Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Lý thuyết chung về quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.26 KB, 26 trang )

Lý thuyết chung về quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài
chính
1.1 Tổng quan về hoạt động cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính được đánh giá là giai đoạn phát triển cao nhất của tín dụng
thuê mua và là kênh dẫn vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp muốn đầu tư vào tư liệu
sản xuất, đặc biệt thích hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên thế giới hiện nay,
quy mô hoạt động cho thuê tài chính đang phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt
bậc qua các năm, nhất là tại các nước đang phát triển.
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính
Hoạt động cho thuê tài chính đã xuất hiện hàng ngàn năm trước công nguyên ở
những nước có nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, dưới hình thức cho
thuê tài sản. Giao dịch cho thuê tài sản đầu tiên ra đời gắn với việc cho thuê công cụ sản
xuất nông nghiệp, súc vật kéo, ruộng đất, nhà cửa tại thành phố Sumerian gần vịnh Ba
Tư (ngày nay thuộc I -rắc). Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên phát triển
việc cho thuê hầm mỏ, đồng thời cũng tiên phong tạo ra khái niệm ngân hàng cho thuê
với hoạt động chủ yếu là cho thuê các tài sản thuộc quyền sở hữu của ngân hàng.
Vào khoảng giữa những năm 1800, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và
nền kinh tế hàng hóa, hoạt động cho thuê tài sản đã có những thay đổi về tính chất giao
dịch và xuất hiện những hình thức cho thuê tài chính đầu tiên. Trước nhu cầu phát triển
các tuyến đường sắt riêng cho mình của các công ty đường sắt, nhiều nhà đầu tư đã góp
tiền mua xe lửa từ nhà sản xuất và cho thuê lại. Các thiết bị sẽ được chuyển giao cho
công ty đường sắt sau khi các công ty này cam kết trả tiền nhà đầu tư. Theo đó, người
cho thuê nắm quyền sở hữu tài sản, chỉ chuyển cho người thuê quyền sử dụng tài sản và
hàng kỳ sẽ nhận được khoản tiền thuê tính dựa trên giá mua và lãi trong một thời gian
nhất định.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, hoạt động cho thuê đã có những bước phát triển
mạnh mẽ về chủng loại thiết bị cho thuê, đồng thời cũng đã bắt đầu phân ra thành cho
thuê ngắn hạn ( cho thuê vận hành ngày nay) và cho thuê dài hạn ( tiền thân của cho
thuê tài chính). Năm 1952,với sự ra đời của công ty cho thuê tài chính độc lập đầu tiên
trên thế giới- công ty United State Leasing Corp do Henry Shoeld sáng lập ra đời đã
đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của loại hình dịch vụ tài chính này. Hàng loạt


các công ty cho thuê tài chính khác cũng đã nối gót ra đời như General Electric Credit
Corp, Boothe Leasing Corp,…chính là những nguyên mẫu cho các công ty cho thuê tài
chính ngày nay.
Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, dịch vụ cho thuê tài chính ngày
càng lan rộng tầm ảnh hưởng ra toàn thế giới. Cuối những năm 50, đầu những năm 60
của thế kỷ XX , cho thuê tài chính bắt đầu phát triển ở Châu Âu và đến đầu thập niên 70
đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của loại hình này tại thị trường Châu Á, Nam Mỹ
và Châu Phi. Đến thập niên 80,dịch vụ cho thuê tài chính đã được chấp nhận rộng rãi
trên toàn thế giới. Hiện nay, hoạt động CTTC được sử dụng tại hơn 80 nước và chủ yếu
ở các nước đang phát triển với khối lượng dư nợ cho thuê trên 500 tỷ USD, tương
đương 12,5% đầu tư tư nhân của thế giới.
Ở Việt Nam, phải đến năm 1995, cùng với sự gia tăng nhu cầu vốn đầu tư trung
và dài hạn, nghiệp vụ cho thuê tài chính mới bắt đầu được tổ chức thực hiện dưới hình
thức tín dụng thuê mua với việc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số
149/QĐ-NHNN ngày 27/05/1995. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng được
thành lập công ty trực thuộc hoặc phòng Tín dụng thuê mua để quản lý và giám sát hoạt
động tín dụng thuê mua. Tiếp đó, ngày 09/10/1995, Nghị định 64/CP quy định tạm thời
về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam đã được Chính phủ
ban hành. Những văn bản pháp lý này là cơ sở định hướng, hướng dẫn và cơ sở pháp lý
để các ngân hàng thương mại thành lập thí điểm các phòng tín dụng thuê mua hoặc các
công ty thuê mua trực thuộc nhằm làm quen và từng bước nắm bắt loại hình dịch vụ tài
chính mới mẻ này.
Tuy nhiên, mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập ở Việt
Nam vào năm 1996 và hoạt động cho thuê cũng đã manh nha ở các ngân hàng thương
mại trước đó nhưng mãi đến khi Chính Phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP về tổ
chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính vào ngày 02/05/2001 thì hoạt động
cho thuê tài chính ở Việt Nam mới thực sự được hình thành. Nghị định ra đời đã thực
sự tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động cho thuê tài chính
cũng như việc thành lập và đi vào hoạt động của các Công ty cho thuê tài chính tại Việt
Nam. Bên cạnh đó, để khắc phục một số bất cập và hạn chế không phù hợp với tình

hình thực tiễn, Chính phủ cũng đã tiếp tục ban hành Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày
19/5/2005 và Nghị định số 95/2008/NĐ-CP nhằm sửa đổi và bổ sung một số điều về
Nghị định 16/2001/NĐ-CP. Việc hệ thống pháp luật luôn không ngừng được hoàn thiện
đã tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam.
Hiện nay, đang có 13 công ty cho thuê tài chính thành lập dưới những hình thức
khác nhau đang hoạt động tại Việt nam. Trong đó, các công ty cho thuê tài chính trực
thuộc các Ngân hàng gồm có Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng
Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Các công ty cho thuê
tài chính 100% vốn nước ngoài có thể kể đến Công ty cho thuê tài chính ANZ-VTRAC;
Cty cho thuê tài chính Kexim và Công ty cho thuê tài chính Quốc tế Chailease. Ngoài ra
còn có các công ty dưới các hình thức khác như Công ty cho thuê tài chính Quốc tế Việt
Nam (liên doanh); Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính
Ngân hàng Á Châu; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính
Công nghiệp tàu thủy. Mặc dù đã có mặt được gần 13 năm trên thị trường Việt Nam và
đã góp phần làm giảm gánh nặng cho hệ thống các ngân hàng thương mại trong việc
cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhưng cho thuê tài
chính vẫn chưa phát triển xứng đáng với tiềm năng của mình, tốc độ phát triển còn
chậm và chưa nhận được sự quan tâm và biết đến của các doanh nghiệp.
1.1.3 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động cho thuê tài chính
1.1.2.1 Khái niệm cho thuê tài chính
Theo Ủy ban chuẩn mực Kế toán Quốc tế, cho thuê tài chính được định nghiã
như sau: “ Cho thuê tài chính là loại hình cho thuê tài sản có khả năng chuyển dịch về
căn bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản đó. Quyền sở
hữu có thể chuyển giao vào cuối thời hạn thuê”.
Dựa trên định nghĩa này, các quốc gia có những quy định cụ thể khác nhau về
cho thuê tài chính phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội ở mỗi nước nhưng về cơ bản
không có điều nào mâu thuẫn với quy chuẩn chung này.
Ở Việt Nam, Nghị định 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ về Tổ chức và hoạt động
của Công ty cho thuê tài chính đã đưa ra khái niệm cho thuê tài chính như sau: “ Cho

thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc,
thiết bị, phương tiền vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê
giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương
tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở
hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê
trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê , bên
thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã
thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy
định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó
tại thời điểm ký hợp đồng”.
Theo Nghị định 65/2005/NĐ-CP ban hành ngày 19/5/2005 quy định về việc sửa
đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP cũng đưa ra định nghĩa về
giao dịch cho thuê tài chính:
“Một giao dịch cho thuê tài chính phải thỏa mãn một trong những điều kiện sau
đây:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền
sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên
mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê
tại thời điểm mua lại.
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết
để khấu hao tài sản thuê.
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít
nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.”
Như vậy, có thể thấy điểm khác biệt lớn nhất giữa quan điểm về cho thuê tài
chính ở Việt Nam và trên thế giới đó là về đối tượng cho thuê, không áp dụng cho thuê
với bất động sản mà chỉ cho vay tài chính với máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác..
1.1.2.2 Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính
Từ các khái niệm cho thuê tài chính trên có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản

của hoạt động cho thuê tài chính như sau:
- Hoạt động cho thuê tài chính phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định. Ủy
ban chuẩn mực Kế toán quốc tế đã đưa ra bốn điều kiện mà bất kmột giao
dịch cho thuê nào thỏa mãn một trong bốn điều kiện đó thì được coi là giao
dịch cho thuê tài chính:
• Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao cho người thuê khi kết
thúc hợp đồng.
• Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả tiền
không ít hơn giá trị thị trường của tài sản thuê tại thời điểm ký hợp
đồng
• Thời gian của hợp đồng thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng hữu
ích của tài sản thuê
• Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc
hợp đồng với giá trị thấp hơn giá trị thuê tại thời điểm kết thúc hợp
đồng.
- Các hợp đồng cho thuê tài chính đa phần đều để đầu tư vào các tài sản cho
thuê mới. Quyền lựa chọn tài sản thuê đều thuộc về bên thuê, bên cho thuê
phải có nghĩa vụ mua đúng loại tài sản thuê mà bên thuê đã thỏa thuận hoặc
cam kết với bên cung cấp tài sản.
- Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang nên bên thuê
không được quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, trừ trường hợp bên
cho thuê có lỗi hoặc bên thuê đề nghị xin chấm dứt hợp đồng trước hạn và
được bên cho thuê chấp thuận.
Để làm rõ hơn về những đặc trưng của cho thuê tài chính, có thể làm phép so
sánh hoạt động cho thuê tài chính với nghiệp vụ cho vay trung, dài hạn và với hình thức
cho thuê hoạt động.
So sánh cho thuê tài chính và cho vay trung, dài hạn
Về bản chất, có thể xem cho thuê tài chính là một hình thức của tín dụng trung
và dài hạn do nó mang những đặc điểm cơ bản của loại hình tín dụng này :
- Bên cho vay ( bên cho thuê) chuyển giao có thời hạn cho bên đi vay( bên đi

thuê) một lượng giá trị dựa trên cơ sở tín nhiệm.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị tại thời điểm cho vay ( thời
điểm cho thuê) vì bên đi vay( bên đi thuê) phải trả phần gốc cộng thêm phần
lãi.
Tuy nhiên, cho thuê tài chính vẫn có những điểm khác biệt so với tín dụng trung
và dài hạn của các ngân hàng :
- Đối với tín dụng trung và dài hạn, khách hàng được ngân hàng cung cấp một
lượng vốn bằng tiền để mua các tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh, còn
trong hình thức cho thuê tài chính, khách hàng sẽ được bên cho thuê cung
cấp trực tiếp những tài sản mà khách hàng đang có nhu cầu sử dụng. Như
vậy, tài trợ bằng cho thuê tài chính đảm bảo sử dụng đúng mục đích vốn vay
hơn.
- Khi tài trợ vốn thông qua tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng thường yêu
cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo, tuy nhiên khi sử dụng dịch vụ cho
thuê tài chính bên thuê không nhất thiết phải có tài sản đảm bảo vì tài sản cho
thuê
( thuộc sở hữu của bên cho thuê) cũng có thể coi như tài sản đảm bảo.
- Trong cho thuê tài chính, lãi suất áp dụng thường cao hơn trong cho vay
trung và dài hạn vì thường được tính dựa trên lãi suất cho vay trung và dài
hạn cộng với một tỷ lệ nhất định các chi phí quản lý tài sản thuê của bên cho
thuê
- Trong giao dịch tín dụng trung và dài hạn thông thường chỉ có sự tham gia
của bên cho vay và bên đi vay, còn trong cho thuê tài chính ngoài bên thuê và
bên cho thuê còn có sự tham gia của các nhà cung cấp tài sản.
Phân biệt cho thuê tài chính và cho thuê hoạt động
Cho thuê tài chính và cho thuê hoạt động đều là hình thức cho thuê tài sản trên
cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Tuy nhiên giữa hai loại hình
này vẫn có nhiều điểm khác biệt :
- Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ trung và dài hạn ( trên 1 năm), còn cho
thuê hoạt động chỉ cho thuê ngắn hạn( dưới 1 năm)

- Với cho thuê tài chính, thời gian thuê phải chiếm phần lớn thời gian hữu
dụng của tài sản( quy định tại Việt Nam là 60% thời gian cần thiết để khấu
hao tài sản thuê), còn cho thuê hoạt động thì không có quy định cụ thể
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít
nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng,
trong khi đó, với cho thuê hoạt động, giá trị tiền thuê chỉ chiếm một phần
trong giá trị tài sản thuê.
1.1.3 Phân loại hoạt động cho thuê tài chính
Căn cứ vào các chủ thể tham gia một giao dịch cho thuê tài chính có thể chia ra
thành hai loại chính: cho thuê tài chính ba bên và cho thuê tài chính hai bên.
1.1.3.1. Cho thuê tài chính ba bên ( cho thuê thuần)
Theo hình thức này, quy trình cho thuê sẽ có sự tham gia của ba bên là bên cho
thuê, bên thuê và nhà cung cấp. Bên thuê sẽ lựa chọn, thỏa thuận với nhà cung cấp về
tài sản. Bên cho thuê chỉ thực hiện mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê đã được hai
bên thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính.
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ cho thuê tài chính ba bên

(5) (4)
(3) (1)
(2)
(6)
Quy trình cho thuê gồm các bước cụ thể như sau:
(1) Bên thuê chủ động lựa chọn máy móc thiết bị và thỏa thuận với nhà cung cấp.
(2) Bên thuê – Bên cho thuê ký kết hợp đồng cho thuê tài chính
(3) Bên cho thuê – Nhà cung cấp ký hợp đồng mua bán máy móc thiết bị là tài sản
theo thỏa thuận giữa bên thuê và nhà cung cấp.
(4) Nhà cung cấp giao hàng cho bên thuê, lắp đặt, chạy thử, nghiệm thu tài sản giao
nhận.
(5) Bên cho thuê thanh toán tiền mua tài sản thuê cho nhà cung cấp.
(6) Bên cho thuê thanh toán tiền thuê tài chính cho bên cho thuê theo hợp đồng cho

thuê chính.
Đây là phương thức cho thuê tài chính được sử dụng phổ biến nhất hiện nay trên
thế giới do có những ưu điểm sau:
- Bên thuê được lựa chọn nhà cung cấp, trực tiếp thỏa thuận, đàm phán với
nhà cung cấp, lựa chọn được những sản phẩm phù hợp nhất với nhu cầu của
mình.
- Bên cho thuê không phải mua sản phẩm từ trước mà chỉ cần ký hợp đồng
mua bán tài sản theo yêu cầu của bên thuê với nhà cung cấp. Nhà cung cấp có
trách nhiệm chuyển giao tài sản cho bên thuê. Như vậy, đã giảm bớt những chi
phí về kho bãi,hao mòn trong quá trình dự trữ cho bên cho thuê, đồng thời cũng
do không phải dự trữ hàng tồn kho nên giúp quay vòng vốn nhanh hơn
Nhà cung cấp
Bên cho thuêBên cho thuê
- Bên cho thuê có thể tránh được rủi ro xảy ra khi bên thuê từ chối nhận
hàng do những sai sót về mặt kỹ thuật vì bên thuê trực tiếp nhận sản phẩm từ
nhà cung cấp và đã thực hiện nghiệm thu tài sản giao nhận.
- Bên cho thuê không cần phải quan tâm đến tình trạng hoạt động của tài
sản do việc lắp đặt, bảo dưỡng, sửa chữa sản phẩm đều thuộc trách nhiệm của
nhà cung cấp và bên thuê.
Bên cạnh các giao dịch cho thuê tài chính ba bên thông thường còn có hai hình
thức đặc biệt của cho thuê tài chính ba bên là mua và cho thuê lại và cho thuê hợp tác.
a, Mua và cho thuê lại
Mua và cho thuê lại là hình thức đặc biệt của cho thuê tài chính ba bên, trong đó
bên thuê tài chính cũng đồng thời là nhà cung cấp tài sản.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, có nhiều doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn
kinh doanh không cân đối ( sử dụng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ tài sản cố định), bị
thiếu vốn lưu động để khai thác hết tài sản cố định hiện có, do vậy ảnh hưởng xấu đến
tình hình tài chính của công ty. Do vậy, để khắc phục tình trạng trên, doanh nghiệp có
thể sử dụng hình thức mua và cho thuê lại trên, tức là doanh nghiệp sẽ thực hiện bán tài
sản là máy móc thiết bị cho bên cho thuê tài chính để thu được một khoản vốn, cải thiện

tình trạng thiếu cân đối của vốn, đồng thời thuê lại chính những tài sản đó nhằm tiếp tục
sử dụng, đảm bảo duy trì năng lực sản xuất hiện tại.
Quy trình một giao dịch mua và cho thuê lại thông thường được diễn ra theo 4
bước sau:
(1) Bên cho thuê và bên thuê ký hợp đồng thuê tài chính, trong đó quy định bên
thuê chính là nhà cung cấp tài sản.
(2) Bên cho thuê và bên thuê ký hợp đồng mua bán tài sản, trong đó bên thuê là
bên bán tài sản, bên cho thuê là bên mua tài sản.
(3) Bên mua ( bên cho thuê) thanh toán tiền mua tài sản cho bên bán ( bên thuê)
(4) Bên thuê nhận nợ và thanh toán cho bên cho thuê theo lịch thanh toán tiền
thuê hai bên đã thỏa thuận.
b, Cho thuê hợp tác
Cho thuê hợp tác hay còn gọi là cho thuê hợp vốn là trường hợp đặc biệt của cho
thuê ba bên, trong đó nhiều bên cho thuê cùng tài trợ cho một bên thuê. Các tổ chức
thực hiện cho thuê này sẽ cử một công ty cho thuê tài chính đứng ra là bên cho thuê tài
chính đầu mối. Công ty đầu mối này sẽ đại diện cho các bên cho thuê hợp tác thực hiện
các giao dịch với bên thuê, đồng thời hưởng phí đầu mối. Các bên cho thuê tài chính
hợp tác sẽ thực hiện góp vốn, san sẻ các lợi ích cũng như rủi ro theo tỉ lệ vốn góp. Cho
thuê tài chính hợp tác thường được áp dụng tài trợ các khoản vốn có giá trị lớn, vượt
quá khả năng tài chính hay quá hạn mức cho phép của công ty cho thuê tài chính do
Ngân hàng Nhà nước quy định ở mỗi thời kỳ ( ở Việt Nam, các công ty cho thuê tài
1. Bên thuê và bên cho thuê ký hợp đồng cho thuê
tài chính
3. Bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên
cho thuê
chính không được phép thực hiện cho thuê với một khách hàng vượt quá 30% vốn tự có
của công ty đó và với một nhóm khách có liên quan là 80%).
Quy trình một giao dịch cho thuê tài chính hợp tác gồm 7 bước:
(1) Các bên cho thuê tài chính tham gia cho thuê hợp tác ký kết hợp đồng hợp
vốn, trong đó thỏa thuận về mức vốn góp, quyền lợi được hưởng và rủi ro phải

gánh chịu theo tỉ lệ vốn góp, chỉ định Công ty cho thuê tài chinh đầu mối,…
(2) Công ty cho thuê tài chính đầu mối và bên thuê ký hợp đồng cho thuê tài
chính
(3) Công ty cho thuê tài chính đầu mối ký hợp đồng mua bán với nhà cung cấp.
(4) Các công ty cho thuê tài chính hợp tác chuyển tiền cho công ty cho thuê đầu
mối theo hợp đồng đã ký kết
(5) Công ty cho thuê tài chính đầu mối thanh toán tiền mua tài sản cho nhà cung
cấp theo hợp đồng đã ký kết
(6) Bên thuê nhận nợ và thanh toán tiền thuê cho công ty cho thuê tài chính đầu
mối theo lịch thanh toán mà hai bên đã thỏa thuận.
(7) Công ty cho thuê tài chính đầu mối thanh toán tiền thuê thu được với các
công ty cho thuê tài chính hợp tác.
1.1.3.2. Cho thuê tài chính hai bên
Trong hình thức cho thuê này chỉ có sự tham gia của hai bên là bên thuê và bên
cho thuê. Sử dụng cho thuê tài chính hai bên, các công ty tạo điều kiện cho bên thuê
không cần phải mua mà vẫn có thể có tài sản để sử dụng sản xuất kinh doanh.
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ cho thuê tài chính hai bên
Từ sơ đồ trên có thể thấy, trong cho thuê tài chính hai bên, trước khi có giao dịch
cho thuê thì tài sản cho thuê đã thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê. Bên cho thuê có
thể sản xuất ra, tự xây dựng hoặc mua tài sản đó từ trước. Các tổ chức tài chính rất ít
khi áp dụng phương thức tài trợ này vì chỉ có thể sử dụng đối với những tài sản cho

×