Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

(Thảo luận chủ nghĩa xã hội khoa học) Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa MácLênin và sự vận dụng cương lĩnh đó vào việc thực hiện chính sách dân tộc của đảng, nhà nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.05 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
------------------

BÀI THẢO LUẬN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA KHOA HỌC
Đề tài thảo luận: “ Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự vận
dụng cương lĩnh đó vào việc thực hiện chính sách dân tộc của đảng, nhà
nước ta hiện nay.”

Nhóm thực hiện: 10
Lớp học phần: 2142HCMI0121
Giáo viên hướng dẫn: Lại Quang Mừng

Hà Nội 2021


MỤC LỤC
A. CỞ SỞ LÝ THUYẾT...................................................................................1
1)Khái niệm dân tộc:........................................................................................1
2)Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc...................1
-Các dân tộc hồn tồn bình đẳng.................................................................3
-Các dân tộc có quyền tự quyết......................................................................4
-Liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc lại.............................4
4)Khái niệm chính sách dân tộc......................................................................5
B. SỰ VẬN DỤNG “CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC” VÀO VIỆC THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN
NAY:..................................................................................................................6
1)Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về dân tộc và chính sách dân tộc. 6
- Bình đẳng giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.................7
-Đoàn kết dân tộc- vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách
mạng Việt Nam:..............................................................................................8


- Các dân tộc trong trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển...................................8
-Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của tồn bộ hệ thống
chính trị..........................................................................................................9
2) Thực trạng của việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay:................................................................................................10
KẾT LUẬN CHUNG:...................................................................................15
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hóa, xã hội cho các vùng
dân tộc thiểu số................................................................................................15
Tơn trọng sự bình đẳng lẫn nhau giữa các dân tộc.........................................15
Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ cho mỗi dân tộc.........................................16
Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn vùng đồng
bào dân tộc......................................................................................................16
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân
tộc....................................................................................................................17


A. CỞ SỞ LÝ THUYẾT
1)Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi
dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến
cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và cuối cùng là dân tộc.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,
trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất.
-Một là: dân tộc chỉ là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc
thù. Xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia
- Quốc gia có nhiều dân tộc. Ví dụ ở nước ta có: Dân tộc Kinh, Dân tộc Tày,
Dân tộc H’Mông,… Hiểu theo nghĩa này, kết cấu của một quốc gia có thể bao
gồm nhiều dân tộc ( tộc người) khác nhau, trong đó có những dân tộc chiếm đa

số trong thành phần dân cư và có những dân tộc thiểu số.
-Hai là: dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức
về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh
tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong cuộc suốt quá
trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là tồn bộ
nhân dân của quốc gia đó - Quốc gia dân tộc. Ví dụ như: Dân tộc Việt Nam, Dân
tộc Trung Hoa,…
2)Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.
Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của nó:
- Cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân tộc độc
lập.Do sự thức tỉnh sự trưởng thành về ý thức dân tộc về quyền sống của mình,
các cộng đồng cư dân cư muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Xu hướng
1


này diễn ra khi phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc muốn thốt khỏi sự áp bức, bóc lột của các nước thực dân, đế
quốc.
- Các dân tộc trong tưng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn chủ nghĩa tư
bản chuyển sang giai đoạn đề quốc chủ nghĩa do sự phát triểm của lực lượng sản
xuất, khoa học – công nghệ của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản
chủ nghĩa làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc,
thức đẩy các dân tộc xích lại gần nhau. Ví dụ như: Liên minh châu Âu (EU),
hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Trong thời kì hiên này thì biểu hiện của hai xu hướng khách quan này ta
cũng thấy rất rõ ràng. Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân
tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh của dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nên

sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng các quốc gia xích lại gần
nhau hơn nữa, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống.
Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng
chiều, bổ sung, hỗ trợ nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng
quốc gia và đụng chạm đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự tự chủ, phồn vinh của
từng dân tộc sẽ tạo điều kiện cho dân tộc đó có thêm những điều kiện vật chất và
tinh thần để hợp tác chặt chẽ hơn với các dân tộc anh em. Sự xích lại gần nhau
hơn của các dân tộc trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng sẽ tạo điều kiện cho từng
dân tộc đi nhanh tới sự phát triển, phồn vinh. Lợi ích tồn cầu có tác dụng sâu xa
gắn bó lồi người trong một quá trình vận động thống nhất: các dân tộc, quốc
gia trên thế giới cịn đang ở những trình độ phát triển khác nhau, cần sự giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ.
Cộng đồng dân tộc với tính cách là quốc gia dân tộc xuất hiện khi xã hội có
sự phân chia giai cấp. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trở thành một trong
2


những mối quan hệ chính trị cơ bản trong xã hội và tác động, chi phối đến nhiều
lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Dựa trên quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; phân tích
hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc dưới chủ nghĩa tư bản; dựa
vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, thực tiễn cách mạng nước
Nga trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, khôi phục và thống nhất các lực lượng
cách mạng ở nước Nga những năm đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã xây dựng
“Cương lĩnh dân tộc”. Đây là cơ sở lý luận cho việc thực hiện các chủ trương,
sách lược cách mạng của giai cấp công nhân đối với các vấn đề dân tộc trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3) Nội dung cương lĩnh dân tộc Mác – Lênin:
Dựa trên thực tiễn tình hình các dân tộc trên thế giới, mối quan hệ dân tộc

trên thế giới và dựa trên thực tiễn tình hình dân tộc ở nước Nga lúc bấy giờ,
Lenin đã nêu ra Cương lĩnh dân tộc bao gồm các nguyên tắc để giải quyết vấn
đề dân tộc theo cả góc độ mối quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc gia đa
dân tộc cũng như theo cả góc độ mối quan hệ dân tộc quốc tế.
-Các dân tộc hồn tồn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân
tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc dù lớn hay nhỏ (kể
cả các bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ cao thấp đều có nghĩa vụ và
quyền lợi như nhau, khơng dân tộc nào có đặc quyền đặc lợi và đi áp bức các
dân tộc khác.
Trong quốc gia có nhiều dân tộc, pháp luật phải bảo vệ quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa
giữa các dân tộc.
Trên phạm vi giữa các quốc gia, dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa
các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc,

3


gắn với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức, bóc
lột của các nước tư bản phát triển với các nước chậm phát triển.
-Các dân tộc có quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh
của dân tộc mình.(Trong các quyền tự quyết thì quyền tự quyết về chính trị là
quan trọng nhất).
Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia
độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cở sở bình đẳng.
Thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực tiễn – cụ thể và
đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân.
Đấu tranh chống lại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực phản động thù

địch lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước hoặc kích động, li
khai dân tộc.
-Liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc lại.
Đây là tư tưởng cơ bản và quan trọng trong cương lĩnh dân tộc của Lênin,
nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự nghiệp giải
phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp, nó đảm bảo cho dân tộc có đủ
sức mạnh để giành thắng lợi.
Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để
chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dụng
liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc đóng vai trị liên kết cả ba
nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Những nội dung cơ bản của “Cương lĩnh dân tộc” chính là cơ sở lý luận và
cơ sở pháp lý để giải quyết các quan hệ dân tộc. Đặc biệt hiện nay, vấn đề dân
tộc đang diễn ra vô cùng phức tạp. Những xung đột dân tộc, tộc người, những
mưu đồ đồng hóa dân tộc vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều sắc thái tinh vi, nhiều
quốc gia khu vực. Để có thể giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp liên quan
4


đến dân tộc cần đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc, sáng
suốt, những quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề nhân tộc cũng như nội dung của
“ Cưỡng lĩnh dân tộc”. Nhận thức sâu sắc và vận dụng đúng đắn những nội
dung cơ bản của “Cương lĩnh dân tộc” trong hoạt động thực tiễn chính là góp
phần ổn định chính trị xã hội, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, “Cương lĩnh dân tộc” là cơ sở lý luận đường lối, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta.
4)Khái niệm chính sách dân tộc
Chính sách dân tộc là thái độ quan điểm, các quyết định, quyết sách của
Nhà nước đối với đồng bào dân tộc với mục tiêu, giải pháp cơng cụ nhằm bảo
đảm và thúc dây sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển,

phát triển toàn diện, từng bước năng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào dân tộc thiểu số, đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc, phong tục tập quán,
truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc, góp phần xây dựng và phát
triển đất nước. Thực hiện chính sách dân tộc là tồn bộ q trình đưa chính sách
dân tộc vào thực tiễn xã hội.

5


B. SỰ VẬN DỤNG “CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC” VÀO VIỆC THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN
NAY:
1)Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về dân tộc và chính sách dân
tộc
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở
miền núi, biên giới, hải đào, vùng sâu, vùng xa – những địa bàn có vị trí chiến
lược về kinh tế, chính trị, quốc phịng, an ninh và mơi trường sinh thái. Do đó,
Đảng ta ln coi việc hoạch định và thực hiện đúng chính sách dân tộc là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong tiến trình cách mạng.
Vấn đề về dân tộc và chính sách dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng và
nhạy cảm đối với đất nước ta, đặt biệt hơn Việt Nam là một gia đa dân tộc (54
dân tộc anh em, dân số cả nước khoảng 97.989.892 người( số liệu được cập
nhật: 13/04/2021), trong đó dân tộc kinh chiếm 85,3% (2020) dân số cả nước, số
dân còn lại là người dân tộc thiểu số, sống rải rác ở các vùng núi, vùng đặc biệt
khó khăn. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đồn kết đấu tranh chống thiên
tai định họa để dựng nước và giữ nước, có điều kiện tự nhiên phong phú đa
dạng, trình độ phát triển văn hóa giữa các dân tộc có sự chênh lệch nhau, trong
các dân tộc ở biên giới có những gia đình vẫn có mối quan hệ họ hàng với các
dịng tộc bên kia biên giới, điều kiện của người đồng bào dân tộc thiểu số cịn
khó khăn dễ bị lơi kéo kích động... Những đặc điểm nói trên phản ảnh tính chất

quan trọng và phức tạp của vấn đề dân tộc, chính vì vậy, đối với vấn đề dân tộc,
Đảng và Nhà nước ta luôn coi vấn đề dân tộc là một bộ phận quan trọng, cần
phải quan tâm đặc biệt, không thể tách rời trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước.
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, xuyên suốt mọi
thời kỳ cách mạng là: "Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tương trợ nhau cùng
phát triển". Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là "Nhà nước thống
6


nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam" Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đồn kết tơn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, cùng nhau thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Có thể tổng kết quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về văn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở những
nội dung cơ bản sau:
- Bình đẳng giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Bình đẳng giữa các dân tộc là nội dung cốt lõi của chính sách dân tộc. Các
dân tộc không phân biệt đa số hay thiếu số, trình độ phát triển cao hay thấp, điều
có địa vị pháp lý ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được ghi nhận với
tính chất là một nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp và được thể hiện thống
nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính
trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ, kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực
đoan, tự ty dân tộc… Đồng bào các dân tộc đều được quyền tham gia bầu cử,
ứng cử vào cơ quan quyền lực Nhà nước, làm việc trong các cơ quan Nhà nước,
tham gia đóng góp ý kiến vào các chính sách của Nhà nước.
Quyền bình đẳng về kinh tế bảo đảm sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích

giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm đầu từ nguồn lực để thúc đẩy việc
phát triển kinh tế đối với các dân tộc có kinh tế chậm phát triển, để cùng đạt
trình độ phát triển chung với các dân tộc khác trong cả nước.
Bình đẳng về văn hoá, xã hội bảo đảm cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hố của các dân tộc, làm phong phú, đa dạng nền văn hóa Việt Nam. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phịng tục tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước

7


đầu tư cho sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, duy trì nói giống
phát triển giáo dục cho đồng báo các dân tộc.
Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có trình độ phát triển
thấp, nên bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng tồn diện về chính trị, kinh tế,
văn hoa, xã hội còn phải tạo điều kiện thuận lợi để cho đồng bào các dân tộc
thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan tâm tương
trợ giúp đỡ nhau cũng phát triển chính là thực hiện quyền bình đồng nữa các dân
tộc,
-Đồn kết dân tộc- vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách
mạng Việt Nam:
Nhất quán trong đường lối về đoàn kết dân tộc, Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định mạnh mẽ quan điểm bền vững “Đảng ta
luôn coi vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản,
lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta". Đồng thời, đây cũng luôn được coi
là nhiệm vụ cấp bách, phải quan tâm thực hiện. Chính sách dân tộc ln được
coi là chính sách quan trọng trong sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thể hiện
trên cả phương diện đối nội và đối ngoại. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng, các dân tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết, cùng nhau xây dựng đất
nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Mỗi dân tộc trên đất nước Việt Nam đều phải có trách nhiệm chăm lo vun đắp,
củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc.
- Các dân tộc trong trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển
Hiện nay trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc ở nước ta vẫn
còn khoảng cách khá xa. Kinh tế ở miền núi và các vùng dân tộc thiểu số còn
chậm phát triển, nhiều nơi còn lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập
qn canh tác cịn lạc hậu, tỷ lệ đói nghèo cịn cao so với hình quản chung của
cả nước. Chênh lệch về mức sống giữa các vùng giữa các dân tộc ngày càng
tăng. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số còn thấp.
8


Cơng tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó
khăn. Một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan của dân tộc thiểu số có xu hướng
phát triển. Bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc thiểu số dang bị mai
một. Mức hưởng thụ văn hóa của đồng bảo cịn thấp. Do đó, Đảng và Nhà nước
ta đã coi tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc là một nguyên
tắc cơ bản trong chính sách dân tộc trong thế kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn có trách nhiệm
giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn hơn. Tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau khơng phải chỉ giúp đỡ một chiều, ngược lại chính sự phát
triển của dân tộc này là điều kiện để cho dân tộc khác cũng phát triển.
Việc đầu tư phát triển đối với các dân tộc thiểu số được thể hiện rõ ở quan
điểm chỉ đạo sau đây:
+ Phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc
phòng trên địa bản vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dim tộc; quan tâm phát triển,
bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán dân tộc thiểu số; giữ
gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số
trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất

+ Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thơng và cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo
vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
-Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của tồn bộ hệ thống
chính trị

9


Cơng tác dân tộc được xác định có vị trí trọng yếu đối với sự phát triển bền
vững của đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Do đó, tồn bộ hệ thống chính
trị cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mình về vị trí, nhiệm vụ của cơng
tác dân tộc trong tình hình mới, coi việc quán triệt và thực hiện tốt chính sách
dân tộc của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ
chức dụng chính quyền, Mặt trận, đồn thể từ Trung ương đến địa phương.
2) Thực trạng của việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay:
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng giải
quyết tốt vấn đề dân tộc và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên tất cả
các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phịng - an ninh.
Quyền bình đẳng của các dân tộc được đảm bảo trên các lĩnh vực chính trị,
trong các quan hệ xã hội và trước pháp luật; các dân tộc ngày càng hiểu biết tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đại đồn kết tồn dân tộc khơng ngừng
được củng cố và tăng cường, các dân tộc gắn bó bên nhau, cùng nhau xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ưu tiên đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, như:

giao thông, nước cho sinh hoạt và sản xuất, điện, thơng tin liên lạc, trạm xá, các
thiết chế văn hóa, y tế, trường, lớp học đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn
vùng dân tộc thiểu số. Trong giai đoạn 2016 - 2018, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đã có nhiều nỗ lực để triển khai các
nghị quyết của Đảng, các nghị quyết của Quốc hội trong việc xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện các chính sách nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội
đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc thiểu số, miền núi đã đạt được kết quả quan trọng, các địa phương có tốc độ
tăng trưởng kinh tế hằng năm đạt bình quân trên 7%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; một số địa phương đã hình
thành vùng sản xuất hàng hóa từ những sản phẩm có thế mạnh của mỗi vùng,
10


miền. Kết cấu hạ tầng từng bước hoàn thiện. Tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân
tộc thiểu số giảm mỗi năm 4% (hiện còn 28,45%). Tốc độ tăng trưởng kinh tế
vùng miền núi phía Bắc đạt hơn 10%, miền Trung và Nam bộ 12%, Tây Nguyên
là 12,5%. Mặt bằng thu nhập và điều kiện sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu
sô không ngừng được nâng cao, nhiều hộ đã vươn lên thốt nghèo và có cuộc
sống khá giả. Đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cơ sở được đào tạo, bồi dưỡng đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ quản lý, điều hành ở địa phương.
Sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho các dân tộc thiểu
số có nhiều tiến bộ, đạt thành tựu to lớn. Đến nay, đã cơ bản xóa mù chữ và phổ
cập giáo dục bậc Tiểu học, THCS; các loại hình trường nội trú, bán trú phát
triển, tạo điều kiện cho các DTTS phát triển giáo dục, nâng cao dân trí và chất
lượng nguồn nhân lực. Đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc thiểu số ở
các vùng, miền có nhiều khởi sắc; các giá trị văn hóa dân tộc tốt đẹp được quan
tâm bảo tồn và phát huy (khôi phục các Lễ hội truyền thống, tổ chức Ngày hội
văn hóa của các dân tộc; hình thành và bước đầu hoạt động có hiệu quả Làng
văn hóa các dân tộc Việt Nam, tổ chức trình diễn trang phục truyền thống các

dân tộc Việt Nam,…). Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số
được cải thiện góp phần nâng cao sức khỏe, thể trạng và chất lượng dân số; đồng
bào nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí và hưởng chính sách bảo hiểm y tế
theo quy định; mạng lưới y tế ở vùng dân tộc thiểu số phát triển phát triển.
Quốc phòng - an ninh, trật tự an tồn xã hội và quốc phịng, an ninh vùng
dân tộc thiểu số cơ bản được bảo đảm, quan hệ giữa các dân tộc được củng cố.
Các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch kịp thời được ngăn chặn, việc
truyền đạo trái pháp luật được kiểm sốt, an ninh được duy trì, biên giới được
bảo vệ. Có 36,1% người dân tộc thiểu số được hỏi cho rằng việc đảm bảo an
ninh, quốc phòng vùng đồng bào dân tộc thiểu số thời gian qua được thực hiện
rất hiệu quả, 59,3% cho rằng khá hiệu quả, chỉ có 3,7% cho rằng khơng hiệu quả
và có 0,9% cho rằng khó đánh giá.

11


Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công tác dân tộc, đã tăng cường phối hợp
với các đối tác quốc tế trong việc nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về cơng tác
dân tộc; khuyến khích việc giúp đỡ, hỗ trợ đầu tư phát triển vùng DTTS. Hoạt
động tuyên truyền đối ngoại, tổ chức giao lưu, kết nghĩa giữa nhân dân, chính
quyền và lực lượng bảo vệ biên giới của nước ta với các nước láng giềng được
chú trọng, góp phần tăng cường đoàn kết, hữu nghị hai bên biên giới, xây dựng
biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các chính sách dán tộc
cũng cịn bộc lộ những vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu đặc ra, chưa phù hợp,
chưa thực sự hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực trên phạm vi cả nước:
Vùng dân tộc, miền núi vẫn là vùng kinh tế chậm phát triển, đời sống của
đồng bào cịn nhiều khó khăn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách
mạng. Khoảng cách thu nhập và đời sống giữa đồng bào dân tộc thiểu số với thu
nhập và mức sống chung của xã hội tiếp tục bị doãng ra (tỷ lệ nghèo DTTS

23,1%, cận nghèo 13,6%, cao gấp 4 lần so với mức bình quân chung của cả
nước); Tỷ lệ tảo hơn DTTS 26,6%, trong đó có 19 dân tộc trên 40%, cao nhất
73%; tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên không biết đọc, không biết viết chữ
phổ thơng là 20,8%, có 6 dân tộc trên 50%, cao nhất là 65,6…
Việc đầu tư cho vùng dân tộc, miền núi dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng
điểm, ở một số địa phương hiệu quả còn thấp. Chất lượng cơ sở kỹ thuật hạ tầng
kinh tế - xã hội thiết yếu còn yếu kém, bao gồm: điện, trường - lớp học, trạm xá,
nhà sinh hoạt cộng đồng, mạng thông tin truyền thông; giao thông, nước cho
sinh hoạt và sản xuất (năm 2017 cả nước có trên 7.500 cơng trình hồ chứa có
dung tích từ 50.000m3 trở lên, trong đó có 1.150 hồ chứa đang bị hư hỏng,
xuống cấp, nguy cơ mất an tồn cao), cịn nhiều thơn, bản ở các vùng miền núi
phía Bắc và phía Đơng dãy Trường Sơn, việc đi lại của đồng bào cịn nhiều khó
khăn...

12


Những vấn đề bức xúc về đất ở, đất sản xuất, di cư tự do, tàng trữ, buôn
bán, sử dụng các chất ma tuý, buôn bán người… diễn biến phức tạp, chưa được
giải quyết triệt để. Các hộ đồng bào DTTS nhiều vùng nơng thơn trên cả nước
cịn thiếu đất ở (80.960 hộ, tỷ lệ 2,74% hộ DTTS), đất sản xuất (221.754 hộ, tỷ
lệ 7,49% số hộ DTTS) vẫn rất bức xúc, dẫn đến hàng vạn người thuộc các hộ
nghèo đứng trước nguy cơ bị bần cùng hóa tuyệt đối. Tình trạng du canh du cư
vẫn cịn tồn tại ở một số tỉnh miền núi phía Bắc (năm 2014 cịn 1.626 hộ với
5.396 người sống du canh du cư). Hàng vạn hộ dân di cư tự do và cư trú phân
tán, nhất là ở các tỉnh miền núi còn phức tạp kéo dài, dẫn đến hệ lụy rừng bị tàn
phá; quản lý xã hội về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ANCTTTXH rất khó khăn; tỷ suất vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng trên đầu
người ở những vùng này rất cao, song hiệu quả sử dụng lại rất thấp.
Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một và bị
đồng hóa dần (dân tộc Thủy bị đồng hóa vào dân tộc Pà Thẻn; dân tộc Ơ Đu chủ

yếu sử dụng tiếng Thổ là chính, chỉ còn dưới 10 người biết tiếng Ơ Đu). Một số
dân tộc đã và đang có nguyện vọng, địi hỏi “trả lại” tộc danh cho dân tộc mình.
Trong đời sống thường ngày ở nhiều vùng, văn hóa, vừa là mục tiêu vừa là động
lực cho sự phát triển. Thông tin, tuyên truyền về tình hình chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của cả nước đến với các vùng này còn hạn chế.
Trên nhiều lĩnh vực, những tàn dư tư tưởng “dân tộc lớn”, “dân tộc hẹp
hòi”, “tự ti dân tộc”, tư tưởng “địa phương chủ nghĩa, cục bộ” ngày càng bộc lộ
với các biểu hiện, thủ đoạn tinh vi, rất khó bị vạch trần để xóa bỏ tận gốc. Các
đối tượng lưu vong và nước ngoài, cùng số đối tượng phản động trong nước đã
và đang lợi dụng những khó khăn và bất cập vùng các DTTS để kích động,
tuyên truyền lơi kéo đồng bào DTTS, hịng chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc
và gây mất ổn định ở các vùng DTTS.
Những bất cập, hạn chế trên một phần là do trong xây dựng và triển khai
chính sách pháp luật về dân tộc còn thiếu quy định về quy trình xây dựng chính
13


sách; chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi
cấp trong ban hành chế độ chính sách. Nhiều vấn đề của DTTS đã được Đảng
xác định trong các văn kiện, nghị quyết nhưng chưa hoặc thể hiện chưa đầy đủ
trong các văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết... Cịn thiếu một số chính sách phát
triển bền vững cho vùng đồng bào DTTS. Mặt khác, nhiều nội dung chính sách
dân tộc cịn có sự chồng chéo, chưa sát hợp với thực tiễn hoặc thiếu nguồn lực
thực thi, làm hạn chế hiệu quả của hệ thống chính sách pháp luật. Cơng tác kiểm
tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chính sách dân tộc chưa được thực
hiện thường xuyên. Việc rà soát xây dựng, chỉnh sửa, hồn thiện một số đề án,
chính sách dân tộc cịn chậm, chất lượng cịn hạn chế. Ngồi ra, xuất phát điểm
vùng DTTS và miền núi, nhất là chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực thấp,
biến đổi khí hậu gia tăng, khả năng thích ứng của đồng bào với xu thế phát triển,
hội nhập của đất nước còn chậm; các thế lực thù địch vẫn còn tiếp tục lợi dụng

vấn đề dân tộc, tôn giáo để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, nhất là những khó khăn về kinh tế của đất nước, an ninh
chính trị vùng biên giới, biển Đơng.

14


KẾT LUẬN CHUNG:
Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống từ ngàn đời nay. Đoàn kết,
giúp đỡ nhau cùng tồn tại và phát triển là quy luật và truyền thống quý báu của
đồng bào ta. Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln coi cơng tác dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hóa, xã hội cho các
vùng dân tộc thiểu số.
Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng, bởi ngày nay sự chênh lệch về trình
độ kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc. Để có thể thu hẹp khoảng cách giữa
các dân tộc thì việc cần làm là đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho
các vùng dân tộc thiểu số. Từ đó, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân các vùng dân tộc thiểu số. Đi đôi với việc phát huy tiềm lực kinh tế của các
vùng dân tộc thì cần chú trọng bảo vệ mơi trường thiên nhiên, ổn định đời sống
của đồng bào, phát huy mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa các đồng bào tại chỗ và
đồng bào từ nơi khác đến, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi.
Đảng và Nhà nước thực hiện một chiến lược kinh tế chung, trong đó ưu
tiên đúng mức cho sự phát triển kinh tế ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số
còn lạc hậu. Thực hiện được điều đó vừa đáp ứng được yêu cầu khai thác tiềm
năng to lớn của các đồng bào dân tộc thiểu số, vừa đáp ứng yêu cầu xóa bỏ sự
chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các dân tộc các vùng để các dân
tộc thực sự bình đẳng và hịa hợp với nhau.
Tơn trọng sự bình đẳng lẫn nhau giữa các dân tộc.
Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, rất nhiều dân tộc có ngơn

ngữ riêng, có những nét văn hóa, phong tục riêng của họ. Vì vậy, cùng với việc
xố bỏ ranh giới giữa các dân tộc thì cũng cần phải tơn trọng lợi ích, truyền
thống, văn hóa, ngơn ngữ, tập quán tín ngưỡng của họ; giúp các dân tộc giữ gìn
và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình.
15


Các chính sách pháp luật của nhà nước ta cũng thể hiện rõ vấn đề này khi
tạo điều kiện cho các dân tộc được quyền tự do sử dụng ngôn ngữ của mình
trong tất cả các lĩnh vự đời sống, các phạm vi giao tiếp. Đồng thời khuyến khích
đưa vắn hóa truyền thống vào giảng dạy ở các trường học để các truyền thống
văn hóa tốt đẹp khơng bị mai một. Dành nhiều quyền hơn cho các đối tượng
thuộc dân tộc thiểu số, khuyến khích cán bộ đến các vùng sâu, vùng xa làm việc
và công tác.
Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ cho mỗi dân tộc.
Bác Hồ từng chỉ rõ, văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Muốn đưa đồng
bào dân tộc thiểu số còn đang sống ở những vùng khó khăn, dân trí hạn chế phát
triển về kinh tế xã hội thì nhất thiết phải nâng cao dân trí, bồi dưỡng văn hóa,
mở rộng sự giao lưu, hiểu biết của đồng bào. Muốn thực hiện được điều này thì
cần phải có những con người đi tiên phong, hướng dẫn cho bà con, những người
đó khơng ai khác chính là các cán bộ, bởi cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo
đức thì mới có thể lãnh đạo được nhân dân.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng cần quan tâm đến đời sống của các
cán bộ nơi vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số, tạo điểu kiện để thu hút
cán bộ đến làm việc.
Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn vùng
đồng bào dân tộc.
Mặt trái của kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường, mở cửa, hội nhập
dẫn đến khá nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội vùng đồng bào dân tộc, khiến chúng ta
không thể xem thường.

Tệ buôn lậu, nhất là vùng giáp biên, cửa khẩu còn khá phức tạp, làm ảnh
hưởng đến cuộc sống, sinh họat của đồng bào. Các tệ nạn nghiện hút, đào vàng,
phá rừng, đất đai canh tác, nguồn nước… là những bức xúc ở nhiều vùng dân

16


tộc, gây bất ổn với đời sống đồng bào. Tệ tham ơ, tham nhũng, lãng phí ở một số
cán bộ làm mất lòng tin của nhân dân.
Những hiện tượng tiêu cực như vậy xảy ra ngay trong địa phương, nơi sinh
sống hàng ngày khiến cho lịng tin, tình đồn kết, yêu thương giúp đỡ nhau trở
thành hình thức, mất đi những giá trị thiêng liêng của chiến lược công tác dân
tộc. Trong khi đó, bọn xấu, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng những sở
hở, yếu kém của ta; lợi dụng những vấn đề lịch sử, tôn giáo để chia rẽ khối đồn
kết dân tộc, gây hiềm khích giữa các dân tộc.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các
dân tộc.
Đất nước ta đã trải qua 4000 năm lịch sử với biết bao biến cố, thăng trầm,
và có đến hơn một nửa thời gian đó chúng ta phải đấu tranh với giặc ngoại xâm
từ các nước phong kiến phương Bắc đến các nước đế quốc, thực dân phương
Tây. Cũng trong chính thời gian ấy, dân tộc ta đã thể hiện được sức mạnh kiên
cường, bất khuất cùng với đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân cả nước để
đánh thắng những đế chế hùng mạnh và sừng sỏ nhất thời bấy giờ. Tinh thần
đồn kết đó phải được giữ gìn và phát huy mọi lúc, mọi nơi, làm thành sức mạnh
đưa đất nước vượt qua những khó khăn đi lên Chủ nghĩa xã hội.

17




×