Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.32 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN VĂN TUẤN

BẢO VỆ QUYỀN LỢI BÊN VAY
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BẢO VỆ QUYỀN LỢI BÊN VAY
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số cn: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS – TS. Nguyễn Văn Vân
Học viên: Trần Văn Tuấn
Lớp: Luật kinh tế, Khóa 28

TP. HỒ CHÍ MINH –NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nghiên cứu, số liệu và thông tin tham khảo nêu trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy, trung thực và đều được trích dẫn nguồn gốc.
Tác giả

Trần Văn Tuấn


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BLDS 2015:

Bộ luật Dân sự năm 2015

BLHS 2015:

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

BLTTDS 2015:

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

CTTC:

Cơng ty tài chính

HĐ:


Hợp đồng

Luật BVQLNTD 2010:

Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng năm 2010

Luật các TCTD 2010:

Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước

TCTD:

Tổ chức tín dụng


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI BÊN VAY TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TỔ CHỨC TÍN DỤNG ........................6
1.1. Nhận diện vấn đề bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu
dùng của tổ chức tín dụng ....................................................................................6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động cho vay tiêu dùng của các tổ chức
tín dụng................................................................................................................6
1.1.2. Vị thế pháp lý – kinh tế của bên vay và các quyền lợi hợp pháp của bên
vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng. ..............................................................11
1.1.3. Quyền lợi hợp pháp của bên vay tiêu dùng.............................................12

1.1.4. Lý do phải bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng
của tổ chức tín dụng ..........................................................................................15
1.1.5. Phương thức bảo vệ quyền lợi của bên đi vay ....................................... 18
1.2. Khái quát pháp luật bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu
dùng của tổ chức tín dụng .................................................................................20
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của bên vay trong hoạt
động cho vay tiêu dùng của các tổ chức tín dụng .............................................20
1.2.2. Quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của bên vay tiêu dùng
...........................................................................................................................21
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................33
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI BÊN VAY
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
VÀ ĐỀ XUẤT HỒN THIỆN PHÁP LUẬT .......................................................34
2.1. Bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của tổ chức
tín dụng theo pháp luật ngân hàng ....................................................................34
2.1.1. Quy định về quyền của bên vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng của tổ
chức tín dụng .....................................................................................................34


2.1.2. Quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong quan hệ cho vay tiêu
dùng của tổ chức tín dụng .................................................................................37
2.2. Bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của tổ chức
tín dụng theo pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ..............................46
2.2.1. Quy định về điều khoản thương mại chung ............................................46
2.2.2. Quy định về cung cấp và bảo mật thông tin ............................................51
2.2.3. Quy định về bảo vệ bí mật thơng tin người tiêu dùng .............................54
2.3. Các chủ thể bảo vệ quyền lợi bên vay ........................................................57
2.3.1. Bảo vệ từ phía Nhà nước.........................................................................57
2.3.2. Bảo vệ từ phía các Hiệp hội ....................................................................58
2.3.3. Bên vay tự bảo vệ ....................................................................................59

2.4. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt
động cho vay tiêu dùng của tổ chức tín dụng ...................................................60
2.4.1. Nhóm đề xuất hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi bên vay trong
hoạt động cho vay tiêu dùng của tổ chức tín dụng trong pháp luật về tín dụng
ngân hàng..........................................................................................................60
2.4.2. Nhóm đề xuất hồn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi bên vay trong
hoạt động cho vay tiêu dùng của tổ chức tín dụng trong pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng .................................................................................63
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cho vay tiêu dùng là hoạt động đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Đây là hoạt
động cho vay mà các tổ chức tín dụng (TCTD) hướng đến khách hàng là cá nhân,
hộ gia đình nhằm đáp ứng cho những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống. Khác với
người dân ở các nước phát triển trên thế giới thường có xu hướng “ứng trước, trả
dần” đối với các khoản tiêu dùng như mua ơ tơ, điện thoại, máy tính hay sửa nhà,…
người dân Việt Nam có thói quen chỉ chi tiêu trong phạm vi số tiền mình đang sở
hữu, đối với những khoản tiền lớn hơn thì sẽ tích lũy dần, hay vay mượn người thân
rồi thanh toán một lần cho sản phẩm. Trong thời gian qua xuất phát từ nhu cầu chi
tiêu tăng cao cùng với mong muốn sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi huy
động từ trong xã hội và mở rộng thị phần trên thị trường kinh doanh tiền tệ, hoạt
động cho vay tiêu dùng cũng đã phát triển mạnh mẽ ở nước ta.
Sự ra đời của hoạt động cho vay tiêu dùng đóng một vai trị quan trọng tới
sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung và hoạt động kinh doanh của hệ

thống các TCTD nói chung và cơng ty tài chính (CTTC) nói riêng. Với dân số 90
triệu dân, dự báo sẽ đạt tới 100 triệu dân vào năm 2025, Việt Nam đang được
đánh giá là một trong những thị trường tiềm năng phát triển hình thức cho vay
tiêu dùng hàng đầu trong khu vực. Đồng thời, xu hướng chi tiêu cởi mở của
người dân đã tạo nên làn sóng chuyển hướng bán lẻ mạnh mẽ trong các TCTD
thời gian qua, đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng tiêu dùng đi lên đáng kể. Tại thời
điểm cuối 2017, tín dụng tiêu dùng tăng khoảng 65%, trong khi năm 2016 tăng
50,2%. Tỷ trọng tín dụng tiêu dùng trong tổng dư nợ đã tăng từ mức 12,3% (năm
2016) lên 18% (năm 2017)1.
Tuy nhiên, bên cạnh những hiệu quả mà hoạt động cho vay tiêu dùng mang
lại cho khách hàng thì trong những năm gần đây, hoạt động này đang tiềm ẩn nhiều
nguy cơ xâm phạm quyền lợi bên vay tiêu dùng. Các hành vi xâm phạm này được
thực hiện rất khéo léo, thường đánh vào đặc điểm chính của loại hình tín dụng tiêu
dùng là thủ tục đơn giản và thời gian giải ngân nhanh,… vi phạm pháp luật về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, gây nhiều thiệt hại cho khách hàng.
1

Đỗ Linh, Tín dụng tiêu dùng: Cẩn trọng, phịng tránh rủi ro, đăng trên website: (truy cập ngày 08/02/2020).


2
Theo Cục Quản lý cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thực trạng
trên xuất phát từ những lý do:
Thứ nhất, khó khăn trong việc xử lý vấn đề lãi suất. Hiện nay, dù BLDS 2015
quy định giới hạn lãi suất thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm (Điều 468
BLDS năm 2015) thì TCTD và khách hàng vẫn có thể thỏa thuận về lãi suất cho vay
theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách
hàng, trừ trường hợp quy định lãi suất cho vay tối đa khác (Điều 13 Thông tư số
39/2016/TT-NHNN) và lãi suất này thường rất cao, chắc chắn trên 20%/năm. Hoặc
các TCTD có các gói dịch vụ tiêu dùng lãi suất 0%, chỉ trả góp tiền gốc hàng tháng,

tuy nhiên thường lãi suất ưu đãi 0% chỉ áp dụng từ 3 – 6 tháng đầu, sau thời gian
này khách hàng sẽ phải chịu lãi suất rất cao, số lãi này được tính trên tổng dư nợ
ban đầu chứ không phải dư nợ giảm dần.
Thứ hai, TCTD cung cấp thơng tin khơng chính xác, đầy đủ về Hợp đồng
mẫu, điều kiện giao dịch chung.
Thứ ba, TCTD không thông báo rõ ràng mục đích thu thập thơng tin.
Thứ tư, TCTD có dấu hiệu đe dọa, quấy rối người tiêu dùng khi nhắc nợ, thu
hồi nợ.
Thứ năm, khi xảy ra tranh chấp bên vay tiêu dùng là bên “yếu thế” hơn do
kiến thức pháp luật kém, thiếu thông tin hoặc thờ ơ với pháp luật nên chưa nhận
được sự bảo vệ kịp thời, đầy đủ từ Nhà nước, các Hiệp hội.
Thứ sáu, bên vay thiếu kiến thức để hiểu thông tin khi giao kết, khi tranh
chấp thì khơng có tài liệu, chứng cứ và không biết thông tin để liên hệ các các cơ
quan quản lý nhà nước, hiệp hội để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên là việc thiếu hành lang pháp lý đã
làm trở ngại chính khiến cho loại hình cho vay tiêu dùng chưa phát triển đồng bộ
với nhu cầu tiếp cận tài chính phục vụ tiêu dùng của người dân.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp pháp lý để bảo vệ hiệu quả
quyền lợi bên vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng, để đảm bảo sự hài hòa giữa
chức năng bảo vệ người tiêu dùng và điều tiết hoạt động của các TCTD theo thông
lệ quốc tế và phù hợp với thực tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay là rất
cần thiết. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động
tín dụng tiêu dùng TCTD” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.


3
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới khía cạnh pháp lý, đến nay vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn
đề này, ngồi các cơng trình sau:
a) Luận văn thạc sỹ “Pháp luật bảo vệ quyền lợi của Bên vay trong quan hệ

hợp đồng tín dụng tiêu dùng” của Trần Thị Hiền Lương, thực hiện tại Trường Đại
học Luật Tp.HCM, năm 2014;
b) Khóa luận “Pháp luật về hoạt động cho vay tiêu dùng của các tổ chức tín
dụng” Nguyễn Thị Hồng, Trường Đại học Luật Tp.HCM, năm 2011.
Các luận văn, khóa luận nói trên chỉ tập trung nêu rõ thực trạng áp dụng pháp
luật bảo vệ quyền lợi của bên vay chứ chưa nêu rõ quyền của bên vay và các
phương thức nhằm bảo vệ quyền lợi bên vay, đồng thời các luận văn này đã được
thực hiện cách đây nhiều năm nên giá trị thực tiễn khơng cịn phù hợp.
Ngồi ra, có một số giáo trình, bài viết về pháp luật hoạt động tín dụng tiêu
dùng đăng trên tạp chí, sách, báo trong nước xung quanh vấn đề bảo vệ quyền lợi
bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng.
Các tác giả đã khảo sát, nghiên cứu về mặt lý luận, dẫn chứng các số liệu
thực tế và đưa ra các giải pháp nhằm cảnh báo ở một khía cạnh pháp luật khá hẹp,
mà chưa đưa ra được một khn khổ pháp lý hồn thiện quy định về hoạt động cho
vay tiêu dùng. Tuy nhiên, các vấn đề nghiên cứu trên sẽ là nguồn tham khảo quý giá
và là cơ sở lý luận giúp cho việc tiếp cận vấn đề hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của các TCTD.
Đã đến lúc cần có một hành lang pháp lý rõ ràng để đưa loại hình này về
đúng vai trị, vị trí của nó trong đời sống kinh tế, xã hội. Do đó,việc tác giả lựa chọn
đề tài “Bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của tổ chức
tín dụng” làm luận văn thạc sĩ luật học muốn góp phần vào cơng tác bảo vệ quyền
lợi của bên vay tiêu dùng là các cá nhân nhỏ lẻ trong xã hội, đảm bảo sự hài hòa
giữa chức năng bảo vệ người tiêu dùng và điều tiết hoạt động của các TCTD của
Nhà nước và pháp luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài đưa ra là làm sáng tỏ vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ bên vay trong hoạt động tín dụng tiêu dùng tại
các TCTD.



4
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất: tìm hiểu và khái quát vị thế pháp lý, kinh tế của bên vay trong quan
hệ tín dụng tiêu dùng tại các TCTD;
Thứ hai: Nhận diện các quyền lợi hợp pháp của bên vay có thể bị xâm hại bởi
bên cho vay trong hoạt động tín dụng tiêu dùng;
Thứ ba: Khảo sát pháp luật Việt Nam về các phương thức bảo vệ bên vay
trong quan hệ tín dụng tiêu dùng thơng qua hệ thống pháp luật ngân hàng và pháp
luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ tư: tìm kiếm các giải pháp pháp lý nhằm gia tăng hiệu quả các phương
thức bảo vệ bên vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi
bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của TCTD bao gồm pháp luật ngân hàng
và pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá
những văn bản pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trên thực tế về hoạt động cho
vay tiêu dùng để tìm hiểu những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về
hoạt động cho vay tiêu dùng và từ đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt
động cho vay tiêu dùng là tương đối rộng và bao gồm nhiều vấn đề, tuy nhiên phạm
vi nghiên cứu của luận văn khơng thể phân tích hết các vấn đề đó, xuất phát từ mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung làm rõ những nội dung chính
gồm: Nhận diện vị trí pháp lý – kinh tế của bên vay và các quyền lợi hợp pháp của
bên vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng; Nhu cầu cần được bảo vệ của bên vay; Chủ
thể bảo vệ; Phương thức bảo vệ. Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật
đó dựa trên cơ sở khoa học thực tiễn vận hành những nguyên nhân, hạn chế còn tồn
tại khi áp dụng pháp luật và trong quá trình thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi bên
vay. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
lợi bên đi vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê để có cái
nhìn khách quan, logic đối với các vấn đề nghiên cứu.


5
Chương1, khi đề cập đến những vấn đề lý luận chung, tác giả sử dụng
phương pháp phân tích các quy định của pháp luật, cũng như trong một số hợp đồng
tín dụng tiêu dùng của các TCTD; so sánh các quy định của pháp luật hiện hành và
quy định trước đó để trình bày các vấn đề pháp lý liên quan đến vị trí pháp lý - kinh
tế của bên vay, các quyền lợi hợp pháp của bên vay; sự cần thiết phải bảo vệ quyền
lợi của bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng của TCTD.
Chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích thực trạng pháp luật
bảo vệ quyền lợi bên vay, đồng thời so sánh việc quy định của pháp luật với việc áp
dụng trên thực tiễn; Tổng hợp những quan điểm đã được đưa ra liên quan đến đề tài
làm cơ sở lý luận để đưa ra các quan điểm cá nhân; Tham khảo ý kiến của các
chuyên gia pháp chế ngân hàng, các luật sư, các học giả để có thêm cái nhìn đa
chiều về vấn đề liên quan và đề xuất hoàn thiện pháp luật bảo vệ bên vay trong hoạt
động cho vay tiêu dùng của TCTD.
Bên cạnh đó tác giả cũng có kế thừa các thành quả cơng trình nghiên cứu
trước đó và các nguồn tài liệu từ internet trong việc nghiên cứu nhưng vẫn đảm bảo
tính riêng, tính khoa học trong cơng trình nghiên cứu của mình.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
luận văn được chia thành hai chương:
Chương 1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay
tiêu dùng tổ chức tín dụng.
Chương 2. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động
cho vay tiêu dùng của tổ chức tín dụng và đề xuất hồn thiện pháp luật.



6
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI BÊN VAY
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Nhận diện vấn đề bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay
tiêu dùng của tổ chức tín dụng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động cho vay tiêu dùng của các tổ chức
tín dụng
Vay tiêu dùng (Consumer loan), hay cịn được gọi là tín dụng tiêu dùng
(Consumer credit), cho vay bán lẻ (Retail lending)2, là khoản vay của cá nhân, gia
đình để mua sắm hàng hóa, dịch vụ với mục đích tiêu dùng, phục vụ cuộc sống như:
phương tiện di chuyển, thiết bị điện tử, trang thiết bị đồ dùng gia đình, thiết bị giải
trí… Đây là một trong những hình thức cho vay truyền thống của các TCTD. Hoạt
động cho vay tiêu dùng đã xuất hiện khá lâu và phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia
phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động cho vay tiêu dùng chỉ mới xuất hiện và
phát triển ở Việt Nam trong những năm trở lại đây3.
Trước 15/03/2017, khái niệm cho vay tiêu dùng chưa được định nghĩa chính
thức và cụ thể trong bất kỳ văn bản pháp luật nào mà chỉ được nhắc tới trong các
quy định về cấp tín dụng nói chung trong Luật các TCTD 20104 và Quy chế cho vay
đối với khách hàng, ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, ngày
31/12/2001 của Thống đốc NHNN Việt Nam5. Cụ thể, trong Luật các TCTD 2010,
khái niệm “cho vay tiêu dùng” chỉ xuất hiện một lần tại Điểm d khoản 1 Điều 108
Luật các TCTD 2010 và khơng có định nghĩa giải thích rõ ràng. Bên cạnh đó, Quyết
định 1627/2001/QĐ-NHNN đã khơng sử dụng thuật ngữ “cho vay tiêu dùng” mà
chỉ được gọi là cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để thực hiện dự án đầu tư,
phương án phục vụ đời sống (Điều 1 và khoản 2 Điều 2 Quy chế cho vay đối với
khách hàng, ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 của Thống đốc NHNN).
2


Theo Từ điển Uslegal.com, xem tại website: (truy cập ngày
24/08/2019).
3
Vay tiêu dùng – Xu hướng mới của người Việt, đăng tại website: (truy cập ngày 10/08/2019).
4
Đã được sửa đổi bởi Luật số: 17/2017/QH14 ngày 20/11/2017 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các
TCTD 2010.
5
Đã chấm dứt hiệu lực và được thay thế bằng Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016.


7
Sau đó, trong Cơng văn 2956/NHNN-CSTT về kiểm sốt hoạt động tín dụng
năm 2011 do NHNN Việt Nam ban hành có khái niệm “cho vay tiêu dùng” thơng
qua một điều khoản liệt kê “cho vay tiêu dùng” là một trong các hình thức cho vay
phi sản xuất: “cho vay đối với nhu cầu vốn để phục vụ đời sống, cho vay thông qua
nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng (gọi là cho vay tiêu dùng)”.
Như vậy, trong giai đoạn này chưa có một định nghĩa cụ thể về khái niệm
“cho vay tiêu dùng” trong pháp luật Việt Nam mà chỉ được hiểu là các khoản cho
vay để phục vụ nhu cầu vốn nhằm phục vụ đời sống, mang tính chất phi sản xuất và
khơng nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Sau ngày 15/03/2017, Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động
cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng do NHNN
Việt Nam ban hành (“Thông tƣ 39/2016/TT-NHNN”) và Thông tư 43/2016/TTNHNN quy định cho vay tiêu dùng của cơng ty tài chính do NHNN Việt Nam ban
hành (“Thơng tƣ 43/2016/TT-NHNN”) có hiệu lực đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn
về khái niệm “cho vay tiêu dùng”.
Cụ thể, Thông tư 39/2016/TT-NHNN vẫn sử dụng khái niệm “Cho vay phục
vụ nhu cầu đời sống” tuy nhiên đã quy định bên cho vay là các TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi chung là “TCTD”) và bên đi vay là khách hàng

cá nhân với mục đích vay là “để thanh tốn các chi phí cho mục đích tiêu dùng,
sinh hoạt của cá nhân đó, gia đình của cá nhân đó” (Khoản 4 Điều 2 Thơng tư
39/2016/TT-NHNN).
Cịn trong Thơng tư 43/2016/TT-NHNN đã có định nghĩa cụ thể hoạt động
cho vay tiêu dùng của CTTC tại Khoản 1 Điều 3: “Cho vay tiêu dùng là việc cơng ty
tài chính cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng là cá nhân nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng của khách
hàng, gia đình của khách hàng đó với tổng dư nợ cho vay tiêu dùng đối với một
khách hàng tại cơng ty tài chính đó khơng vượt quá 100.000.000 đồng (một trăm
triệu đồng). Mức tổng dư nợ quy định tại khoản này không áp dụng đối với cho vay
tiêu dùng để mua ôtô và sử dụng ơtơ đó làm tài sản bảo đảm cho chính khoản vay
đó theo quy định của pháp luật.”
Từ những quy định trên có thể kết luận:
Cho vay tiêu dùng của các TCTD là một hoạt động cấp tín dụng có chức
năng cấp tín dụng tiêu dùng (đa phần là các CTTC) (bên cho vay) chuyển giao một


8
khoản vốn tiền tệ cho cá nhân (bên vay) để sử dụng khoản vốn này vào mục đích
mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu đời sống cá nhân, gia đình; Bên
vay có nghĩa vụ hồn trả vốn và lãi cho vay sau thời hạn cam kết. Hạn mức vay,
thời hạn vay, lãi suất vay và thủ tục vay thường được quy định chung theo từng
nhóm khách hàng để giảm thiểu chi phí kinh doanh từ phía TCTD.
Đặc điểm của cho vay tiêu dùng bao gồm:
(a) Đặc điểm về chủ thể:
Tham gia quan hệ tín dụng tiêu dùng có bên cho vay là TCTD và bên vay
(khách hàng).
- Bên vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng là cá nhân.
Trước đây, chủ thể đi vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng theo pháp luật
Việt Nam bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Tuy nhiên từ ngày 15/03/2017 khi

Thơng tư 39/2016/TT-NHNN và Thơng tư 43/2016/TT-NHNN có hiệu lực, chủ thể
đi vay trong quan hệ này chỉ là cá nhân (Khoản 4 Điều 2 Thông tư 39/2016/TTNHNN và Khoản 1 Điều 3 Thông tư 43/2016/TT-NHNN). Quy định này là để phù
hợp với BLDS 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017. Cụ thể, BLDS 2015 quy định
các đối tượng không phải là pháp nhân như hộ kinh doanh, hộ gia đình,... khơng
phải là chủ thể của các quan hệ dân sự, trong đó bao gồm quan hệ tín dụng tại các
TCTD.Việc quy định cụ thể bên đi vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng chỉ là cá
nhân là phù hợp vì mục đích vay vốn trong quan hệ này là để phục vụ cho đời sống,
sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân đó và gia đình cá nhân đó nên cần xác địch cụ thể
chủ thể nào là người giao kết HĐ và có nghĩa vụ trả nợ. Như vậy, hiện nay theo quy
định của pháp luật thì bên vay tiêu dùng chỉ có thể là cá nhân.
Tùy vào đặc điểm đặc thù của TCTD và tính chất khoản vay của khách hàng
mà sẽ có các điều kiện đi vay khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung khách hàng cá nhân
phải thỏa mãn các điều kiện của pháp luật tín dụng nói chung. Đó là các điều kiện
về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự. Ngoài ra, bên đi vay phải
đảm bảo các điều kiện khác như: nhu cầu vay vốn nhằm để sử dụng cho mục đích
tiêu dùng hợp pháp, có phương án sử dụng vốn vay tiêu dùng khả thi, có đủ khả
năng tài chính để trả nợ (Điều 7 Thơng tư 39/2016/TT-NHNN).
Một điểm cần lưu ý là bên đi vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng có thể là
cá nhân có quốc tịch nước ngồi. Trước đây pháp luật cho vay nói chung khơng có


9
bất cứ quy định nào cấm người nước ngoài ký kết HĐ tín dụng6. Tuy nhiên, từ ngày
15/03/2017, Thơng tư 39/2016/TT-NHNN có hiệu lực đã quy định cụ thể khách
hàng trong quan hệ tín dụng có thể là cá nhân có quốc tịch nước ngồi (Điểm b
Khoản 3 Điều 2 Thơng tư 39/2016/TT-NHNN). Chủ thể này mang tính chất pháp lý
khá đặc biệt do đó các TCTD sẽ căn cứ vào quy định của từng lĩnh vực pháp luật
chuyên ngành đối với người nước ngồi để đưa ra có điều kiện cho vay cụ thể khác
nhau cho các khoản vay tiêu dùng của họ.
- Bên cho vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng là các TCTD, trong đó chủ

yếu là các ngân hàng thương mại và các CTTC:
Bên cho vay trong quan hệ cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng
là các các TCTD, cụ thể đó là các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng hợp tác xã,
TCTD phi ngân hàng, Tổ chức tài chính vi mô, Quỹ tin dụng nhân dân hoặc Chi
nhánh ngân hàng nước ngồi (Khoản 2 Điều 2 Thơng tư số 39/2016/TT-NHNN
ngày 30/12/2016 của NHNN). Trong đó, các loại hình TCTD phi ngân hàng bao
gồm cơng ty tài chính, cơng ty cho thuê tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác
(Khoản 4 Điều 4 Luật các TCTD 2010). Ngoài ra, các hình thức hiện diện thương
mại của TCTD nước ngồi như ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước
ngồi, cơng ty tài chính liên doanh, cơng ty tài chính 100% vốn nước ngồi, cơng ty
cho th tài chính liên doanh, cơng ty cho th tài chính 100% vốn nước ngồi cũng
được coi là ngân hàng thương mại, công ty tài chính và cơng ty cho th tài chính
(Khoản 3 Điều 4 Luật các TCTD 2010). Các TCTD này được thành lập với nhiều
loại hình khác nhau như cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, hợp tác
xã (Điều 6 Luật các TCTD 2010). Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đơn vị phụ
thuộc của ngân hàng nước ngồi, khơng có tư cách pháp nhân, được ngân hàng
nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại
Việt Nam (Khoản 9 Điều 4 Luật các TCTD 2010). Để trở thành bên cho vay trong
quan hệ tín dụng nói chung và tín dụng tiêu dùng nói riêng, các chủ thể trên phải
thỏa mãn các điều kiện sau7:

6

Trần Thị Hiền Lương (2014), Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng
tiêu dùng, Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 9.
7
Trường Đại học Luật Tp. HCM (2018), Giáo trình Luật Ngân hàng (Tái bản lần thứ nhất), NXB Hồng Đức
– Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tháng 03, tr. 323-324.



10
+ Có giấy phép thành lập và hoạt động do NHNN cấp;
+ Có điều lệ do NHNN chuẩn y;
+ Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp;
+ Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết HĐ tín dụng với
khách hàng.
Các yêu cầu trên nhằm mục đích đảm bảo, kiểm sốt và bảo vệ hoạt động tín
dụng ngân hàng, vốn mang nhiều rủi ro cho nền kinh tế.
(b) Đặc điểm về tính chất “tiêu dùng”
Từ các định nghĩa về cho vay tiêu dùng tại Thơng tư 39/2016/TT-NHNN và
Thơng tư 43/2016/TT-NHNN, ta có thể thấy đặc trưng của khoản vay tiêu dùng
chính là việc các khoản vay này được dùng cho mục đích “tiêu dùng”.
Tính chất “tiêu dùng” trong mục đích sử dụng vốn vay là đặc trưng chủ yếu
để phân biệt tín dụng tiêu dùng với tín dụng sản xuất, kinh doanh, đầu tư, khởi
nghiệp. Hiểu theo nghĩa rộng, tín dụng tiêu dùng bao hàm cả việc sử dụng khoản
vay để sửa chữa nhà ở, chi phí du học, học nghề, chữa bệnh, du lịch,…Tín dụng tiêu
dùng được hiểu là sử dụng nguồn vốn để mua sắm sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ để
đáp ứng nhu cầu cuộc sống của cá nhân, gia đình của khách hàng vay chứ khơng
nhằm mục đích kinh doanh sinh lợi. Việc phân biệt tiêu dùng và đầu tư, kinh doanh
chỉ là tương đối bởi các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân có thể sử
dụng nguồn vốn vay để chi trả cho các hoạt động nói trên nhưng khơng vì thế mà
kết luận đó là vay tiêu dùng.
(c) Đặc điểm về dư nợ vay
Đối với phương thức cho vay tiêu dùng theo hạn mức, hai bên sẽ thỏa thuận
một mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định và
TCTD sẽ thực hiện cho vay từng lần trong hạn mức cho vay. Mức dư nợ cho vay tối
đa và thời gian duy trì mức dư nợ này sẽ được xem xét lại ít nhất mỗi năm một lần.
Riêng đối với hoạt động cho vay tiêu dùng của CTTC, Khoản 1 Điều 3 Thông tư
43/2016/TT-NHNN quy định tổng dư nợ cho vay tiêu dùng đối với một khách hàng

tại CTTC nhất định “không vượt quá 100.000.000 đồng” (trừ hoạt động cho vay
tiêu dùng để mua ôtô và sử dụng ôtô đó làm tài sản bảo đảm cho chính khoản vay
đó theo quy định của pháp luật).


11
(d) Đặc điểm về thời hạn vay
Thời hạn cho vay của các khoản vay tiêu dùng thường khá ngắn. Hầu hết các
khoản cho vay này là ngắn hạn (tối đa 01 năm) hoặc trung hạn (trên 01 năm và tối
đa 05 năm).
(e) Đặc điểm về thủ tục vay
Thủ tục cho vay tiêu dùng nhìn chung đơn giản hơn nhiều so với hình thức
cho vay thương mại với thời gian xử lý u cầu vay rất nhanh chóng. Đây cũng
chính là một trong những lý do chính khiến tín dụng tiêu dùng ngày càng có sức thu
hút rất lớn đối với khách hàng. Thậm chí hiện nay khách hàng có thể vay tiền qua
app (ứng dụng) mà không cần tới ký HĐ với các TCTD. Thời gian toàn bộ các bước
từ bước tải app, cung cấp các thông tin cá nhân cho đến khi được duyệt tiền online chỉ
mất 10 phút thao tác8.
1.1.2. Vị thế pháp lý – kinh tế của bên vay và các quyền lợi hợp pháp của bên
vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng
Dưới phương diện kinh tế, người tiêu dùng là chủ thể đóng vai trị tối quan
trọng vì họ là người mua và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của nền kinh tế do đó
họ có quyền quyết định sự tồn vong của các doanh nghiệp và sự thịnh vượng của
nền kinh tế nói chung. Để có thể tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải bán được
hàng cho người tiêu dùng và một nền kinh tế phát triển ổn định phải có một lực
lượng người tiêu dùng có sức mua mạnh mẽ. Tuy nhiên, thu nhập của người tiêu
dùng chủ yếu từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ cổ phiếu, cho thuê nhà và các
hoạt động khác. Nguồn thu nhập của cá nhân, hộ gia đình được phân bổ đều theo
chu kỳ hàng tháng, hàng tuần. Trong khi đó, để mua sắm các sản phẩm hàng hóa có
giá trị tương đối lớn, người tiêu dùng phải lựa chọn hình thức tiêu dùng trước, trả

nợ sau; tức vay vốn để tiêu dùng trước, trả nợ sau. Lúc này, các TCTD là chủ thể
cung cấp vốn chủ yếu cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Như vậy,
dưới phương diện kinh tế, người vay tiêu dùng vừa là khách hàng tiêu thụ hàng hóa,
sản phẩm, dịch vụ của nền kinh tế vừa là khách hàng vay tại các TCTD.
Tín dụng tiêu dùng ở Việt Nam là một lĩnh vực tín dụng quan trọng và tiềm
năng. Mặc dù tổng dư nợ của mỗi khách hàng vay tiêu dùng không lớn nhưng nếu
8

Tiến Long, Vay tiền qua app: quá nhanh, quá nguy hiểm, đăng trên website: (truy cập ngày 8/2/2020),


12
xét về số lượng, thì khách hàng vay tiêu dùng trong mọi quốc gia, mọi nền kinh tế
luôn chiếm số lượng lớn.
Trong khi đó, người tiêu dùng thường bị đặt ở một vị thế “bất cân xứng” so
với TCTD và họ thường khơng được quan tâm và khơng có đủ khả năng để tự bảo
vệ mình, xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, mặc dù mọi khách hàng vay tiêu dùng đều là các cá nhân có đầy đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nhưng về trình độ, năng lực và kiến
thức của họ khơng đồng đều. Đa phần, họ khơng quan tâm tìm hiểu hoặc không
được tư vấn đầy đủ để hiểu đúng quy trình, thủ tục, các quyền và lợi ích hợp pháp
của họ trong quan hệ tín dụng tiêu dùng cũng như nhận thức đúng những hệ quả
kinh tế - pháp lý bất lợi khi giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Thứ hai, khách hàng vay tiêu dùng thường không quan tâm đầu tư thời gian,
cơng sức để tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ tín dụng
tiêu dùng, họ chỉ quan tâm đến việc được nhận số tiền vay đúng theo mong muốn và
thu xếp trả nợ khi đến hạn. Các quyền, nghĩa vụ, lợi ích khác không được bên vay
chú trọng.
Thứ ba, khách hàng vay tiêu dùng có tâm lý bỏ qua mọi khuyến nghị khuyến
cáo, khơng tìm hiểu pháp luật, khơng đọc hợp đồng, khơng khiếu nại khởi kiện khi

lợi ích bị xâm hại,... do số tiền vay không nhiều, tần suất vay khơng thường xun
trong khi chi phí th tư vấn luật sư, thời gian tham gia tố tụng kéo dài và tốn kém.
Chính vì những lý do trên, dù mối quan hệ tín dụng tiêu dùng được bên vay
và bên cho vay xác lập trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện thì thực tế vẫn khơng đạt
được sự bình đẳng giữa các bên. Trong mối tương quan với bên vay là những khách
hàng cá nhân đơn lẻ hầu như chưa có ý thức bảo vệ quyền lợi của mình, các TCTD
là những định chế tài chính với nguồn lực tài chính và sức ảnh hưởng to lớn và đặc
biệt là lợi thế về thông tin đã giúp các TCTD luôn nắm giữ “quyền lực mặc cả” cao
hơn so với bên vay. Chính vì vậy phải đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi của bên vay,
đảm bảo sự cân bằng, bình đẳng trong quan hệ cho vay tiêu dùng.
1.1.3. Quyền lợi hợp pháp của bên vay tiêu dùng
Trong mỗi quan hệ pháp luật, mỗi bên đều có các quyền và nghĩa vụ tương
ứng với đặc thù chủ thể của mình. Các bên phải tôn trọng các quyền của nhau cũng


13
phải thực hiện các nghĩa vụ của mình. Bên đi vay trong quan hệ tín dụng tiêu dùng
là các cá nhân thỏa mãn các điều kiện vay vốn của pháp luật tại Điều 7 Thơng tư
39/2016/TT-NHNN. Nhìn chung, khi tham gia vào quan hệ tín dụng tiêu dùng, bên
đi vay có 2 nhóm quyền cơ bản sau các quyền tiêu biểu quan trọng sau:
(a) Nhóm quyền phát sinh từ pháp luật (do pháp luật quy định)
- Quyền tự do hợp đồng của bên vay được thể hiện ở các khía cạnh chính sau
đây: (i) Quyền được tự do bình đẳng, tự nguyện giao kết HĐ; (ii) Quyền được tự do
lựa chọn đối tác giao kết HĐ; (iii) Quyền được tự do thỏa thuận nội dung giao kết
HĐ; (iv) Quyền được tự do thỏa thuận thay đổi nội dung HĐ trong quá trình thực
hiện; (v) Quyền được tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện HĐ; (vi)
Quyền được tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và giải quyết tranh chấp phát sinh từ
HĐ9 (ghi nhận trong BLDS 2015, Luật Thương mại 2005, Bộ luật TTDS 2015).
- Quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng theo quy định của pháp luật
(Điều 13 và 14 Thông tư 39/2016/TT-NHNN). Quan hệ tín dụng tiêu dùng có bản

chất là một giao dịch dân sự với sự tham gia của các chủ thể có địa vị pháp lý bình
đẳng tham gia giao dịch để đạt được mục đích của mình. Các bên có quyền thỏa
thuận trong phạm vi pháp luật cho phép để đạt được lợi ích mà mình mong muốn
khi xác lập giao dịch đó. Trong quan hệ tín dụng tiêu dùng, lãi suất và phí là hai yếu
tố rất quan trọng ảnh hưởng tới việc các bên có xác lập quan hệ hay khơng. Vì vậy,
việc quy định cụ thể quyền thỏa thuận của các bên về vấn đề này tạo cơ sở để các
bên, đặc biệt là bên đi vay, biết rõ và có cơ sở để đảm bảo quyền lợi của mình;
- Quyền được cung cấp đầy đủ thông tin trước khi giao kết HĐ vay. Quyền
này được bảo đảm thực hiện bằng nghĩa vụ cung cấp đầy đủ các thông tin cho khách
hàng trước khi xác lập thỏa thuận cho vay của bên cho vay (Khoản 1 Điều 16
Thông tư 39/2016/TT-NHNN). Bên cho vay có nghĩa vụ phải cung cấp đầy đủ các
thơng tin như lãi suất cho vay, nguyên tắc và các yếu tố xác định lãi suất áp dụng
đối với lãi chậm trả, phương pháp tính lãi tiền vay, loại phí và mức phí áp dụng đối
với các khoản vay,… Đây là các thông tin quan trọng ảnh hưởng tới việc khách
hàng có quyết định giao kết HĐ tín dụng hay khơng do đó chúng cần được cung cấp
một cách đầy đủ cho khách hàng;

9

Ngọc Trang, Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, đăng trên
website: (truy cập ngày 09/02/2020).


14
- Quyền được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ (Khoản 2, 8 Điều 8 Luật BVQLNTD 2010). Đây là quyền của người tiêu
dùng nói chung khi tham gia vào giao dịch với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ.
Người tiêu dùng thơng thường sẽ không đủ kiến thức để hiểu rõ hết các vấn đề về
hàng hóa, dịch vụ được cung cấp do đó bên cung ứng hàng hóa dịch vụ có nghĩa vụ
phải tư vấn, hướng dẫn, giải đáp thắc mắc của người tiêu dùng về sản phẩm, dịch vụ

đó. Quyền này của người tiêu dùng càng cần phải được bảo vệ chặt chẽ hơn trong
quan hệ cho vay tiêu dùng vốn có bản chất phức tạp;
- Quyền được bảo đảm an tồn, bí mật thơng tin của mình khi tham gia giao
dịch (Điều 6 Luật BVQLNTD 2010). Các thông tin cá nhân của bên vay cung cấp
và các thông tin các TCTD thu thập được từ giao dịch cho vay phải được bảo vệ
theo quy định của pháp luật;
- Quyền được thông báo về việc chuyển nợ quá hạn, thực hiện chấm dứt cho
vay, thu hồi nợ trước hạn. Bên cho vay có nghĩa vụ phải thơng báo cho khách hàng
về việc chuyển nợ quá hạn, chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn (Điều 20 và
Khoản 1 Điều 21 Thơng tư 39/2016/TT-NHNN). Hình thức và nội dung thơng báo
này phải được bao gồm trong thỏa thuận cho vay (Điểm k, m Khoản 1 Điều 23
Thông tư 39/2016/TT-NHNN);
- Quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để
bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật khi bên cho vay vi phạm thỏa thuận
trong HĐ tín dụng tiêu dùng (Khoản 7 Điều 8 Luật BVQLNTD 2010).
- Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ khơng đúng tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, cơng dụng, giá cả hoặc
nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã cơng bố, niêm
yết, quảng cáo hoặc cam kết (Khoản 6 Điều 8 Luật BVQLNTD 2010).
(b) Nhóm quyền phát sinh từ hợp đồng tín dụng
Hiện nay, các HĐ tín dụng trên thị trường quy định cho bên vay tiêu dùng
các quyền cơ bản sau, ngoài những quyền được dẫn chiếu tới quy định pháp luật:
- Quyền từ chối các yêu cầu không đúng với các thỏa thuận trong HĐ tín
dụng, khế ước nhận nợ, HĐ bảo đảm, cam kết, thỏa thuận;


15
- Quyền được nhận khoản vay theo quy định tại HĐ tín dụng khi đáp ứng các
điều kiện về cấp tín dụng của TCTD và NHNN;

- Quyền khiếu nại, khởi kiện vi phạm HĐ tín dụng theo quy định pháp luật;
- Quyền thanh toán Khoản Nợ trước thời hạn quy định trong HĐ và phải trả
các khoản phạt, khoản phí theo HĐ;
- Quyền thay đổi kế hoạch thanh toán theo quy định pháp luật và phải trả các
khoản phạt khi có sự chấp thuận trước của bên cho vay;
- Quyền được nhận khoản tiền vay đúng với thỏa thuận trong HĐ.
1.1.4. Lý do phải bảo vệ quyền lợi bên vay trong hoạt động cho vay tiêu dùng
của tổ chức tín dụng
i) Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên vay tiêu dùng là gián tiếp kích cầu, góp
phần tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững hoạt động tín dụng tiêu dùng của hệ
thống ngân hàng Việt Nam
Thị trường tín dụng tiêu dùng đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong
thời gian qua. Tổng dư nợ cho vay tín dụng tiêu dùng trong bốn năm 2014 - 2018
tăng gấp 10 lần tuy nhiên vẫn còn một nửa dân số Việt Nam chưa bao giờ tiếp cận
tín dụng qua kênh ngân hàng10. Việc dung lượng thị trường vẫn còn rất lớn đã dẫn
tới sự gia nhập của không chỉ các đối tượng trong nước mà thị trường Việt Nam còn
là miếng bánh hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngồi. Thị trường tín dụng tiêu
dùng Việt Nam hiện tại có sự tham gia từ các ngân hàng trong nước, ngân hàng
nước ngồi và gần 20 CTTC. Trong đó các khoản vay có giá trị cao chủ yếu do các
ngân hàng cung ứng, các khoản vay có giá trị thấp hơn do các CTTC khai thác 11. So
với các ngân hàng, các CTTC có ưu thế so hơn ở thủ tục chứng minh tài chính dễ
dàng và thời gian giải ngân nhanh. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển nhanh chóng
của hoạt động tín dụng tiêu dùng là nhiều vi phạm gây xâm hại tới quyền lợi khách
hàng dẫn đến nhiều bức xúc trong khoảng thời gian gần đây. Chính vì vậy, chúng ta
cần phải cấp thiết hồn thiện các quy định của pháp luật, xây dựng hành lang pháp
lý để bảo vệ bên yếu thế hơn trong quan hệ cho vay tiêu dùng đó là các khách hàng
cá nhân.
10

Minh Thiên, Tín dụng tiêu dùng: Miếng bánh lớn dần, đăng trên website: (truy cập ngày 24/08/2019).

11
Minh Thiên, Tín dụng tiêu dùng: Miếng bánh lớn dần, tlđd (10).


16
ii) Bảo vệ quyền lợi của bên vay tiêu dùng để bảo đảm sự bình đẳng giữa bên
đi vay và tổ chức tín dụng trong quan hệ tín dụng tiêu dùng
Các TCTD nói chung là những chủ thể vơ cùng đặc biệt của nền kinh tế và
có địa vị pháp lý khá đặc biệt. Các TCTD hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
tiền tệ với tiềm lực kinh tế và khả năng chi phối rất lớn, đặc biệt khi xem xét
trong mối quan hệ tín dụng tiêu dùng với bên còn lại là các khách hàng cá nhân
đơn lẻ, những chủ thể vô cùng nhỏ bé khi đem so sánh với các ngân hàng hay
CTTC, không chỉ về mặt khả năng tài chính mà cịn về mặt kiến thức, khả năng
tiếp cận, sàng lọc thông tin và khả năng tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Một nền pháp chế văn minh phải ưu tiên bảo vệ bên yếu thế hơn12. Không thể
phủ nhận với sự phát triển công nghệ thông tin như hiện nay khách hàng rất dễ
dàng tìm hiểu được hầu hết các thơng tin cơ bản về các dịch vụ tín dụng. Thêm
vào đó, hầu như TCTD nào cũng xây dựng một đội ngũ tư vấn, chăm sóc khách
hàng để giải đáp các thắc mắc của khách hàng. Tuy nhiên, khách hàng thơng
thường sẽ khơng có khả năng hiểu rõ được tất cả các đặc điểm, điều khoản của
HĐ vay cũng như các quy định của pháp luật có liên quan do rào cản về kiến
thức chuyên môn. Thực tế, các khách hàng khi tham gia quan hệ cho vay tiêu
dùng đều rơi vào tình thế bị “ép buộc” phải sử dụng HĐ theo mẫu, đồng thời các
nhân viên của các TCTD thường có xu hướng cung cấp thông tin rất mơ hồ, qua
loa về các điều khoản của HĐ. Một thực trạng nữa cần nói đến là ý thức tự bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình của bên vay tiêu dùng vẫn chưa cao. Chính vì
những lý do trên, Nhà nước và pháp luật cần phải có cơ chế tác động, điều chỉnh
phù hợp và đúng mức để bảo vệ quyền lợi của bên đi vay, giúp cho vị thế của hai
bên phần nào trở nên cân bằng, bình đẳng.
iii) Bảo vệ quyền lợi bên vay tiêu dùng để kích thích sự phát triển của kênh

tín dụng tiêu dùng hợp pháp nhằm đẩy lùi “tín dụng đen”
Hiện nay, bên cạnh hệ thống tín dụng chính thức có sự quản lý Nhà nước thì
các kênh cho vay tiêu dùng phi chính thức, hay cịn được gọi với tên khác là “tín
dụng đen”, cũng bùng nổ và tạo nhiều hệ lụy xấu đối cho xã hội. Căn cứ theo số liệu
từ StoxPlus cho thấy, 47% người Việt có tham gia vay tiền, nhưng chỉ có 18,5% là

12

Nguyễn Như Phát (2003), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.10.


17
vay từ những TCTD, ngoài ra là vay từ người thân, bạn bè hoặc “tín dụng đen”13.
Hiện nay, tình hình tín dụng đen đang diễn biến rất phức tạp, nhất là ở các tỉnh khu
vực Tây Nguyên nơi có tỷ lệ hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số cịn cao. Theo
báo cáo từ Cơng an tỉnh Đắk Nơng, hiện trên địa bàn có 186 cơ sở hoạt động kinh
doanh dịch vụ cầm đồ; trong đó có 38 cơ sở có biểu hiện hoạt động liên quan đến tín
dụng đen. Các cơ sở này quảng cáo nhiều hình thức khuyến mãi hấp dẫn để thu hút
người vay như vay không cần thế chấp, nhận tiền ngay,… Nhưng người vay sẽ phải
trả lãi suất rất cao từ 200% đến 365%/năm. Nhiều trường hợp khơng có khả năng trả
nợ do lãi mẹ đẻ lãi con; hoặc đã phải bán nhà và các tài sản khác để trả nợ sau khi bị
nhóm đòi nợ thuê đe dọa, khủng bố tinh thần14. Vậy ngun nhân nào khiến cho tín
dụng đen có cơ hội bùng phát như vậy? Ngoài những khoảng trống về mặt pháp luật
và sự yếu kém của các cơ quan quản lý, nguyên nhân chủ yếu cho hiện tượng này là
do khả năng phổ cập của các kênh tín dụng tiêu dùng đến với người dân chưa đồng
bộ. Cụ thể có những khu vực địa bàn trùng lắp đối tượng, nhưng cũng có nơi thị
trường bị bỏ ngỏ, nhất là ở những vùng xa xơi, hẻo lánh. Ngồi ra, do thủ tục cho vay
khá phức tạp, các điều kiện đưa ra không phải ai cũng đáp ứng được (tài sản bảo đảm,
chứng minh nguồn thu nhập, các loại giấy tờ trong hồ sơ vay vốn...) và tâm lý của

người dân có thu nhập thấp, trình độ dân trí thấp nói chung thường ngại phiền hà, thủ
tục rườm rà. Chính những nguyên nhân trên đã và đang tạo cơ hội cho các hình thức
“tín dụng đen” có điều kiện phát triển và lan rộng.
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, đẩy lùi tín dụng đen khơng phải
là một nhiệm vụ đơn giản. Để giải quyết được bài toán này cần có sự phối hợp của
nhiều biện pháp phức tạp khác nhau. Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành
Quyết định 1178/QĐ-NHNN, ngày 03/006/2019 về việc ban hành Kế hoạch hành
động của ngành Ngân hàng nhằm triển khai Chỉ thị 12/CT-TTg ngày 25/4/2019 của
Thủ tướng Chính phủ, góp phần hạn chế “tín dụng đen” bằng cách đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tín dụng ngân hàng, các gói, khoản cho
vay ưu đãi đến người dân; mở rộng, đa dạng các loại hình cho vay, các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng; phát triển hệ thống CTTC, tổ chức tài chính vi mơ phủ khắp các
vùng, miền với thủ tục nhanh gọn và thuận tiện, đáp ứng nhu cầu vay vốn chính
13

Hồng Anh, Phát triển tín dụng tiêu dùng để đẩy lùi tín dụng đen, đăng trên website: https://www.
nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/39513302-phat-trien-ti%CC%81n-du%CC%A3ng-tieu-dung-de-day-luitin-dung-den.html (truy cập ngày 24/08/2019).
14
Hồng Anh, Phát triển tín dụng tiêu dùng để đẩy lùi tín dụng đen, tlđd (13).


18
đáng, hợp pháp của người dân; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, cơng nghệ nhằm cải
cách thủ tục hành chính, đơn giản quy trình, thủ tục vay vốn để người dân dễ dàng
tiếp cận với nguồn vốn vay hợp pháp khi có nhu cầu,…
iv) Bảo vệ quyền lợi của bên vay tiêu dùng nhằm hạn chế các tranh chấp,
khiếu nại của bên vay, gia tăng niềm tin của khách hàng vào hệ thống tín dụng
Cho vay tiêu dùng cũng được xem là một công cụ quan trọng giúp người vay
tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn nhằm cải thiện cuộc sống của họ. Mặt khác, tín dụng
tiêu dùng giúp kích cầu bán lẻ trong thị trường tiêu dùng khi làm tăng khả năng chi

tiêu của khách hàng. Thông qua cách này, tài chính tiêu dùng cũng góp phần hỗ trợ
các ngành khác cùng phát triển qua đó tạo thêm các cơ hội việc làm, đóng góp vào
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Thói quen tiêu dùng của người Việt đang thay
đổi khiến ngày càng có nhiều người chọn hình thức vay trả góp để có được hàng hóa,
dịch vụ ngay. Tuy nhiên, theo báo cáo từ Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng
(Bộ Công thương), số lượng khiếu nại của người vay tiêu dùng chủ yếu tập trung vào
nhóm chủ thể là CTTC. Các tranh chấp, khiếu nại này phần nào đã làm gia tăng tâm
lý bài xích của người dân đối với lĩnh vực tín dụng khá mới này. Chính vì vậy, Nhà
nước cần có những biện pháp bảo vệ quyền lợi của bên đi vay, hạn chế các khiếu nại,
tranh chấp, qua đó sẽ giúp gia tăng niềm tin của người dân vào hệ thống tín dụng,
thúc đẩy sự phát triển của tín dụng tiêu dùng, tạo điều kiện cho người dân có khả
năng mua sắm, chi trả các chi phí cần thiết cho cuộc sống và gia đình.
1.1.5. Phương thức bảo vệ của bên đi vay
Để bảo vệ quyền lợi của bên đi vay trong quan hệ cho vay tiêu dùng, Nhà
nước với vai trị của mình đã ban hành một hệ thống pháp luật để điều chỉnh cách
thức xử sự của các bên và các phương thức khác nhau để đảm bảo sự tuân thủ của
họ. Các phương thức này bao gồm các phương thức dân sự, hành chính và hình sự.
a) Phương thức dân sự
Nhóm phương thức dân sự đề cao sự chủ động thỏa thuận điều hịa lợi ích
giữa các bên. Khi khách hàng cảm thấy bên cho vay đã vi phạm HĐ hoặc quyền lợi
hợp pháp của mình bị xâm phạm và có thiệt hại xảy ra, họ có thể chủ động liên hệ
bên cho vay để thỏa thuận hoặc thơng qua trung gian hịa giải để bảo vệ quyền lợi
của mình. Ngồi ra, người tiêu dùng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, khởi
kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện thơng qua Tịa án để đạt được phán


19
quyết có tính cưỡng chế thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của mình (Khoản 7 Điều 8
Luật BVQLNTD 2010).
b) Phương thức hành chính

Chế tài hành chính do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân, tổ
chức có hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng mà chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự. Chế tài hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm là hình thức xử phạt chính gồm cảnh cáo hoặc phạt tiền, đồng thời
có áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả nếu văn
bản có quy định. Khi bên vay có căn cứ cho rằng hành vi của bên cho vay xâm
phạm quyền lợi hợp pháp của mình hoặc hành vi vi phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại tới Nhà nước, trật tự xã hội, quyền và lợi ích của các chủ thể khác thì
người tiêu dùng có quyền khiếu nại hoặc tố cáo bên cho vay lên cơ quan có thẩm
quyền để bảo vệ quyền lợi của mình, ngăn chặn hoặc xử lý hành vi vi phạm (Khoản
7 Điều 8 Luật BVQLNTD 2010). Hiện nay, trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng thuộc về Bộ Công Thương và
UBND cấp tỉnh và cấp huyện. Cụ thể sẽ do Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công
Thương và Sở Công Thương và ở cấp huyện sẽ do đơn vị được UBND cấp huyện
chỉ định (Khoản 5 Điều 48 và Khoản 4 Điều 49 Luật BVQLNTD 2010 và Điều 34
Nghị định 99/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng). Các
ngun tắc, hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả liên quan
tới bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động cho vay tiêu dùng được quy định tại
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 do Quốc Hội ban hành có hiệu lực ngày
01/07/2013, tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động thương mại, sản xuất, bn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng có hiệu lực ngày 01/01/2014 và Nghị định 88/2019/NĐCP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng có
hiệu lực ngày 31/12/2019.
c) Phương thức hình sự
Khi các hành vi vi phạm trong hoạt động tín dụng tiêu dùng gây nguy hiểm
cho xã hội cấu thành tội phạm theo pháp luật hình sự thì hành vi vi phạm đó sẽ bị
xử lý hình sự. Hiện nay, các tội phạm trong hoạt động ngân hàng nói chung được
BLHS 2015 quy định tại Mục 2 Chương XVI Các tội phạm xâm phạm trật tự quản



×