Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng cương lĩnh đó vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.23 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
--------------------------

BÀI THẢO LUẬN
BỘ MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Giảng viên:

Lại Quang Mừng

Lớp:

2142HCMI0121

Khoa:

Quản trị kinh doanh

Nhóm:

6

Hà Nội 2021


Tiểu Luận
Mơn học:

Chủ nghĩa xã hội khoa học


Lớp:

2142HCMI0121

Nhóm:

6

Giảng viên: Lại Quang Mừng
Đề tài: “Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng cương
lĩnh đó vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay.”
Thành viên nhóm:
STT
1
2

Họ và Tên
Lê Thị Phương
Nguyễn Thị Phương

3

Ngơ Thị Hồng Phượng

4

Nguyễn Bá Thị Phượng

5


Lê Đình Qn

6

Phạm Anh Quân

7

Lưu Minh Quang

8

Nguyễn Thúy Quỳnh

9

Nguyễn Tiến Sỹ

10

Trần Văn Thái

Nhóm trưởng:

Ngô Thị Hồng Phượng

Email:




Sđt:

0968932320

Mã sinh viên
20D100251
20D100321
20D100252
20D100322
20D100253
20D100323
20D100344
20D100254
20D100255
20D100260


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................1
2. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài......................................................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................2
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.................................3
6. Kết cấu của đề tài..........................................................................................3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC VÀ CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC CỦA LÊNIN..........................4
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc..............................................................4
1.1 Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc...................................................4

1.2 Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc..................6
2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin.........................................7
Kết luận:...............................................................................................................8
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN VÀO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY.........................................................10
1. Đặc điểm dân tộc Việt Nam........................................................................10
1.1.Đặc điểm dân tộc.........................................................................................10
1.2.Thực tiễn vấn đề dân tộc hiện nay.............................................................12
2. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay – sự vận dụng
sáng tạo, linh hoạt cương lĩnh dân tộc của Lênin...........................................14
2.1.Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay......................14
2.2.Hệ quả của việc vận dụng đường lối, chính sách dân của Đảng và Nhà
nước .................................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................30



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình lâu dài của xã hội loài người. Trước
khi xuất hiện, loài người trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất: Một là, dân tộc chỉ
một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế
chung, có ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ
tộc. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia – quốc gia nhiều dân
tộc. Hai là, dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước,
có lãnh thổ, có quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về
sự thống nhất quốc của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế,

truyền thống, văn hóa và truyền thống đấu tranh chung suốt quá trinh lịch sử lâu
dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là tồn bộ nhân dân của quốc
gia đó – quốc gia dân tộc. Qua đây ta thấy rằng dân tộc có một vị trí quan trọng
trong đời sống chính trị - xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt là các vấn đề về dân
tộc. Nó ảnh hưởng đến sự ổn định, tồn tại và phát triển của nhà nước, thể chế
chính trị ở quốc gia đó nếu khơng được giải quyết đúng đắn. Việt Nam là một
quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em sống chan hòa trên dãy đất hình chữ
S thân thương. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc
anh em cùng đoàn kết chung tay xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng xinh
tươi, giàu đẹp và khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Do vậy các vấn đề về
dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng, dành sự quan tâm đúng mực
với tầm quan trọng của nó, đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập quốc tế thì vấn đề
này càng được chú trọng. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta ln có những quan điểm xun suốt,
nhất qn về cơng tác dân tộc và chính sách dân tộc, đặc biệt là “cương lĩnh dân

1


tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng cương lĩnh đó vào việc thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.”
2. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài
-

Dân tộc và đặc trưng cơ bản của dân tộc?

-

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin?


-

Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam?

-

Sự vận dụng cương lĩnh đó vào thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta

như thế nào?
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài nghiên cứu này là nâng cao hiểu biết về dân tộc,
các đặc trưng của dân tộc, hai xu hướng khách quan của sự phát triển của quan
hệ dân tộc, cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt và sự vận
dụng linh hoạt cương lĩnh đó vào chính sách dân tộc ở nước ta như thế nào, đem
lại cho nước ta những thành tựu gì và hạn chế của nó. Để đạt được mục đích
nghiên cứu, nội dung của đề tài phải trả lời các câu hỏi nghiên cứu chính sau:
-

Quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc, mối quan

hệ dân tộc và nội dung chính sách dân của Đảng và Nhà nước Việt Nam được
thể hiện như thế nào?
-

Tầm quan trọng của vấn đề dân tộc đối với sự nghiệp Cách mạng của

toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện qua những
khía cạnh nào?
-


Cần làm gì để góp phần tun truyền và thực hiện chủ trương, chính

sách, về dân tộc của Đảng, Nhà nước ta?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phân tích nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ
nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng của nó vào chính sách dân tộc ở nước ta hiện
nay.
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
hiện nay.
2


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học: Thấy rõ tính khoa học trong quan điểm và cách thức giải
quyết vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Nhận thức được tầm quan trọng về vấn đề dân tộc, đề ra
các chính sách dân tộc hợp lý cho Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài được thiết kế thành 2 chương:
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và
cương lĩnh dân tộc của Lênin.
Chương 2: Vận dụng cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin vào
việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

3


CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC CỦA LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc

1.1 Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lenin, dân tộc là cộng đồng người
được hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của xã hội lồi người trải qua
các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự
biến đổi của phương thức sản xuất là nguyên nhân quyết định nhất đến sự biến
đổi của cộng đồng dân tộc.
Ở phương Tây, dân tộc được hình thành khi phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa được xác lập thay thế vai trò của phương thức sản xuất phong kiến. Ở
phương Đơng, dân tộc được hình thành trên cơ sở văn hóa, một tâm lý dân tộc
đã phát triển tương đối chín muồi và một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một
mức độ nhất định song nhìn chung cịn kém phát triển và ở trạng thái phân tán.
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
Thứ nhất, Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã
hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:


Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế . Đây là đặc trưng quan trọng

nhất của dân tộc và là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo
nên nền tảng vững chắc của dân tộc.


Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt, bao gồm cả vùng đất,

vùng biển, hải đảo, vùng trời thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc và thường
được thể chế hóa thành luật pháp quốc gia, quốc tế. Vận mệnh dân tộc một phần
rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc.


Có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước – dân tộc độc lập.




Có ngơn ngữ chung của quốc gia làm cơng cụ giao tiếp trong xã hộc và

trong cộng đồng.

4




Có nét tâm lý biểu hiện quan nền văn háo dân tộc và tạo nên bản sắc

riêng của nền văn hóa dân tộc.
Thứ hai, Dân tộc – tộc người (ethnies). Ví dụ dân tộc Tày, Thái, Ê Đê, ... ở
Việt Nam hiện nay.
Theo nghĩa này, dân tộc là cộng đồng người được hình thành lâu dài trong
lịch sử và có 3 điểm đặc trưng cơ bản sau:
 Cộng đồng về ngơn ngữ (ngơn ngữ nói, ngơn ngữ viết hoặc chỉ riêng
ngơn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản đề phân biệt các tộc người khác nhau và là
vấn đề ln được các dân tộc coi trọng giữ gìn, tuy nhiên, vì nhiều lí do khác
nhau, có những tộc người khơng cịn ngơn ngữ mẹ đẻ mà sử dụng ngơn ngữ
khác làm công cụ giao tiếp.
 Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể,
phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập qn, tín ngưỡng, tơn giáo của
tộc người. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với truyền thống văn hóa
của họ. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn háo vẫn song song tồn tại xu thế
bảo tổn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người.
 Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định

một tộc người và có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc
người. Đặc trưng nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh
của dân tộc mình; đó cịn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi
tộc người dù cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay
tác động làm ảnh hưởn của giao lưu kinh tế, văn hóa...
Ba tiêu chí này tạo nên sự ổn định trong mỗi tộc người trong quá trình phát
triển. Đồng thời căn cứ vào ba tiêu chí này để xem xét và phân định các tộc
người ở Việt Nam hiện nay.
Trong một quốc gia có nhiều tộc người, căn cứ vào số lượng của mỗi cộng
đồng, người ta phân thành tộc người đa số và tộc người thiểu số. Cách gọi này
khơng căn cứ vào trình độ của mỗi cộng đồng.

5


Như vậy, khái niệm dân tộc cần phải được hiểu theo hai nghĩa khác nhau.
Thực chất, hai vấn đề này tuy khác nhau nhưng lại gắn bó rất mật thiết với nhau
và không thể tách rời nhau.
1.2 Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Nghiên cứu vấn đề dân tộc, V.I.Lenin, phát hiện ra hai xu hướng khách
quan trong sự phát triển quan hệ dân tộc.
Xu hướng thứ nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng
đồng dân tộc độc lập. Nguyên nhân là do sự thức tỉnh, sự trưởng thành về ý thức
dân tộc, ý thức về quyền sống của mình các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra
để thành lập các dân tộc độc lập.
Xu hướng này thể hiện rõ nét phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc
của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc muốn thốt khỏi sự áp bức, bóc lột của
các nước thực dân, đế quốc.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng, thậm chí các dân tộc ở các dân
tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong

giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc đi bóc lột thuộc
địa, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của
giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bẩn chủ nghĩa đã làm xuất hiện nhu
cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại
gần nhau.
Trong thời đại ngày nay, hai xu hướng này diễn ra với những biểu hiện rất
đa dạng và phong phú.
Xu hướng này thể hiện trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của
các dân tộc bị áp bức nhằm xóa bỏ ách đơ hộ của thực dân đế quốc, khẳng định
quyền tự quyết định dân tộc, hoặc đấu tranh để thốt khỏi sự kì thị dân tộc phân
biệt dân tộc, hoặc đấu tranh để thoát khỏi tình trạng bị đồng hóa cưỡng bức của
dân tộc nhỏ dưới ách áp bức của các nước tư bản chủ nghĩa. Ví dụ phong trào
này đã diễn ra mạnh mẽ vào những năm 60 của thế kỉ XX và kết quả của khoảng
100 quốc gia đã giành được độc lập dân tộc.
6


Ngày nay, xu hướng xích lại gần nhau thể hiện ở sự liên minh của các dân
tộc trên cơ sở lợi ích chung về kính tế chính trị, văn hóa ,quân sự,... để hình
thành các hình thức liên minh đa dạng, như liên minh khu vực: ASEAN, EU,...
2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
Cộng đồng dân tộc với tính cách là quốc gia dân tộc xuất hiện khi xã hội có
sự phân chia giai cấp. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trở thành một trong
những mối quan hệ chính trị cơ bản trong xã hội. Dựa trên quan điểm của C.Mác
và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. dựa vào
kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, thực tiễn cách mạng nước Nga
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, khôi phục và thống nhất dựa vào kinh
nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, thực tiễn cách mạng nước Nga trong
việc giải quyết vấn đề dân tộc, khôi phục và thống nhất. V.I.Lênin đã xây dựng
“Cương lĩnh dân tộc”. Nội dung cơ bản của “Cương lĩnh dân tộc” thể hiện ở

những nội dung cơ bản sau:
Một là: Các dân tộc hồn tồn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn
nhỏ, ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi
ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được
giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa.
Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, khơng một dân tộc
nào có quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân
tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp lí, nhưng quan
trọng hơn nó phải thực hiện trên thực tế.
Để thực hiện được quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình
trạng áp bức giai cấp, trên cơ sở đó xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc, phải đấu
tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hữa nghị hợp tác giữa các dân tộc.
Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết
7


Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình,
quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân
tộc đọc lập, đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở
bình đẳng.Tuy nhiên việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ
thực tiễn – cụ thể và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân,đảm
bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và giai cấp công nhân.V.I.Lenin đặc biệt
chú trọng quyền tự quyết của dân tộc bị áp bức, các dân tộc phụ thuộc.
Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với “quyền” của các dân tộc
người thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc
gia độc lập .Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế

lực phản động, thù địch lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào
công việc nội bộ của các nước, hoặc kích động địi li khai dân tộc.
Ba là: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Đồn kết, liên hiệp cơng nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết
các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.Vì vậy, nội dung này vừa
là nội dung chủ yếu vừa là giải pháp quan trọng để liên kết các nội dung của
Cương lĩnh dân tộc thành một chính thể
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Leenin là cơ sở lý luận quan trọng
để các Đảng cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kết luận:
Chương 1 đã cung cấp đầy đủ cơ sở lý thuyết về dân tộc, đặc biệt là
“Cương lĩnh dân tộc” của Lênin. Qua đây ta hiểu sâu sắc hơn về dân tộc, các
vấn đề về dân tộc và đặc biệt là “Cương lĩnh dân tộc” của Lênin ta có thể vận
8


dụng vào thực tiễn ở Việt Nam. Để biết và hiểu rõ hơn việc vận dụng vào nước
ta thì chúng ta phải nêu rõ đặc điểm dân tộc ở Việt nam, thực tiễn vấn đề và các
chính sách cụ thể. Điều này được thể hiện trong chương 2 của đề tài.

9


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN

TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Đặc điểm dân tộc Việt Nam
1.1.Đặc điểm dân tộc
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là một quốc gia độc lập, một quốc gia đa
sắc tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Nước ta là
quốc gia đa dân tộc và có nhiều đặc điểm quan trọng, nổi bật. Trong đó cần chú
ý các đặc điểm sau:
Thứ 1: Có sự chênh lệch về số dân giữa các dận tộc người
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc người Kinh chiếm đại đa số
85,7% dân số cả nước; 53 dân tộc khác, dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14,3% dân
số. Tỷ lệ giữa các dân tộc cũng khơng đồng đều, có dân tộc với dân số lớn hơn 1
triệu người ( Tày, Thái, Mường, Khơ Me, ...), nhưng có những dân tộc chỉ có vài
trăm (Si la, Pu péo, Brâu, Ơ đu ). Việc phân bố khơng đồng đều sẽ dẫn đến gặp
rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hóa
dân tộc, duy trì phát triển nịi giống. Và với những dân tộc ít người đang được
đảng và nhà nước có những chính sách quan tâm đặc biệt.
Thứ 2: Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đơng Nam Á.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Các dân
tộc khơng có lãnh thổ riêng, khơng có nền kinh tế riêng. Và sự thống nhất giữa
các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng
cố. Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện để các dân tộc tăng cường hiểu biết lẫn
nhau, mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên một nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người sống xen kẽ trong
quá trình sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột tạo kẽ hở để các thế lực

10


thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh chính trị và sự thống nhất của

đất nước.
Thứ 3: Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có
vị trí chiến lược quan trọng
Mặc dù chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng dân tộc thiểu số Việt Nam lại cư
trú trên ¾ diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia ( về kinh
tế, an ninh, quốc phòng, ...) – đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa
của đất nước.
Thứ 4: Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển khơng đều
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột
trong lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc còn chênh
lệch, khác biệt. Về phương diện xã hội trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội
của các dân tộc khác nhau. Về phương diện kinh tế, có thể phân loại các dân tộc
thiểu số Việt Nam ở những trình độ khác nhau: Một số ít các dân tộc cịn duy trì
kinh tế chiếm đoạt, dựa vào khai thác tự nhiên; tuy nhiên đại bộ phận đại bộ
phận các dân tộc ở Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bộ, tiến
hành cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đây là một đặc trưng cần hết sức
quan tâm nhằm thực hiện bình đẳng, đồn kết dân tộc ở nước ta.
Thứ 5: Các dân tộc sinh sống trên đất nước ta có truyền thống đồn
kết gắn bó lâu đời trong cộng đồng dân tộc – quốc gia thống nhất
Tính cố kết dân tộc, hịa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở
thành truyền thống của dân tộc VN trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng đất nước. Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống
quý báu của các dân tộc Việt Nam, là một trong những nguyên nhân và động lực
quyết định mọi thắng lợi của dân tộc trong các giai đoạn lịch sử; đánh thắng mọi
kẻ thù xâm lược để giành độc lập thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, để thực hiện
thắng lơi chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, các dân
tộc thiểu số cũng như đa số phải ra sức phát huy nội lực, giữ gìn và phát huy

11



truyền thống đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu
và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ 6: Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự
phong phú đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam có đời sồng văn hóa mang bản sắc riêng, góp phần làm phong phú
thêm nên văn hóa của cộng đồng.
Đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam là có truyền
thống đồn kết gắn bó từ lâu đời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Do đặc
điểm lịch sử của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt và chống
giặc ngoại xâm, các dân tộc ở Việt Nam, thiểu số cũng như đa số tuy trình độ
kinh tế, văn hố, xã hội, phong tục tập quán, lối sống…khác nhau, nhưng đều có
chung truyền thống đồn kết thống nhất, tương thân tương ái, đồng cam cộng
khổ trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Tính đan xen giữa các tộc người
khác nhau đã tạo nên nét văn hóa đa dạng, phong phú trong lối sống, phong tục
tập quán của người Việt Nam ta. Mỗi dân tộc có một ngơn ngữ riêng, một số dân
tộc thiểu số có cả chữ viết riêng, nhưng đều lấy tiếng Việt làm phương tiện ngôn
ngữ giao tiếp thống nhất chung. Song từ xưa đến nay, vấn đề dân tộc luôn là vấn
đề rộng lớn, phức tạp và lâu dài, cần phải xem xét nó như là vấn đề chính trị, xã
hội rộng lớn, tồn diện gắn liền với mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.Thực tiễn vấn đề dân tộc hiện nay
Trong những năm gần đây, cộng đồng quốc tế đã có những đánh giá tích
cực về những thành tựu của cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam, đặc biệt là trên lĩnh
vực kinh tế - xã hội (KT - XH), trong đó có các vấn đề về dân chủ, nhân quyền,
tôn giáo và dân tộc. Quyền bình đẳng và sự đồn kết, gắn bó giữa các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam; sự phát triển, tiến bộ tích cực của các dân tộc
thiểu số ở nước ta dưới con mắt của bạn bè quốc tế, đã thực sự là nhân tố quan
trọng cho sự ổn định chính trị - xã hội (CT - XH) - tiền đề hết sức cần thiết để
tăng cường hội nhập kinh tế thế giới, phát triển toàn diện đất nước.

12


Tuy nhiên vẫn còn những thế lực định kiến, thiếu thiện chí, với nhiều âm
mưu và thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo, tình hình dân tộc, nhằm chống phá chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Để tạo nên 2 cuộc bạo loạn chính
trị ở một số nơi trên địa bàn Tây Nguyên vào năm 2002 và năm 2004, trước đó
các thế lực thù địch đã ráo riết tiến hành nhiều thủ đoạn kích động, xun tạc, lơi
kéo, ép buộc đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Cùng với việc rêu rao thành
lập cái gọi là “Nhà nước Đề Ga tự trị”, lợi dụng sự cả tin, sự hạn chế về dân trí
cũng như những khó khăn về đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên, chúng đã đưa ra những viễn cảnh viển vông về vật chất, về đất đai, nhà
cửa ở những miền “đất hứa” để lừa mỵ quần chúng, phục vụ cho mưu đồ phá
hoại. Một số phương tiện truyền thơng ở nước ngồi đã đồng thanh phụ hoạ, cổ
s cho sự bạo loạn ngay cả trước khi vụ việc xảy ra; đồng thời, còn dựng đứng
lên cái gọi là “đồng bào Thượng ở Tây Nguyên bị đàn áp”… Với những mưu đồ
xấu, bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, các thế lực thù địch đã khoét sâu vào
những khó khăn, hạn chế cả về thực trạng đời sống lẫn công tác tổ chức, điều
hành của chính quyền cơ sở trong q trình phát triển; lợi dụng những tồn đọng
mang tính chất lịch sử, xã hội từ lâu đời ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số để
tăng cường các hoạt động chống phá. Điều đó đã dẫn đến tình trạng bỏ bê sản
xuất, di dịch cư tự do, vượt biên trái phép… diễn ra khá thường xuyên, gây mất
ổn định về an ninh CT - XH trên một số địa bàn có đơng đồng bào dân tộc thiểu
số khác nhau. Ở một số nơi, nấp dưới chiêu bài dân tộc, các thế lực thù địch còn
dựng lên những mặt trận, liên hiệp, hội… khác nhau để thực hiện chống phá.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, chịu sự tác động của các yếu tố địa
lý, chính trị, xã hội từ lâu đời nên giữa các dân tộc ở Việt Nam có sự khác biệt
về cơ cấu dân số, tập quán sinh sống, sản xuất, trình độ kinh tế, dân trí… Trong
54 dân tộc của cả nước, có 53 dân tộc thiểu số, mà dân số của các dân tộc này
chỉ chiếm chưa đầy 20%. Có sự chênh lệch khá lớn về điều kiện kinh tế, văn

hoá, xã hội, cơ sở hạ tầng giữa đồng bào các dân tộc ở đồng bằng, đô thị với
đồng bào các dân tộc ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đến nay, tuy đã có
13


sự phấn đấu rất tích cực, nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở các khu vực Tây Bắc, Bắc
Trung Bộ, Tây Nguyên… vẫn còn cao hơn các khu vực khác trong cả nước. Thu
nhập bình quân theo đầu người ở các địa phương này cũng thấp hơn bình quân
thu nhập của các địa phương khác. Chỉ tính riêng Tây Nguyên, nơi tập trung 43
dân tộc thiểu số, đồng thời cũng là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước; từ
hàng ngàn năm trước đây, một bộ phận lớn đồng bào các dân tộc thiểu số ln
phải sống trong tình cảnh đói, rét, mù chữ, bệnh tật. Q trình lịch sử đã để lại
những di chứng xã hội nặng nề, từ chính sách cát cứ phong kiến, chính sách
“ngu dân”, “chia để trị” và thủ đoạn dùng người dân tộc này chống lại người dân
tộc khác của thực dân, đế quốc và tay sai… Những âm mưu và thủ đoạn trên đã
kìm hãm lớn tới sự phát triển của từng dân tộc, mở rộng sự bất bình đẳng và
khoảng cách về chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội giữa các vùng, các dân tộc; đồng
thời, còn tạo ra sự kỳ thị dân tộc, ý thức cực đoan hoặc tự ty dân tộc. Trong thời kỳ
tiến hành chiến tranh xâm lược, nhằm phục vụ cho mưu đồ thống trị, thực dân
Pháp, sau đó là đế quốc Mỹ, đã đưa một số ít người dân tộc thiểu số vào phục vụ
trong bộ máy xâm lược của chúng; đồng thời, một số tổ chức, đảng phái của một
vài dân tộc thiểu số đã được chúng tổ chức hoặc cho phép hoạt động. Điều đáng
nói là sau giải phóng tới nay, một ít người trong số đó sống lưu vong ở nước ngồi
đã tiếp tục bị lợi dụng tham gia vào các hoạt động chống phá; một số tổ chức phản
động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây lại nhen nhóm hoạt động…
Với những khó khăn trên Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách
vơ cùng sáng suốt, đứng đắn, mềm mỏng và đầy tính quyết liệt để ngăn chặn
những vấn đề cịn tồn đọng. Những chính sách ấy đem lại những thành tựu, hạn
chế gì thì sang phần 2 chúng ta sẽ rõ hơn.
2. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay – sự vận

dụng sáng tạo, linh hoạt cương lĩnh dân tộc của Lênin
2.1.Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Đại hội VII, Đảng ta nhấn mạnh vào việc thực hiện chính sách bình đẳng,
đồn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển
14


đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tơn trọng lợi ích, truyền thống văn hố, ngơn
ngữ, tập qn, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân
tộc hẹp hịi, kì thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù
hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số. Một số
chính sách cụ thể là:
“… Trung du và miền núi chuyển sang kinh tế hàng hố, phát huy thế mạnh
về lâm nghiệp. Hình thành vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ăn
quả, gắn công nghiệp với chế biến, phát triển chăn nuôi, khai khoáng. Huy động
mọi nguồn lực tại chỗ và cả nước đi đôi với tranh thủ viện trợ quốc tế nhằm sử
dụng triệt để và có hiệu quả đất trống, đồi trọc. Khai thác đi đôi với bảo vệ, tái
tạo các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, đảm bảo lợi ích của các dân tộc.
Đẩy mạnh việc khai thác khống sản và thuỷ năng, hình thành những trung tâm
cơng thương nghiệp và đô thị gắn với các tổ hợp kinh tế như than ở Đơng Bắc,
hố chất, phân bón, luyện kim, điện ở Tây Bắc và Trung du phía Bắc, thuỷ điện
và khai khoáng ở Tây Nguyên.
Đối với miền núi, Nhà nước hỗ trợ về đầu tư mở mang giao thông vận tải,
bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người dân tộc,
đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương… để
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội... Đồn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và
phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất qn của Đảng và
Nhà nước ta.

Có chính sách phát triển hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với
điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân
tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và góp phần
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tơn trọng tiếng nói và có chính sách
đúng đắn về chữ viết đối với các dân tộc. Đặc biệt có chính sách khắc phục tình
trạng suy giảm dân số đối với một số dân tộc ít người… Có chính sách đăc biệt
15


để phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng
và nâng cao chất lượng các trường, lớp nội trú, coi trọng việc đào tạo cán bộ và
trí thức người dân tộc”.
Như vậy đến Đại hội VII, chính sách dân tộc được Đảng ta nâng lên tầm
cao mới. Điều này cũng tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện hơn trong Hiến pháp
1992: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện
chính sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi
hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ
gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập qn, truyền thống văn
hố tót đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách về mọi mặt, từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”. Vấn đề
dân tộc được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tổng kết và cụ thể hố
chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân
tộc ln ln có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt các
chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển;
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần, xố đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn,
làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc,

giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng
trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu
tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên phát huy
vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương.
Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân
tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”.
Năm 2006, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định:
“Vấn đề dân tộc và đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự
16


nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, xố đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hố, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện
tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn
cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế
mới… Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu
trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và
miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc,
làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.
Đây là luận điểm rất quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi
mới trong bối cảnh quốc gia và quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.
Vấn đề dân tộc tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Văn kiện Đại
hội XI chỉ rõ: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
thương u, tơn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng và văn minh”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh:
“Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau giữa các
dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự
phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa, ngơn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị
và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của
các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Những quan điểm trên thể
hiện sự quan tâm ngày càng sâu sát, cụ thể và rất thiết thực của Đảng đối với
17


chính sách dân tộc - một vấn đề có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đại hội XII tiếp tục khẳng
định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách
mạng nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tơn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Đoàn kết các dân tộc là đoàn kết các thành phần dân tộc trong quốc gia đa
dân tộc Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết các dân tộc trong giai đoạn mới là
nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các dân tộc, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc
tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đảng ta chủ trương, muốn xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

phải: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tơn trọng những điểm khác biệt khơng
trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu
nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong
và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước,
tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc”.
Đảng ta đặt ra yêu cầu: “Tiếp tục hồn thiện cơ chế, chính sách, đảm bảo
các dân tộc bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các
dân tộc giúp cùng nhau phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế,

18


văn hóa, xã hội vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung”.
So với Đại hội XI, điểm mới của Đại hội XII là phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, tôn trọng những điểm khác
biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc.
Để thực hiện được phương châm trên, Văn kiện Đại hội XII đã kế thừa
những nhiệm vụ, giải pháp của Đại hội XI, có bổ sung một số nhiệm vụ, giải
pháp mới. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Gần đây, trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII, khi tổng kết tình
hình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, Đảng
ta khẳng định: “Hệ thống chính sách dân tộc được hồn thiện, đầy đủ hơn và đã
tích hợp một số chính sách, bảo đảm bao phủ tồn diện các lĩnh vực và phân cấp
triệt để cho các địa phương tổ chức thực hiện. Đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn đực cải thiện”. Tuy

nhiên, Đảng ta cũng thẳng thắn thừa nhận: “Mức hưởng thụ văn hóa giữa các
vùng, miền cịn khoảng cách lớn. Giảm nghèo của vùng dân tộc thiểu số và miền
núi thiếu bền vững. Một số vấn đề bức xúc trong đời sống của đồng bào dân tộc
thiểu số như di cư tự do, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt… chưa được
giải quyết hiệu quả”.
Đảng ta tiếp tục thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề bình đẳng trong
khối đại đoàn kết các dân tộc: “Thực hiện tốt mục tiêu đồn kết tơn giáo, đại
đồn kết dân tộc… Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin và bảo đảm quyền
được thông tin và tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở các vùng sâu vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” ; “Từng bước thu hẹp khoảng cách về
hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và giữa các
giai tầng xã hội”.
Như vậy có thể thấy rằng nếu như trong thời chiến, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta có tác dụng cổ vũ, khích lệ tinh thần cách mạng của đồng
19


bào dân tộc thiểu số kháng chiến, làm nên thắng lợi lịch sử của dân tộc thì trong
thời kì đổi mới, chính sách ấy có ý nghĩa củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo
ra khối sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
ổn định tình hình an ninh, chính trị của đất nước.
Như vậy, chính sách dân tộc ở Việt Nam là cụ thể hoá quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc. Xét về mục tiêu, chính sách dân tộc
của Đảng nhằm khai thác mọi tiềm năng đất nước để phục vụ đời sống nhân dân
các dân tộc, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch, xố đói giảm nghèo,
thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện nguyên tắc cơ bản: bình đẳng,
đồn kết, tơn trọng giúp nhau cùng phát triển. Các nội dung đó có quan hệ hữu
cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, hợp thành một thể thống nhất, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Với mỗi một thời kỳ lịch sử, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước lại được bổ sung và từng bước hoàn thiện. Tuy vậy, vấn đề dân tộc
còn là một vấn đề “nhạy cảm”, khơng ít nội dung đang đặt ra khơng phải một
sớm một chiều có thể giải quyết được. Chính sách dân tộc phải hướng đến mục
tiêu cuối cùng là xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào các dân
tộc sống trên cùng một lãnh thổ. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc sẽ tạo nên sức
mạnh tổng hợp và cũng là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự phát
triển bền vững của Việt Nam.
2.2.Hệ quả của việc vận dụng đường lối, chính sách dân của Đảng và
Nhà nước
a, Thành tựu
Quyền bình đẳng của các dân tộc được đảm bảo trên các lĩnh vực chính trị,
trong các quan hệ xã hội và trước pháp luật; các dân tộc ngày càng hiểu biết tôn
trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng
được củng cố và tăng cường, các dân tộc gắn bó bên nhau, cùng nhau xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
20


Cơng tác dân tộc thời gian qua đã góp phần tích cực làm thay đổi rõ nét
diện mạo nơng thơn vùng dân tộc và miền núi, quyền bình đẳng giữa các dân tộc
ngày càng được thể chế hóa và thực hiện trên thực tế các lĩnh vực của đời sống.
Qua đó, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên từng bước, tỷ
lệ hộ nghèo giảm rõ rệt. Theo báo cáo của các địa phương vùng dân tộc và miền
núi, chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đều đạt và vượt, bình quân khoảng 3% 4%/năm, cụ thể là: Các tỉnh vùng Đông Bắc giảm 3,62%; Tây Bắc giảm 4,47%;
Tây Nguyên giảm 3,04%; đồng bằng sông Cửu Long giảm 2,15%. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội thay đổi rõ rệt: 98,6% số xã có đường ơ-tơ đến trụ sở ủy ban
nhân dân xã; có 99,8% số xã và 95,5% số thơn có điện (số liệu của Tổng Cục
thống kê năm 2010 - 2015).
Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả khả quan. Đời sống của

đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Đặc biệt, mặt bằng dân trí được
nâng cao. Vùng dân tộc và miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và
xóa mù chữ. Hệ thống trường phổ thơng dân tộc nội trú được hình thành và phát
triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền núi, tạo nguồn đào tạo
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng cao một
bước, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn và
phát huy. Hệ thống phát thanh, truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi khơng
ngừng phát triển. Cơng tác giáo dục có nhiều tiến bộ: 99,5% số xã có trường tiểu
học; 93,2% số xã có trường trung học cơ sở; 12,9% số xã có trường trung học
phổ thơng và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non; 100% số xã đạt chuẩn
phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Loại hình
trường nội trú, bán trú đang phát triển, hiện nay cả nước có 294 trường phổ
thơng dân tộc nội trú với 80.832 học sinh; 4 trường dự bị đại học với trên 3.000
học sinh/năm. Tất cả các tỉnh vùng dân tộc và miền núi đều có trường trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh
vực nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế,...
21


×