vấn đề liên quan của giao dịch đó.
Đơi khi một lý do khiến các thị trường thất bại là thông tin bất cân xứng. Hiện
tượng này đã trở thành mối quan tâm chính của các nhà kinh tế trong thời gian gần
đây.
Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên tham gia thỏa thuận biết nhiều hơn
bên kia:
- Một người bán đưa ra món hàng mà người mua khơng dễ đánh giá chất lượng.
- Một người tuyển dụng lao động khó có thể biết trong số các ứng viên ai là
người có năng lực nhất.
- Người cho vay không bao giờ biết rõ hơn người đi vay về khả năng thanh
toán nợ.
Sự cách biệt thơng tin có thể gây tốn kém và làm cho nhiều hàng hóa hay dịch
vụ khơng thể tham gia thị trường.
2. Nguyên nhân của thông tin mất cân xứng:
- Tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô
- Môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật
cấp địa phương trong việc triển khai.
- Công tác thống kê, dự báo còn hạn chế, cho nên những điều chỉnh trong điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN chưa theo kịp diễn biến của nền kinh tế và kết quả
đạt chưa cao.


- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN
- Rủi ro do hệ thống thông tin quản lý còn bất cập, yếu kém
3. Các hệ quả của thông tin mất cân xứng:
3.1. Lựa chọn ngược
Lựa chọn ngược là tình huống thơng tin bất cân xứng xảy ra trước khitiến hành
giao dịch: khi một bên trong giao dịch có lợi thế thơng tin về một đặc điểmnào đó
(chẳng hạn như chất lượng sản phẩm, tình trạng sức khỏe, sự lành mạnh về tài chính,

…) mà bên kia khơng thể quan sát với độ chính xác tuyệt đối khiến bên kia khơng thể
đưa ra quyết định chính xác và tối ưu. Bên có lợi thế về thơng tin có thể lợi dụng đặc
điểm này để che dấu, bóp méo thơng tin theo hướng có lợi cho mình. Cịn bên thiếu
thông tin hơn cần hiểu được bất lợi này để tìm các biện pháp buộc bên có nhiều thơng
tin phải bộc lộ những đặc điểm hay thông tin cần biết.
Xét một ví dụ trong hoạt động bảo hiểm. Một công ty bảo hiểm phát hành một
hợp đồng bảo hiểm rủi ro mất xe. Kết quả có nhiều khả năng xảy ra là đa số những
người phải để xe ở những nơi khơng an tồn sẽ mua bảo hiểm. Thơng tin về nơi mà
người sử dụng xe hay gửi xe là thông tin chỉ riêng anh hay chị ta biết. Nói một cách
khác, đó là thơng tin mà người ngồi và cụ thể là công ty bảo hiểm không thể quan sát
được. Do vậy, công ty không thể phân biệt được để tính mức phí bảo hiểm khác nhau
với độ rủi ro khác nhau. Ai cũng nói là mình ln gửi xe ở những nơi an toàn để hy
vọng được hưởng phí bảo hiểm thấp. Trường hợp này, cơng ty bảo hiểm sẽ áp dụng
một mức phí bảo hiểm bình qn. Với một mức phí bảo hiểm bình qn như vậy, thì
những người thực sự ln gửi xe ở nơi an tồn – khách hàng mà cơng ty bảo hiểm
muốn hướng tới - sẽ thấy không đáng để mua bảo hiểm, cịn những người có độ rủi ro
cao - đối tượng khách hàng công ty bảo hiểm muốn tránh - sẽ sẵn sàng mua. Như vậy,
chỉ có những người có độ rủi ro mất xe cao mới mua bảo hiểm. Như vậy, cơng ty bảo
hiểm đã bị đặt trong tình trạng lựa chọn ngược vì thực chất, cơng ty bảo hiểm chỉ
muốn bán bảo hiểm cho những khách hàng gửi xe ở nơi an toàn.
3.2. Rủi ro đạo đức (tâm lý ỷ lại)


Hiện tượng rủi ro đạo đức là tình trạng thơng tin bất cân xứng xảy ra sau khi
giao dịch, trong đó một bên trong giao dịch có ít thơng tin hơn bên kia về hành động
của bên kia sau khi giao kết hợp đồng. Do bên có nhiều thơng tin hơn có thể dễ dàng
che đậy hành động của mình, nên họ có xu hướng hành động đi ngược lại lợi ích của
bên kia và theo hướng có lợi cho mình.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm rủi ro đạo đức, ta hãy dùng một ví dụ về bảo hiểm.
Trong phần nói về lựa chọn ngược ở trên, chúng ta đã sử dụng ví dụ về rủi ro mất xe

máy để minh họa cho khái niệm “lựa chọn ngược”. Ta thấy rằng trước khi ký hợp
đồng bảo hiểm, công ty bảo hiểm không biết được đặc điểm của các khách hàng
(thông tin bị che đậy dẫn tới lựa chọn ngược). Thậm chí sau khi đã ký hợp đồng, cơng
ty bảo hiểm cũng không cũng không quan sát được hành vi của khách hàng. Những
người sau khi đã mua bảo hiểm thường trở nên bất cẩn hơn. Họ khơng cịn giữ xe cẩn
thận như trước nữa vì ỷ lại rằng nếu mất thì cũng được cơng ty bảo hiểm đền bù. Đây
chính là tâm lý ỷ lại hay rủi ro đạo đức. Kết quả là xác suất mất xe của những người
bảo hiểm tăng lên đáng kể, từ đó kéo theo chi phí đền bù của cơng ty bảo hiểm tăng
lên.
Nếu quan sát được hành vi của khách hàng, công ty bảo hiểm sẽ đưa vào trong
hợp đồng các điều khoản để xác định rõ những hành vi (bất cẩn) nào dẫn tới mất xe
thì sẽ khơng được bồi thường và sẽ thực thi những điều khoản đó. Tuy nhiên, việc
quan sát hành vi là rất tốn kém, nếu không muốn nói là khơng khả thi. Do vậy, khi
một khách hàng đến địi đền bù thì cơng ty bảo hiểm thường khơng có cách nào để
xác định được là khách đó có thực hiện đúng các điều khoản hợp đồng hay khơng.
Hiện tượng rủi ro đạo đức cịn được nghiên cứu dưới hình thức là vấn đề người
ủy thác - đại lý (principal - agent problem). Hợp đồng vốn, ví dụ cổ phiếu thường là
quyền được chia lợi nhuận và tài sản của công ty. Hợp đồng vốn chứa đựng rủi ro đạo
đức, được thể hiện bởi vấn đề “uỷ thác – đại lý”. Trong khi những nhà quản lý là
những đại lý nhỏ chỉ nắm giữ một tỷ lệ nhỏ, các cổ đơng cịn lại là những người uỷ
thác nắm giữ chủ yếu cổ phần của công ty. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc


quản lý công ty làm phát sinh rủi ro đạo đức. Nhà quản lý cơng ty có thiên hướng
hành động có lợi cho riêng mình hơn là vì quyền lợi của các cổ đơng cịn lại, bởi vì
nhà quản lý khơng có động lực nhằm tối đa hố lợi nhuận công ty như các cổ đông
mong muốn.
4. Giải pháp khắc phục tình trạng thơng tin bất cân xứng
Tình trạng thơng tin bất cân xứng khiến các thị trường hoạt động kém hiệu quả,
các nguồn lực của xã hội được phân bổ khơng hiệu quả, gây lãng chí chung cho tồn

xã hội, đe dọa sự tồn tại của một số thị trường, kìm hãm sự phát triển chung của nền
kinh tế. Giải pháp chung thường được sử dụng để hạn chế mức độ thông tin bất cân
xứng là: Cơ chế phát tín hiệu, Cơ chế sàng lọc, cơ chế giám sát.
4.1. Cơ chế phát tín hiệu (Signaling)
Michael Spence chỉ ra được cơ chế phát tín hiệu: bên có nhiều thơng tin có thể
phát tín hiệu đến những bên ít thơng tin một cách trung thực và tin cậy.
Spence lấy ví dụ trong thị trường lao động. Người bán trên thị trường lao động
là những ứng cử viên đi xin việc và người mua là nhà tuyển dụng. Nhà tuyển dụng
không thể trực tiếp quan sát các khả năng của ứng cử viên mà chỉ có thể đánh giá gián
tiếp thơng qua bằng cấp, kinh nghiệm,…của họ. Đó được gọi là những tín hiệu được
phát ra cuả người lao động. Như vậy việc phát tín hiệu này đã làm giảm thơng tin bất
cân xứng giữa những người lao động và ông chủ.
4.2. Cơ chế sàng lọc (Screening)
Stiglitz đặt ra vấn đề là bản thân những người có ít thơng tin hơn cũng có thể tự
cải thiện tình trạng của mình thơng qua cơ chế sàng lọc. Bên có ít thơng tin hơn có thể
thu thập thơng tin từ bên kia bằng cách đưa ra các điều kiện giao dịch hợp đồng khác
nhau.
Ông lấy ví dụ bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như
chất lượng khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần phải phân loại chúng. Đối với lao
động cũng có lao động có khả năng, tay nghề cao và lao động có khả năng tay nghề
thấp. Vì vậy khơng thể trả lương theo một mức lương chung. Để khuyến khích người


có khả năng cao, tạo ra năng suất lao động cao thì cần phải trả lương cao để khuyến
khích họ. Đối với người có khả năng thấp, việc cố gắng đạt được một năng suất sản
xuất để nhận được lương cao sẽ tốn chi phí rất lớn so với người có khả năng cao. Vì
vậy việc phân nhóm lao động để trả lương là việc làm cần thiết để khuyến khích
những người có khả năng nâng cao trình độ và mang lại hiệu qủa cao cho xã hội.
4.3. Cơ chế giám sát
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm sốt tâm lý ỷ lại, cơ chế

bao gồm giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp.
Giám sát trực tiếp: Bên có ít thơng tin hơn sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được kiểm
sốt thơng tin đối với bên kia, cơ chế giám sát này sẽ tốn nhiều chi phí và sức lực.
Giám sát gián tiếp: là việc một bên trong giao dịch thiết kế hợp đồng sao cho
bên kia cảm thấy khơng có động cơ để thực hiện những hành vi đi ngược lại lợi ích
của anh ta, và khiến bên kia cảm thấy rằng việc tn thủ các điều khoản sẽ có lợi cho
mình. Trong hợp đồng có thể thiết kế các điều khoản hạn chế để ngăn cản bên kia
tham gia vào các hoạt động có độ rủi ro cao, hạn chế vấn đề rủi ro đạo đức.

PHẦN II:
VẬN DỤNG LÝ THUYẾT ĐỂ GIẢI THÍCH HIỆN TƯỢNG NỢ XẤU
TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM
Nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng nợ xấu là do các ngân hàng khơng có đầy
đủ thơng tin từ phía khách hàng của mình mặc dù các NHTM đã có rất nhiều nỗ lực
trong cơng tác thẩm định và do hạn chế chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp.
Nói một cách đơn giản, là do cơ chế sàng lọc chưa đủ hiệu quả nên các ngân hàng đã
để "lọt" những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin của họ trong


giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao. Vấn đề thơng tin bất cân
xứng là nguyên nhân gây ra những trục trặc trong hoạt động tín dụng của hệ thống
NHTM. Do đó, để đảm bảo an tồn trong hoạt động tín dụng của mình, bản thân các
tổ chức tín dụng phải xử lý thơng tin bất cân xứng để hạn chế sai lệch và rủi ro, nhằm
cho vay đúng người, đúng đối tượng và giám sát chặt chẽ để khách hàng vay vốn có
hành vi đúng đắn, nhằm đảm bảo việc thu hồi cả gốc và lãi tín dụng đã cấp.
1. Tình hình hoạt động tín dụng của các NHTM trong những năm qua
Với quyết tâm cao của ngành Ngân hàng và các NHTM, lãi suất cho vay bình
quân của hệ thống ngân hàng thương mại giảm nhanh từ 18,2% năm 2011, xuống
dưới 9% năm 2016. Cùng với việc giảm lãi suất, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
có nhiều chính sách tích cực để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh

tế, mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến ở mức 6-7%/năm đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi
suất cho vay ngắn hạn của các NHTM chỉ cịn 4-5%/năm.
2. Ngun nhân thực trạng thơng tin bất cân xứng trong hoạt động tín
dụng của các NHTM
2.1. Nguyên nhân từ hệ thống ngân hàng:
Quá nhiều chi nhánh ngân hàng TM trên địa bàn với vốn tự có ít, cạnh tranh
trong cho vay, dễ dãi trong việc cấp tín dụng, thiếu sự chặt chẽ, khoa học, lập hồ sơ
cho vay hồn tồn khơng có căn cứ, khơng thẩm định thực tế mà chỉ dựa vào thông
tin do doanh nghiệp cung cấp, bỏ qua các điều kiện về giải ngân như tài sản đảm bảo,
giá trị tiền cho vay…
2.2. Nguyên nhân con người bao gồm cán bộ NHTM và người đi vay: Nhiều
vụ việc xảy ra một phần là do chính cán bộ ngân hàng móc nối với khách hàng
lừa gạt ngân hàng, khơng chỉ cán bộ tín dụng mà cịn có cả những cán bộ lãnh
đạo. Những vụ việc như vậy thường gây hậu quả lớn hơn nhiều so với những
vụ việc khách hàng thực hiện lừa gạt đơn lẻ.


3. Giải pháp giúp các ngân hàng tìm được “đúng” khách hàng, “đúng” dự
án và khách hàng thực hiện “đúng” những hành động như đã cam kết với ngân
hàng, cần thiết phải có các giải pháp sau:
3.1. Phát triển ngành Kiểm toán
Khi ngành Kiểm toán phát triển chuyên sâu, cán bộ kiểm tốn có năng lực và
phẩm chất. Một đội ngũ nhân viên kiểm tốn tốt sẽ khơng chỉ giúp ngân hàng xác
minh các báo cáo tài chính, mà cịn có thể đưa ra những tư vấn, nhìn nhận và định
hướng phát triển, giúp các doanh nghiệp có những quyết định tối ưu, đem lại lợi
nhuận trong tương lai.
3.2. Sử dụng hệ thống thơng tin tín dụng
CIC đã cung cấp một số sản phẩm hiện hành riêng dành cho các tổ chức tín
dụng muốn thẩm định về khách hàng của mình. Với những lợi thế của mình, Trung

tâm thơng tin tín dụng CIC là một tổ chức có khả năng đáp ứng các điều kiện này.
Khả năng trong thời gian tới, CIC sẽ là một cơ quan cung cấp thông tin và xếp hạng
tín dụng khách hàng đáng tin cậy làm nền tảng cho một hạ tầng thông tin tốt phục vụ
cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng ở Việt Nam.
Bên cạnh việc sử dụng hệ thống thông tin đánh giá chung, các ngân hàng cũng
nên tự xây dựng cho mình cơ chế riêng trong việc đánh giá và thẩm định khách hàng
của mình, đồng thời thường xuyên cập nhật thơng tin liên quan từ bên ngồi. Trên cơ
sở nắm đầy đủ thông tin về các khách hàng từ nhiều phía, các ngân hàng có thể hạn
chế rủi ro do lựa chọn sai lệch nảy sinh từ vấn đề thông tin bất cân xứng.
3.3. Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo
Để tránh tình trạng khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn ở
nhiều ngân hàng, các cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo đã được thành lập như: Cơ
quan đăng ký giao dịch đảm bảo quốc gia và chi nhánh; Cơ quan đăng ký tàu biển và
thuyền viên khu vực; Sở Tài ngun mơi trường... Ngồi ra, việc đưa ra các điều kiện
về giá trị tài sản ròng cũng rất cần thiết. Giá trị tài sản rịng ở đây được tính bằng cách
lấy tổng tài sản trừ đi tổng nợ. Như vậy, chỉ những cá nhân hay doanh nghiệp nào có


đủ tài sản mới được xem xét cho vay. Nguy cơ rủi ro đạo đức sẽ giảm xuống bởi
người đi vay có thể bị kiện và cưỡng chế nếu khơng trả nợ đúng hạn.
3.4. Nâng cao kỹ thuật phân tích và thẩm định dự án
Như cơ chế truyền thống, nhân viên kinh doanh vừa là người trực tiếp gặp
khách hàng, tổng hợp hồ sơ, vừa là người thẩm định. Điều này làm gia tăng các khoản
nợ xấu trong ngân hàng bởi bản thân nhân viên phải chịu gánh nặng chỉ tiêu, lại đồng
thời là người duyệt khoản vay.
Các ngân hàng nên thực hiện phân chia lại chức năng. Nhân viên kinh doanh
chỉ thực hiện chức năng lập hồ sơ kinh doanh của khách hàng và sẽ có một bộ phận
chuyên thẩm định dự án đưa ra phán quyết giải ngân. Điều này giúp thắt chặt hệ
thống, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng vì nhân viên thẩm định là người không bị áp
đặt chỉ tiêu cũng như không phải người tiếp xúc trực tiếp khách hàng nên khó có thể

bị tác động như nhân viên kinh doanh.
Sau khi hoàn thành thẩm định, sẽ có một bộ phận chuyên chức năng hoàn thiện
hồ sơ sau phán quyết và đây cũng là bộ phận khơng tiếp xúc khách hàng. Sẽ có một
ban kiểm sốt nội bộ chun chức năng thẩm tra tính tuân thủ quy định về hồ sơ trong
ngân hàng. Thêm vào đó, ngân hàng cần thành lập hội đồng tín dụng cùng giải quyết
hồ sơ xin vay, cũng như hạn chế hạn mức cấp tín dụng của người có thẩm quyền cấp
tín dụng.
Để mơ hình trên có thể đi vào hoạt động một cách hiệu quả, cần nâng cao
chuyên môn của từng nhóm cán bộ. Có nhiều cách để thực hiện điều này như tổ chức
lớp học cho cán bộ nâng cao chuyên môn, hay tạo điều kiện cho cán bộ giỏi đi học tập
cách thức hoạt động ở các ngân hàng nước ngoài,…
3.5. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá khách hàng
- Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực khách hàng
Việc đặt ra các tiêu chuẩn đánh giá năng lực và trình độ của khách hàng vẫn là
cần thiết, nhằm đánh giá chuẩn xác hơn, đầy đủ và tổng quan hơn về khách hàng


nhằm giảm thiểu rủi ro cho bản thân ngân hàng trong q trình thẩm định hồ sơ tín
dụng.
- Các tiêu chuẩn phân tích báo cáo tài chính
Bên cạnh việc sử dụng báo cáo tài chính nội bộ của doanh nghiệp hay thông tin
của trung tâm CIC làm cơ sở thẩm định để cấp phát tín dụng, ngân hàng cũng nên
tham khảo những loại báo cáo tài chính khác như báo cáo thuế hoặc báo cáo tài chính
nội bộ nhưng phải có xác nhận của cơ quan thuế.
- Các tiêu chuẩn khác ứng với từng hoàn cảnh thực tế
Các ngân hàng nên đưa ra những quy định cụ thể trong việc cấp vốn vay. Ví dụ
như:
- Giấy tờ có giá có cơng chứng để nộp hồ sơ xin vay chỉ có giá trị nếu được
công chứng trong khoảng thời gian nhất định (4-6 tháng) tính từ thời điểm xin vay.
- Giới hạn cho vay với một số lĩnh vực đặc biệt như đầu tư chứng khoán, bất

động sản hay vay mua hàng hóa xa xỉ.
- Hạn chế những khoản vay khó kiểm soát, thanh tra mà cụ thể là những khoản
vay nằm ngoài địa bàn của ngân hàng.
3.6. Thắt chặt kiểm tra trong quá trình cho vay và nội bộ ngành Ngân hàng
Kiểm tra chặt chẽ quá trình trước, trong và sau khi cho vay để kịp thời có biện
pháp xử lý nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Khi khách hàng có dấu
hiệu phát sinh nợ xấu, phải tìm ngun nhân để có giải pháp thích hợp và tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành Ngân hàng.


PHẦN III:
VẬN DỤNG LÝ THUYẾT ĐỂ GIẢI THÍCH HIỆN TƯỢNG
TÍN DỤNG PHI CHÍNH THỨC TRONG NỀN KINH TẾ
Tín dụng phi chính thức là nguồn thu quan trọng nhất của hoạt động tội phạm
có tổ chức, bên cạnh nguồn thu từ đánh bạc. Các khoản thanh toán phải được trả vào
ngày giờ xác định, sự chậm trễ trong việc trả nợ có thể sẽ dẫn đến một mức lãi suất
cao hơn thậm chí là sự truy địi gắt gao.
1. Khái niệm và đặc trưng tín dụng đen
Tín dụng phi chính thức được hiểu chung là các hình thức vay vốn ngồi sự
quản lý và giám sát của các cơ quan quản lý về tài chính tiền tệ, gồm cho vay của các
cá nhân, cho vay thơng qua các hình thức hụi, họ, phường, hoặc cho vay của gia đình,
bạn bè, người thân (Nguyễn Kim Anh và cộng sự, 2017). Một cách đơn giản hơn thì
tín dụng phi chính thức là các khoản tín dụng sau khi đã loại đi tín dụng chính thức và
bán chính thức.
Đối với tín dụng phi chính thức, thì một phần cần quan tâm là tín dụng đen - vì
đây là các khoản mục gây ảnh hưởng nhiều nhất đến các hộ kinh doanh cá thể - đặc
biệt tại vùng nông thôn bởi những ảnh hưởng tiêu cực của nó (Ledgerwood và cộng
sự, 2013).



Theo Nugent (1941) thuật ngữ “tín dụng đen” thường được sử dụng để mô tả
những người cho vay những khoản vay nhỏ, thời hạn cho vay và trả nợ ngắn với mức
phí cao hơn so với luật pháp cho phép. Tại thời điểm nghiên cứu, “tín dụng đen” được
liên hệ hồn tồn với những khoản vay cho người làm cơng ăn lương. Người cho vay
thường yêu cầu chứng từ chuyển nhượng tiền lương của người đi vay để có quyền
nhận tiền lương của người đi vay trong trường hợp vỡ nợ. Những yếu tố làm cho hình
thức cho vay này phát sinh gồm có lịng tham của người cung cấp các khoản vay, sự
cả tin của người sử dụng và sự cấp thiết buộc người vay tìm đến tín dụng đen.
Nhóm các nghiên cứu Miller (1966), Kaplan và Matteis (1968), Shergold
(1978) đều cho rằng tín dụng đen là việc cho vay với tỷ lệ cao hơn giới hạn theo quy
định của pháp luật hoặc định mức được xã hội chấp nhận. Đây là nguồn thu quan
trọng nhất của hoạt động tội phạm có tổ chức, bên cạnh nguồn thu từ đánh bạc. Các
khoản thanh toán phải được trả vào ngày giờ xác định, sự chậm trễ trong việc trả nợ
có thể sẽ dẫn đến một mức lãi suất cao hơn thậm chí là sự truy địi gắt gao. Ngồi ra,
những kẻ cho vay nặng lãi đã thâm nhập được cả vào các ngân hàng và doanh nghiệp
hợp pháp; “núp bóng” các tổ chức này để tiếp tục mở rộng các hoạt động phi pháp.
Với cách hiểu như vậy, có thể thấy ba đặc điểm quan trọng của tín dụng đen là:
- Nằm ngồi hệ thống các tổ chức tài chính được cấp phép
- Lãi suất cao
- Gắn với các hành vi vi phạm pháp luật.
2. Cơ sở tồn tại của tín dụng phi chính thức
Trong hoạt động cho vay, lý thuyết thơng tin bất cân xứng giải thích về rủi ro
đạo đức và lựa chọn đối nghịch trong quan hệ tín dụng, tạo nên mối quan hệ lợi nhuận
và rủi ro của các tổ chức tài chính/ người cho vay. Lựa chọn đối nghịch là tình huống
thơng tin khơng cân xứng xuất hiện trước khi giao dịch được thực hiện: Những người
đi vay rủi ro cao lại là những người tích cực trong việc tìm kiếm khoản vay. Ví dụ,
những người liều lĩnh hay có động cơ lừa đảo thường là những người hăm hở chấp


nhận khoản vay, bởi vì họ biết rõ khả năng trả lại khoản vay là khơng có hoặc khó có

thể xảy ra. Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thơng tin hiểu được tình thế
thơng tin phi đối xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành
động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên
kém ưu thế thơng tin. (ví dụ đặt lãi suất cao, yêu cầu tài sản đảm bảo, cách tính lãi
gộp, địi nợ bạo lực…)
3. Hạn chế tín dụng đen
3.1. Trấn áp tội phạm
Tín dụng phi chính thức được hiểu/ được xếp vào hoạt động bất hợp pháp.
Đằng sau lãi suất cao là các hành vi nguy hiểm đối với tính mạng, sức khỏe và tài sản
của người vay. Phần lớn các tổ chức cung cấp tín dụng phi chính thức đều/ có nguy cơ
cao gây ra tội phạm hình sự. Do vậy, trấn áp loại tội phạm này là biện pháp quan
trọng nhất để hạn chế tín dụng phi chính thức. Thực tế cho thấy, khi cơ quan cơng an
trấn áp mạnh tội phạm tín dụng phi chính thức, hoạt động này sẽ giảm xuống.
3.2. Thiết lập cơ chế minh bạch hơn về chi phí giao dịch
Chi phí giao dịch trong cho vay dưới chuẩn rất cao, tuy nhiên lại không được
thông tin rõ ràng. Nhà nước có qui định các tổ chức tài chính được cấp phép phải quy
định rõ các chi phí phát sinh. Tuy nhiên đối với các của hàng cầm đồ qui định này lại
không được áp dụng triệt để.
- Yêu cầu minh bạch thơng tin về hoạt động kinh doanh: tồn bộ người vay và
tài sản đảm bảo đều phải được ghi chép và báo cáo; ngồi lãi suất, các chi phí khác
mà người vay phải trả phải được công bố công khai (tại cửa hàng và trên website).
- Quy chuẩn hợp đồng dân sự trong quan hệ tín dụng: nhiều người vay trong
trường hợp vay cấp bách không am hiểu/ hoặc khơng kịp tìm hiểu về các nội dung
của hợp đồng vay mượn.


- Nghiêm cấm quảng cáo sai: các cách thức tính lãi phải được cơng bố, các loại
chi phí phải được nêu rõ trong hợp đồng; phải khuyến nghị các bất lợi cho người vay
(giống như ghi lên bao thuốc lá là hút thuốc gây ưng thư)…
- Ghi rõ cách thức đòi nợ: như bán tài sản đảm bảo (nếu cho vay cầm cố), đề

nghị phong tỏa tiền gửi tại các ngân hàng, kiện ra tòa. Các cách thức đòi nợ đều phải
được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.
- Thu hồi giấy cơ sở kinh doanh của chủ cơ sở có hoạt động tội phạm.
3.3. Tăng cung tín dụng tiêu dùng
Tín dụng phi chính thức đáp ứng nhu cầu tín dụng của một số nhóm người nhất
định trong xã hội. Theo TS.Cấn Văn Lực dẫn số liệu của StoxPlus cho thấy, 47%
người Việt có tham gia vay tiền nhưng chỉ có 18,5% là vay từ những tổ chức tín dụng,
ngồi ra là vay từ người thân, bạn bè, hoặc tín dụng phi chính thức.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, đến 2018, tại Việt nam có 5 nhóm thu
nhập. Hiện tại, các NHTM cho vay tiêu dùng trên chuẩn đối với nhóm 4, nhóm 5;
Ngân hàng chính sách xã hội cho vay người nghèo, cận nghèo nhóm 1 và 1 phần thu
nhập thấp của nhóm 2. Vậy nhu cầu tín dụng của nhóm 3 và phần thu nhập cao của
nhóm 2 thì ai sẽ đáp ứng?
Theo quy luật cung cầu, nếu tăng cung tín dụng tiêu dùng sẽ góp phần giảm lãi
suất của tín dụng phi chính thức. Để tăng nguồn cung, cần thay đổi mức trần lãi suất.
Với cơ chế tổn tại của tín dụng phi chính thức như trên, việc tạo cơ chế để các
tổ chức tài chính chính thức cung cấp tín dụng nhanh, thuận tiện cho một số nhóm
khách hàng dưới chuẩn phải giải quyết được các vấn đề sau:
- Cho phép cho vay với các đối tượng dưới chuẩn (mục tiêu vay hợp pháp):
người vay cần tiền gấp cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân, người có thu nhập thấp, nghèo,
người có thu nhập không ổn định, sinh viên, lao động tự do, kinh doanh nhỏ…;
- Cho vay món nhỏ với lãi suất cao để bù đắp chi phí;


- Giảm bớt điều kiện vay vốn (nếu vay cầm cố chỉ cần không sử dụng tiền cho
hoạt động bất hợp pháp). Điều kiện vay vốn là do tổ chức tài chính cơng bố;
- Cho phép tổ chức tài chính bán tài sản cầm cố theo thỏa thuận với người vay;
- Cho phép áp dụng các phương pháp đòi nợ được thỏa thuận với người vay và
ghi trong hợp đồng.
4. Kết luận

Tín dụng phi chính thức là một hình thức tín dụng tồn tại và phát triển trong
điều kiện nghèo đói, tệ nạn, và hoạt động kinh tế ngầm, cũng như có hạn chế trong
hoạt động của các tổ chức tài chính chính thức. Mở rộng tín dụng là hoạt động thường
xuyên của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên việc mở rộng tín dụng dưới chuẩn sẽ đẩy
rủi ro lên cao. Do vậy để hạn chế tín dụng phi chính thức, cần ưu tiên hoạt động trấn
áp tội phạm. Các tổ chức tín dụng chính thức nếu phát triển tín dụng dưới chuẩn cần
xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tương ứng nhằm đảm bảo an toàn hệ thống.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu về lý thuyết bất cân xứng thông tin này mang lại cho nhóm chúng
tơi rất nhiều hữu ích nhưng cũng đầy khó khăn, thử thách.


Mặc dù với tinh thần làm việc nghiêm túc và sự nỗ lực cao của mỗi thành viên
nhưng vì thời gian ngắn, nguồn tài liệu hạn chế, sự phối hợp các thành viên khó khăn
và do cả khả năng, kinh nghiệm của nhóm cịn hạn chế nên khơng phải mọi vấn đề
liên quan đến đề tài đã được trình bày đầy đủ với sự sâu sắc cần thiết và cũng khơng
thể tránh khỏi sai sót trong phân tích, nhận định vấn đề và rút ra bài học.
Vì vậy chúng tơi rất mong nhận được nhiều góp ý để đề tài này được mổ xẻ,
nhìn nhận thấu đáo hơn đồng thời giúp chúng tơi ngày càng tiến bộ hơn trong q
trình luyện tập kỹ năng cần thiết của những học viên cao học.



×