Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Chế độ pháp lý về kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.39 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

BÁ HỒNG GIANG

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ KÊ KHAI, NỘP THUẾ
ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU

CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ - LUẬT

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN QUẢN TRỊ - LUẬT

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ KÊ KHAI, NỘP THUẾ
ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU

SINH VIÊN THỰC HIỆN: BÁ HỒNG GIANG
KHÓA: 36

MSSV: 1155060026

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. TRẦN MINH HIỆP


TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Trần Minh Hiệp, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả

Bá Hồng Giang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLHS 1999

Bộ luật Hình sự 1999

GNT

Giấy nộp tiền

NHTM

Ngân hàng thương mại


Nghị định 08/2015/NĐ-CP

Nghị định 08/2015/NĐ-CP ngày
21/01/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan
về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát,
kiểm soát hải quan.

Nghị định 187/2013/NĐ-CP

Nghị định 187/2013/NĐ-CP ngày
20/11/2013 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế và các
hoạt động đại lý mua, bán, gia cơng và
q cảnh hàng hóa với nước ngồi.

Nghị định 127/2013/NĐ-CP

Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày
15/10/2013 của Chính phủ quy định về
xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng
chế thi hành quyết định hành chính trong
lĩnh vực hải quan.

Thơng tư 38/2015/TT-BTC

Thơng tư số 38/2015/TT-BTC ngày
25/3/2015 của Bộ Tài chính quy định về

thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải
quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và
quản lý thuế đối với hàng hố xuất khẩu,
nhập khẩu.

Thơng tư 12/2015/TT-BTC

Thơng tư số 12/2015/TT-BTC ngày
30/01/2015 của Bộ Tài chính quy định


chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ
khai hải quan; cấp và thu hồi mã số nhân
viên đại lý làm thủ tục hải quan; trình từ,
thủ tục cơng nhận và hoạt động của đại
lý làm thủ tục hải quan.
Thuế TTĐB

Thuế Tiêu thụ đặc biệt

Thuế BVMT

Thuế Bảo vệ môi trường

Thuế GTGT

Thuế Giá trị gia tăng


PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KÊ
KHAI, NỘP THUẾ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU. ............................... 5
1.1

Khái quát chung về kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. ............ 5

1.1.1 Nghĩa vụ thuế của hàng hóa nhập khẩu. .................................................. 5
1.1.2 Nguyên tắc kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. ..................... 9
1.1.3 Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa
nhập khẩu. ....................................................................................................... 12
1.1.4 Thời điểm hình thành quan hệ pháp luật về kê khai, nộp thuế đối với
hàng hóa nhập khẩu. ........................................................................................ 20
1.2

Quy định pháp luật về kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. ...... 21

1.2.1 Quy trình kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. ...................... 21
1.2.2 Phương pháp kê khai thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. ........................ 23
1.2.3 Phương pháp nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. .............................. 24
1.2.4 Quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về kê khai,
nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu............................................................... 25
1.2.5 Xử lý vi phạm trong kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. ....... 28
1.2.6 Quy định pháp luật một số nước về thủ tục kê khai, nộp thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu. ................................................................................................ 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 33
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH KÊ KHAI, NỘP
THUẾ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU. ................................................... 34
2.1 Tác động của xu hướng hội nhập quốc tế đến quản lý quá trình kê khai, nộp
thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. ....................................................................... 34

2.2 Thực trạng áp dụng pháp luật trong quá trình kê khai, nộp thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu. ................................................................................................... 35
2.2.1 Hạn chế của việc áp dụng pháp luật trong q trình kê khai, nộp thuế đối
với hàng hóa nhập khẩu. .................................................................................. 35
2.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế của việc áp dụng pháp luật trong quá
trình kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. ........................................ 40
2.3 Kiến nghị nâng cao hiệu quả quản lý quá trình kê khai, nộp thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu. ................................................................................................... 43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 45
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 46


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động nhập khẩu diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và tăng trưởng cao. Hàng hóa nhập khẩu từ đó có tác động rất lớn
đến nền kinh tế. Xét ở góc độ của người tiêu dùng, khi có sự trao đổi hàng hóa họ sẽ
được tiếp cận đa dạng các mặt hàng mà trong nước chưa có khả năng sản xuất.
Hàng hóa nhập khẩu cịn là nguồn nguyên vật liệu cung ứng cho hoạt động sản xuất
trong nước. Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng trong nước, hàng hóa nhập
khẩu sẽ gây sức ép cạnh tranh về chất lượng, về giá, ảnh hưởng đến thị phần. Về
phía Nhà nước, hoạt động nhập khẩu đặt ra yêu cầu phải quản lý được những hàng
hóa gây tác động xấu đến mơi trường, thói quen tiêu dùng và những hàng hóa khi
nhập khẩu sẽ dẫn đến sự mất ổn định về an ninh xã hội, chính trị, đồng thời cần có
cơ chế để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Trước những tác động tích cực và tiêu
cực của hàng hóa nhập khẩu, Nhà nước đã sử dụng cơng cụ tài chính là thuế để điều
tiết hoạt động nhập khẩu này thông qua quy định về thuế suất cho các mặt hàng và
các thủ tục hành chính về thuế, hải quan.
Tuy nhiên, hiện nay trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia một cách tích cực
và sâu rộng vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA), cùng với những cam kết cắt

giảm thuế quan, yêu cầu về hồn thiện quy trình quản lý thuế và hải quan đặt ra cho
Việt Nam nhiều thách thức. Theo đó, thuế suất của các mặt hàng nhập khẩu phải
dần được xóa bỏ, các thủ tục hành chính về thuế và hải quan phải được tinh giản
nhưng vẫn phải đảm bảo vai trò tạo nguồn thu cho ngân sách, quản lý thị trường và
bảo vệ nền sản xuất trong nước. Do đó, mức độ chặt chẽ của các thủ tục hành chính
về thuế và hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu cần phải được quy định phù hợp để
đạt được mục tiêu quản lý hàng hóa, bảo vệ nền sản xuất trong nước và tạo nguồn
thu ngân sách nhưng không làm hạn chế đi môi trường kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như những tác động tích cực của hàng hóa nhập khẩu đối với nền kinh
tế. Trong đó, kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là khâu bắt đầu cho một
quy trình quản lý thuế, đóng vai trị như bộ lọc trước khi hàng hóa nhập khẩu vào
thị trường trong nước và cũng là khâu quan trọng để đánh giá mức độ thuận lợi môi
trường kinh doanh của quốc gia.
Theo Giáo trình Luật thuế Đại học Luật TP.HCM kê khai thuế “là việc người
nộp thuế kê khai các thông tin vào tờ khai thuế theo mẫu do cơ quan có thẩm quyền
quy định nhằm xác định số thuế người nộp thuế có nghĩa vụ phải nộp trong kỳ tính
thuế hoặc trong từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế” và nộp thuế “là việc người nộp
1


thuế thực hiện nghĩa vụ tài chính của họ đối với Nhà nước”.1 Đối với hoạt động
nhập khẩu, đây còn là giai đoạn để xác định một hàng hóa có đủ điều kiện để nhập
khẩu khơng từ đó quản lý số lượng và chủng loại hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam.
Trước tình hình mới, pháp luật thuế và hải quan cũng đã có những cải cách, sửa
đổi để phù hợp như thay đổi cơ chế hành thu thuế từ nộp thuế theo thông báo sang
cơ chế tự kê khai, tự nộp hay việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kê
khai, nộp thuế mới. Tuy nhiên trên thực tế áp dụng pháp luật vẫn xảy ra nhiều bất
cập từ chính hệ thống pháp luật thuế và hải quan như thời gian làm thủ tục kê khai,
nộp thuế chiếm nhiều thời gian, quy định pháp luật vẫn gây ra khó khăn cho người

nộp thuế và sự khơng thống nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật của cơ quan
quản lý và người nộp thuế, từ đó đặt ra yêu cầu cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống
pháp luật quản lý thuế. Chính vì lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Chế độ pháp lý về
kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu” để tiếp tục nghiên cứu quy định
pháp luật về hoạt động kê khai, nộp thuế song song với đánh giá việc áp dụng pháp
luật trên thực tế với mong muốn hoàn thiện hơn hiểu biết pháp luật của bản thân và
đóng góp quan điểm cá nhân trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng
yêu cầu trong thời kỳ mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kê khai, nộp thuế là khâu quan trọng trong quá trình quản lý thuế, là tiền đề
nhằm đảm bảo cho việc thu thuế có hiệu quả đồng thời phải tạo được thuận lợi cho
người nộp thuế. Do đó, đây là đối tượng nghiên cứu của nhiều cơng trình khoa học,
nhất là hoạt động kê khai, nộp thuế các sắc thuế thu vào hàng hóa, dịch vụ như:
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của tác giả Nguyễn Thị Hằng về “Cơ sở lý luận
và cơ sở thực tiễn trong việc xây dựng và hoàn thiện những qui định của pháp luật
về thủ tục đăng ký, kê khai, thu nộp thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam” năm
2002; Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của tác giả Nguyễn Thị Thảo về “Chế độ
pháp lý về đăng ký, kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng” năm 2012; Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân luật của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Anh về “Quy định pháp luật về
kê khai, nộp và quyết toán thuế tiêu thụ đặc biệt” năm 2015; Khóa luận tốt nghiệp
cử nhân luật của tác giả Phan Thị Yến Nhi về “Quản lý thuế đối với hàng hóa nhập
khẩu phi mậu dịch” năm 2015,…
Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung nghiên
cứu hoạt động kê khai, nộp thuế của một sắc thuế cụ thể với đối tượng chịu thuế là
hàng hóa nói chung. Riêng cơng trình nghiên cứu của tác giả Phan Thị Yến Nhi về
1

Trường đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật thuế, Nhà xuất bản Hồng Đức,
tr.418
2



“Quản lý thuế đối với hàng hóa nhập khẩu phi mậu dịch” đã tách riêng hàng hóa
nhập khẩu phi mậu dịch làm đối tượng nghiên cứu nhưng không tập trung vào hoạt
động kê khai, nộp thuế. Do đó, cần có một cơng trình nghiên cứu riêng về hàng hóa
nhập khẩu cũng như hoạt động kê khai, nộp thuế các sắc thuế điều chỉnh loại hàng
hóa này.
3. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua quá trình nghiên cứu, tác giả mong muốn hiểu rõ quy định pháp luật
điều chỉnh mối quan hệ pháp luật kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu và
đánh giá được thực trạng áp dụng những quy định pháp luật đó trên thực tế. Ngồi
ra, tác giả cũng hy vọng đề tài có thể trở thành một tài liệu tham khảo dành cho các
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật về kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập
khẩu nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động này trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, về đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu quy định của
pháp luật về hoạt động kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, bao gồm:
nguyên tắc đặt ra trong hoạt động kê khai, nộp thuế; chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật này; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể; quy trình, phương pháp thực hiện hoạt
động kê khai, nộp thuế cho một lô hàng nhập khẩu và đánh giá thực trạng áp dụng
pháp luật trong hoạt động này.
Thứ hai, về phạm vi nghiên cứu. Quy định pháp luật về quản lý thuế đối với
hàng hóa là một lĩnh vực phức tạp và rộng lớn. Trong phạm vi đề tài của mình, tác
giả xác định phạm vi nghiên cứu xoay quanh chế độ pháp lý trong khâu kê khai,
nộp thuế đối với loại hàng hóa có tác động lớn đến nền kinh tế là hàng hóa nhập
khẩu. Riêng đối tượng là hàng hóa nhập khẩu cũng có nhiều hình thức nhập khẩu,
tác giả khơng tập trung vào một hình thức nhập khẩu nào cụ thể mà nghiên cứu các
quy định chung nhất điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Ngồi ra, đối với
đối tượng nghiên cứu là thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động kê khai, nộp
thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, đề tài cũng chỉ giới hạn những bất cập phát sinh

phổ biến và cần phải được nghiên cứu, hồn thiện quy định pháp luật một cách
nhanh chóng để tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này.
Cuối cùng tác giả xin đưa ra những quan điểm cá nhân đánh giá nguyên nhân làm
phát sinh bất cập và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật quản
lý thuế, cụ thể là trong hoạt động kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu.

3


5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả kết hợp sử dụng nhiều phương pháp như:
phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
tổng hợp,…Trong đó, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhằm tìm hiểu và làm
rõ những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh quan hệ pháp luật kê khai, nộp thuế
đối với hàng hóa nhập khẩu, sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để đánh giá sự
phù hợp của quy định của pháp luật với thực tiễn diễn ra hoạt động cũng như thực
tế áp dụng pháp luật để tìm ra những bất cập cịn tồn tại và sử dụng phương pháp
tổng hợp để xác định nguyên nhân tồn tại bất cập và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định pháp luật.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi lời cam đoan, danh mục viết tắt, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
phần mở đầu và phần kết thúc, nội dung của khóa luận tốt nghiệp được thành 2
chương:
 Chương 1: Khái quát chung và quy định pháp luật về kê khai, nộp thuế
đối với hàng hóa nhập khẩu.
 Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý quá trình kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu.

4



CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KÊ
KHAI, NỘP THUẾ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU.
1.1 Khái quát chung về kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu.
1.1.1 Nghĩa vụ thuế của hàng hóa nhập khẩu.
Trong hệ thống pháp luật thuế Viêt Nam hiện nay, có 4 sắc thuế thu vào hàng
hóa, dịch vụ, bao gồm: thuế xuất khẩu – thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB), thuế bảo vệ môi trường (BVMT) và thuế giá trị gia tăng (GTGT). Hàng
hóa nói chung và hàng hóa nhập khẩu nói riêng là đối tượng điều chỉnh của thuế thu
vào hàng hóa, dịch vụ.
Tuy nhiên, mỗi sắc thuế có những quy định khác nhau về đối tượng chịu thuế.
Cùng là hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, sẽ có những mặt hàng chỉ thuộc đối
tượng chịu thuế của thuế nhập khẩu, nhưng lại có những mặt hàng còn thuộc đối
tượng chịu thuế của thuế TTĐB, thuế BVMT và thuế GTGT. Cần phải nói thêm
rằng, hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế của các sắc thuế thu vào hàng
hóa nói chung phải được hiểu là hàng hóa hợp pháp, được phép lưu thơng trên thị
trường và là đối tượng của các giao dịch hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế của các sắc thuế thu vào hàng
hóa, dịch vụ được quy định cụ thể như sau:
a. Thuế nhập khẩu
Hàng hóa nhập khẩu có tác động rất lớn đến nền kinh tế trong nước. Với trình
độ sản xuất phát triển, hàng hóa nhập khẩu với sự đa dạng về mẫu mã, chủng loại
và chất lượng tốt đang ngày càng cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nội địa. Lúc này,
những doanh nghiệp trong nước chưa có sự chun mơn hóa trong sản xuất, cơng
nghệ còn lạc hậu sẽ đứng trước nguy cơ mất thị phần, giảm doanh thu. Ngồi ra,
một số loại hàng hóa khi nhập khẩu vào Việt Nam có khả năng gây ra sự mất ổn
định nền kinh tế, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị. Do đó, Nhà nước ln có cơ chế
quản lý chặt chẽ đối với loại hàng hóa này, mà thuế chính là cơng cụ được sử dụng
phổ biến và hiệu quả hơn cả. Dưới sự điều tiết của thuế nhập khẩu, giá bán của hàng
hóa sẽ tăng lên, làm giảm bớt khả năng cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu.

Theo quy định tại Điều 2 Luật Thuế xuất khẩu – Thuế nhập khẩu 2005, hàng
hóa thuộc đối tượng chịu thuế thuế nhập khẩu bao gồm:
-

Hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.

-

Hàng hóa được đưa từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước

Ngoài ra, theo quy định mới của Luật thuế xuất khẩu – thuế nhập khẩu năm
2016 sẽ có hiệu lực vào ngày 1/9/2016 tới đây, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế
5


cịn bao gồm “hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ và hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu của doanh nghiệp thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu, quyền phân
phối.” Theo đó, hàng hóa nhập khẩu tại chỗ là hàng hóa thương nhân Việt Nam
mua từ thương nhân nước ngồi nhưng được chỉ định nhận hàng từ thương nhân
xuất khẩu tại chỗ ở Việt Nam. Sở dĩ hàng hóa nhập khẩu tại chỗ được quy định là
đối tượng chịu thuế nhập khẩu vì trong hoạt động này, hàng hóa đã trải qua quá
trình chuyển quyền sở hữu từ một thương nhân Việt Nam cho một thương nhân
nước ngoài. Mặc dù khơng có sự chuyển dịch hàng hóa ra khỏi biên giới Việt Nam
nhưng bản chất của hàng hóa lúc này khơng cịn là hàng hóa nội địa, đã có sự phân
cách về mặt thuế quan, do đó nó cần chịu sự điều tiết của thuế nhập khẩu để tạo sự
bình đẳng trong giá trị với hàng hóa trong nước. Từ sự thay đổi quy định của Luật
thuế xuất khẩu – thuế nhập khẩu năm 2016, các Luật thuế TTĐB, Luật thuế GTGT
và Luật thuế BVMT cũng cần có sự điều chỉnh để đồng bộ trong quy định pháp
luật.
Như vậy, hàng hóa là đối tượng chịu thuế nhập khẩu có phạm vi rất rộng, được

thể hiện thơng qua hai khía cạnh:
Thứ nhất, hầu hết hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Việt Nam ban hành theo Thông tư số 103/2015/TT-BTC ngày 01/7/2015 của Bộ
Tài chính có hành vi dịch chuyển qua biên giới Việt Nam đều là đối tượng chịu thuế
nhập khẩu.
Thứ hai, khái niệm “biên giới quốc gia” theo quy định của pháp luật thuế nhập
khẩu không chỉ được hiểu là biên giới được xác định bằng tiêu chuẩn địa lý. “Biên
giới quốc gia” còn được hiểu theo nghĩa rộng là sự phân cách về mặt thuế quan. Do
đó, pháp luật thuế nhập khẩu cũng điều chỉnh những hành vi dịch chuyển hàng hóa
giữa hai khu vực thuế quan khác nhau. Theo đó hàng hóa từ khu vực kinh tế đặc thù
là khu phi thuế quan đặt ngay trong lãnh thổ quốc gia được đưa ra thị trường trong
nước hay trường hợp hàng hóa nhập khẩu tại chỗ vẫn phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật thuế nhập khẩu như một hành vi nhập khẩu thông thường.
Tuy nhiên, khơng phải mọi hàng hóa nhập khẩu theo quy định tại Điều 2 Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 đều là đối tượng chịu thuế thuế nhập khẩu.
Trong một số trường hợp, vì lý do ưu đãi, mục đích nhân đạo hoặc hành vi dịch
chuyển hàng hóa qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam chỉ là bước trung gian để nhập
khẩu hàng hóa vào lãnh thổ nước thứ ba, không tiêu thụ tại Việt Nam, không tác
động đến nền kinh tế, Nhà nước quy định các trường hợp này thuộc đối tượng
không chịu thuế nhập khẩu, cụ thể:2
2

Điều 3 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
6


-

Hàng hoá vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giới
Việt Nam, hàng hoá chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ;


-

Hàng hố viện trợ nhân đạo, hàng hố viện trợ khơng hồn lại;

-

Hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng
trong khu phi thuế quan, hàng hóa đưa từ khu phi thuế quan này sang khu phi
thuế quan khác;

b. Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế TTĐB là “loại thuế gián thu, thu trực tiếp vào hành vi sản xuất, nhập
khẩu các loại hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB và hành vi kinh doanh các dịch
vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB”.3 Luật thuế TTĐB quy định những hàng hóa thuộc
đối tượng chịu thuế theo cách thức liệt kê, bao gồm: Thuốc lá điếu, xì gà và chế
phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai, ngửi, ngậm; Rượu; Bia; Xe ô tô
dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tơ vừa chở người, vừa chở hàng loại có từ hai hàng ghế trở
lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng; Xe
mô tơ hai bánh, xe mơ tơ ba bánh có dung tích xi lanh trên 125cm 3; Tàu bay, du
thuyền; Xăng các loại; Điều hồ nhiệt độ cơng suất từ 90.000 BTU trở xuống; Bài
lá; Vàng mã, hàng mã.4
So sánh quy định về đối tượng chịu thuế TTĐB và thuế nhập khẩu có thể thấy,
đối tượng chịu thuế TTĐB có phạm vi hẹp hơn rất nhiều so với đối tượng chịu thuế
nhập khẩu. Cùng là hành vi nhập khẩu nhưng chỉ những hàng hóa bị xem là hàng
hóa khơng thiết yếu, xa xỉ hoặc có tác động xấu tới người sử dụng, môi trường, xã
hội theo quy định của pháp luật thuế TTĐB mới thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB.
Mục tiêu của Thuế TTĐB là hướng dẫn tiêu dùng những hàng hóa thuộc diện
đối tượng chịu thuế TTĐB cho người dân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Hàng
hóa nhập khẩu thuộc diện chịu thuế TTĐB khi được tiêu thụ tại thị trường trong

nước cũng sẽ tạo ra những tác động khơng tốt đến người dân, mơi trường, xã hội.
Do đó, để định hướng tiêu dùng và đảm bảo nguyên tắc cơng bằng trong thực hiện
nghĩa vụ thuế giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu nên hàng
hóa nhập khẩu cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của sắc thuế này.
c. Thuế bảo vệ môi trường
Giống như Thuế TTĐB, Thuế BVMT cũng có phạm vi đối tượng chịu thuế hẹp.
Đối tượng chịu thuế BVMT là các loại sản phẩm, hàng hóa có tác động xấu đến mơi
trường ở mức cao, ảnh hưởng trên diện rộng. Có 8 loại hàng hóa thuộc đối tượng
3

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), tlđd(1), tr.150
Khoản 1 Điều 2 Luật thuế TTĐB năm 2008 và Khoản 1 Điều 1 Luật thuế TTĐB sửa đối năm
2014.
4

7


chịu thuế BVMT được quy định tại Điều 3 Luật Thuế BVMT năm 2010, bao gồm:
Xăng, dầu, mỡ nhờn; than đá; dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC); túi
ni lông thuộc diện chịu thuế; thuốc diệt cỏ thuộc loại han chế sử dụng; thuốc diệt
mối thuộc loại hạn chế sử dụng; thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử
dụng; thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng.
Theo đó, thuế BVMT điều tiết một lần vào khâu đầu tiên hình thành nên hàng
hóa chịu thuế trên thị trường nội địa đó là khâu sản xuất và khâu nhập khẩu. Vì vậy,
hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế BVMT khi có mặt tại thị trường
trong nước phải thực hiện nghĩa vụ thuế này.
d. Thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT là loại thuế gián thu, thu vào phần giá trị tăng thêm qua các khâu
sản xuất, lưu thông của hàng hóa. Ðối với hàng hố nhập khẩu, đối tượng chịu thuế

giá trị gia tăng là hàng hoá nhập khẩu dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở
Việt Nam được phép nhập khẩu qua biên giới Việt Nam hoặc từ khu chế xuất nhập
khẩu vào thị trường nội địa, trừ các đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia
tăng theo quy định của pháp luật.5 Xuất phát từ quan điểm thuế GTGT là thuế đánh
vào giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ, vì vậy tất cả những hoạt động làm cho
giá trị của hàng hóa, dịch vụ tăng lên có thể được coi là tiền đề “sinh ra” thuế
GTGT6. Hoạt động nhập khẩu hàng hóa cũng là một khâu trong q trình lưu thơng
làm tăng giá trị của hàng hóa, do đó thuế GTGT cũng điều tiết hoạt động này. Phần
giá trị tăng thêm của hàng hóa nhập khẩu chính là phần giá trị chênh lệch của hàng
hóa đó khi chuyển quyền sở hữu từ người bán sang người mua.Thuế GTGT thu vào
hàng hóa nhập khẩu sẽ là thuế GTGT đầu vào và được khấu trừ khi nhà nhập khẩu
bán cho người tiêu dùng hoặc bán qua một khâu trung gian khác.
Tuy nhiên, cũng như thuế nhập khẩu, thuế GTGT cũng quy định một số hàng
hóa, dịch vụ thỏa mãn điều kiện về đối tượng chịu thuế nhưng được xem là đối
tượng khơng chịu thuế.7
Tóm lại, hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt Nam sẽ phải chịu các loại thuế
nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế BVMT và thuế GTGT. Hàng hóa nhập khẩu thuộc đối
tượng chịu thuế các sắc thuế trên sẽ phải thực hiện thủ tục kê khai thuế, nộp thuế tại
cơ quan hải quan khi thực hiện hành vi nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam để giúp cơ
quan quản lý thuế kiểm soát được số lượng, chủng loại, xuất xứ của hàng hóa, xác
định được số thuế phải nộp nhằm thực hiện tốt quá trình quản lý hoạt động nhập
5

Điều 3 Luật Thuế GTGT năm 2008.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), tlđd (1), tr. 190.
7
Điều 5 Luật Thuế GTGT năm 2008.
6

8



khẩu, tránh thất thu thuế. Các loại thuế TTĐB, thuế GTGT, thuế BVMT cũng được
kê khai, nộp thuế cùng lúc với thuế nhập khẩu. Vì xét về bản chất và quy định của
pháp luật, hành vi nhập khẩu hàng hóa là hành vi làm phát sinh nghĩa vụ thuế
TTĐB, thuế GTGT và thuế BVMT.
1.1.2 Nguyên tắc kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu.
Kê khai, nộp thuế là một khâu trong hoạt động quản lý thuế. Đây là quá trình
quan trọng nhằm đảm bảo yêu cầu thu đúng, thu đủ và tạo nên sự bình đẳng giữa
các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật thuế. Để thực hiện được nhiệm vụ này,
hoạt động quản lý thuế nói chung và hoạt động kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa
nhập khẩu nói riêng cần tuân thủ một số nguyên tắc:
-

Nguyên tắc thu thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế.

Cơ chế “tự kê khai, tự nộp thuế” là phương pháp thu thuế tiến bộ được áp dụng
tại nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam, cơ chế này đã được Tổng cục Thuế cho
áp dụng thí điểm từ năm 2004 và được áp dụng đại trà năm 2008. Tự kê khai, tự
nộp thuế “là cơ chế quản lý thuế trong đó đối tượng nộp thuế căn cứ vào kết quả
sản xuất kinh doanh, các quy định của pháp luật về thuế để tự kê khai, tự tính tốn
số thuế phải nộp và tự nộp thuế cho Nhà nước theo đúng thời hạn quy định của
pháp luật”.8 Cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đã thay thế cho cơ chế thông báo thuế,
tạo nên bước ngoặt trong cải cách hành chính thuế. Thay vì cơ quan quản lý thuế
phải tốn chi phí và thời gian để xác định thuế sau đó gửi thơng báo cho đối tượng
nộp thuế thì khi áp dụng cơ chế hành thu mới, cơ quan thuế chuyển sang tập trung
cho hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ và tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế. Do đó sẽ
khắc phục được nhược điểm của cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế là tình trạng người
nộp thuế gian lận thuế. Đồng thời cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế nâng cao trách
nhiệm pháp lý của người nộp thuế. Sự thay đổi này là yêu cầu bức thiết đặt ra trong

bối cảnh hội nhập kinh tế. Trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cơ chế tự kê khai,
tự nộp thuế làm tăng tính chủ động của người nộp thuế, giảm thời gian thực hiện
thủ tục hải quan, giúp hàng hóa thơng quan nhanh chóng. Với lưu lượng hàng hóa
xuất nhập tại các cửa khẩu lớn như hiện nay, với cơ chế thu thuế mới, cơ quan hải
quan khơng cịn mất thời gian cho việc kiểm tra hàng hóa để từ đó làm căn cứ tính
thuế, giúp doanh nghiệp giảm được thời gian và chi phí lưu hàng hóa tại cửa khẩu,
giúp thời gian thông quan được rút ngắn.

8

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Tiến sĩ Nguyễn Việt Cường (2007), Cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế và
những vấn đề đặt ra ở Việt Nam, Nhà xuất bản tài chính, tr.05
9


Tuy nhiên, để cơ chế này hoạt động có hiệu quả, yêu cầu về ý thức tự giác, trung
thực trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế của người nộp thuế là rất lớn. Cùng với đó,
pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về kê khai, nộp thuế nói riêng phải đảm
bảo được yêu cầu đơn giản, dễ áp dụng. Từ đó đặt ra nhiệm vụ cơ quan quản lý thuế
phải tăng cường hoạt động hỗ trợ người nộp thuế, thanh tra, kiểm tra để giảm thiểu
những nguy cơ rủi ro về thuế.
-

Nguyên tắc liên tục, không ngắt quãng các bước thủ tục, đảm bảo cho
hàng hóa được thơng quan nhanh nhất.

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa
ngày càng phát triển và đặt ra yêu cầu thủ tục hành chính cần đơn giản hóa, nhanh
chóng, thuận tiện. Để đánh giá môi trường kinh doanh của một quốc gia, chỉ số nộp
thuế là một trong những tiêu chí được đặt ra. Theo Báo cáo môi trường kinh doanh

2016 (Doing Business 2016) của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố ghi nhận,
chỉ số nộp thuế ở Việt Nam mới giảm 102 giờ, từ 872 giờ xuống còn 770 giờ. Số
lần nộp thuế cũng mới chỉ giảm được 2 lần.9 Có thể thấy, chỉ số nộp thuế của Việt
Nam so với các nước trong khu vực như Singapore, Malaysia kém thuận lợi hơn.
Đây là một trong những nguyên nhân khiến mức độ đầu tư vào Việt Nam thấp.
Theo Điều 23 Luật Hải quan năm 2014 quy định “công chức hải quan kiểm tra
hồ sơ chậm nhất 2 giờ làm việc kể từ thời điểm cơ quan hải quan tiếp nhận đầy đủ
hồ sơ hải quan; thời gian kiểm tra thực tế hàng hoá là 8 giờ làm việc kể từ thời
điểm người khai hải quan xuất trình đầy đủ hàng hố cho cơ quan hải quan; trường
hợp cần thiết phải gia hạn thì thời gian gia hạn tối đa khơng q 2 ngày”. Tuy
nhiên trên thực tế, thời gian để hoàn tất một bộ hồ sơ hải quan là rất lâu. Theo báo
cáo kết quả khảo sát 2015 về mức độ hài lịng của doanh nghiệp đối với thủ tục
hành chính trong lĩnh vực hải quan được công bố tại một hội thảo diễn ra tại Hà Nội
ngày 12-11, có 28% số doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở
Việt Nam cho biết họ phải trả thêm phí ngồi quy định trong q trình thực hiện thủ
tục hành chính về Hải quan. Nhiều doanh nghiệp cho biết họ bị phân biệt đối xử nếu
khơng trả khoản phí bổ sung này. Khoản phí ngồi quy định này khơng được cơng
bố, nhưng được hiểu là khoản phí bơi trơn để thực hiện thủ tục hành chính được

9

Mai Chi, “Cải cách thuế: Việt Nam muốn “so vai” Singapore”, truy cập ngày
24/5/2016
10


nhanh gọn hơn.10 Ngoài ra, quy định về hồ sơ hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu
bao gồm rất nhiều loại “giấy phép con” của các cơ quan quản lý chuyên ngành,
buộc doanh nghiệp phải tốn nhiều thời gian và chi phí mới có được. Để thực hiện
nghĩa vụ thuế với nhà nước, doanh nghiệp phải bỏ ra hàng trăm giờ đồng hồ mỗi

năm, phát sinh chi phí thuê các tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế, làm
ảnh hưởng đến hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh. Hiện nay, thủ tục hành
chính về thuế nói chung và kê khai, nộp thuế hàng hóa nhập khẩu nói riêng đã được
cải cách thơng qua các quy định mới trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, những
quy định này dường như vẫn chỉ nằm trên giấy mà chưa được thực hiện một cách
đúng mức và có hiệu quả trên thực tế dẫn đến thời gian thông quan đối với hàng hóa
vẫn kéo dài.
-

Nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.

Quản lý rủi ro là việc xác định những nguy cơ chủ yếu, từ đó xây dựng các kế
hoạch phịng chống hay giảm thiểu những tác động bất lợi. Nguyên tắc áp dụng
quản lý rủi ro trong quản lý thuế là nguyên tắc cơ quan quản lý thuế phải đánh giá
được mức độ rủi ro trong việc chấp hành pháp luật thuế để áp dụng các biện pháp
thanh tra, kiểm tra và các biện pháp nghiệp vụ khác ở mức độ phù hợp, nhằm đảm
bảo tuân thủ pháp luật về thuế. Quản lý rủi ro được áp dụng trong các hoạt động
đăng ký thuế; khai thuế; nộp thuế; quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định
hành chính thuế; hồn thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; tạo, in, phát hành, quản
lý, sử dụng ấn chỉ thuế.11
Đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cơ quan hải quan đã áp dụng nguyên tắc
này trong việc đánh giá rủi ro về thuế đối với các lơ hàng nhập khẩu, từ đó làm cơ
sở để phân luồng tờ khai hải quan. Những căn cứ để đánh giá rủi ro đối với hàng
hóa là: q trình chấp hành pháp luật của chủ hàng; tính chất, chủng loại, nguồn gốc
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; hồ sơ hải quan; chính sách quản lý hàng hóa nhập
khẩu của Nhà nước; các thông tin liên quan đến hàng hóa nhập khẩu. 12 Đối với
những tờ khai phân luồng xanh, hàng hóa nhập khẩu sẽ được miễn kiểm tra thực tế.
Với những tờ khai phân luồng vàng hoặc đỏ thì tùy mức độ mà hàng hóa sẽ buộc bị
kiểm tra thực tế một phần hay toàn bộ. Ngoài ra, kỹ thuật đánh giá rủi ro còn được
10


Vân Ly, “Doanh nghiệp còn than phiền nhiều về thủ tục hải quan”,
truy cập ngày 24/5/2016.
11
Điều 7 Thông tư 204/2015/TT-BTC quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.
12
Trường Đại học Kinh tế - Luật (2015), Giáo trình thuế và thủ tục hải quan, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 215
11


áp dụng đế phân loại người nộp thuế chấp hành tốt quy định pháp luật về thuế hay
khơng, từ đó có quy định ưu tiên về thời hạn nộp thuế cho người nộp thuế chấp
hành tốt pháp luật về thuế. Yêu cầu đặt ra đối với nguyên tắc này là Bộ Tài chính và
cơ quan thuế phải xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá rủi ro hợp lý, phù hợp với
điều kiện của từng ngành nghề để đảm bảo lựa chọn chính xác người nộp thuế có
mức độ rủi ro về thuế cao. Trong bối cảnh hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
ngày càng phát triển, số lượng hàng hóa tại mỗi cửa khẩu phải chờ đợi để làm thủ
tục hải quan là rất lớn. Do đó, áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong hoạt động kê
khai, nộp thuế là cần thiết, giúp giảm áp lực cho cơ quan hải quan và tiết kiệm chi
phí cho người nộp thuế. Vì nếu tất cả các lơ hàng nhập khẩu đều phải kiểm tra thực
tế thì sẽ phát sinh rất nhiều chi phí như lưu kho, bảo quản hàng hóa, nhiều trường
hợp cịn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi hàng hóa
khơng giao đúng thời điểm cho khách hàng Ngoài ra, đối với người nộp thuế chấp
hành pháp luật thuế tốt hoặc những lô hàng mang tính chất đơn giản, khả năng gian
lận thuế thấp thì việc kiểm tra tất cả lơ hàng trước khi cho thơng quan là việc khơng
cần thiết.
Tóm lại, những nguyên tắc được đặt ra trên đây đều phục vụ cho mục tiêu là đơn
giản hóa thủ tục kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này và hiện đại hóa cơng tác quản lý

thuế. Những nguyên tắc trên cần được vận dụng kết hợp với nhau nhau nhằm tạo ra
hiệu quả tốt nhất.
1.1.3 Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về kê khai, nộp thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu.
Quan hệ pháp luật về kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động kê khai, nộp thuế giữa chủ thể có hành vi nhập
khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế và Nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy
phạm pháp luật thuế. Như vậy, xét về mặt chủ thể, quan hệ pháp luật về kê khai,
nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu có sự tham gia chủ yếu của hai chủ thể: chủ
thể có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế và cơ quan quản lý thuế.
1.1.3.1. Chủ thể kê khai, nộp thuế (Sau đây gọi là người nộp thuế)
Thuế thu vào hàng hóa, dịch vụ là thuế gián thu. Người chịu thuế là người tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế. Tuy nhiên, người nộp thuế là chủ
thể có hành vi sản xuất, kinh doanh, xuất – nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ thuộc đối
tượng chịu thuế. Đối với hàng hóa nhập khẩu, thuế thu vào hàng hóa, dịch vụ sẽ
điều tiết tại khâu đầu tiên khi hàng hóa đó có mặt trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó,
12


người nộp thuế có nghĩa vụ thực hiện kê khai, nộp thuế tại cơ quan hải quan. Quá
trình kê khai, nộp thuế đối với hàng nhập khẩu cũng chính là quá trình khai hải
quan.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, đối
tượng nộp thuế nhập khẩu là tổ chức, cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
thuộc đối tượng chịu thuế. Từ những quy định pháp luật, có thể khái quát chủ thể có
nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu có 2 nhóm chủ thể chính:
Thứ nhất, người nộp thuế là chủ hàng hóa nhập khẩu, chính là chủ thể có hàng
hóa nhập khẩu hoặc trực tiếp thực hiện hoạt động nhập khẩu. Trong đó bao gồm:
người mua hàng hóa nhập khẩu; tổ chức nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa; cá nhân
có hàng hóa nhập khẩu khi nhập cảnh; nhận hàng hóa qua cửa khẩu, biên giới Việt

Nam.
Thứ hai, đối tượng được ủy quyền, bảo lãnh nộp thay thuế bao gồm: đại lý làm
thủ tục hải quan; doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát
nhanh quốc tế; tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của
Luật Các tổ chức tín dụng.13
Tuy cùng có vị trí pháp lý là người nộp thuế nhưng mỗi nhóm chủ thể lại có
những căn cứ phát sinh nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý đối với cơ quan quản lý thuế
khác nhau. Đặc điểm và trách nhiệm pháp lý của mỗi chủ thể sẽ được phân tích cụ
thể dưới đây.
 Chủ hàng hóa nhập khẩu
Chủ hàng hóa nhập khẩu là người nộp thuế được quy định trong từng sắc thuế
cụ thể thu vào hàng hóa, dịch vụ. Chủ hàng hóa nhập khẩu có thể là tổ chức, cá
nhân, có hoặc khơng có tư cách pháp nhân, có hoặc khơng thực hiện hoạt động kinh
doanh. Khi có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế, chủ hàng
phải có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đối với cơ quan quản lý thuế và phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về nội dung mà mình kê khai. Chủ hàng hóa nhập khẩu
thường là người trực tiếp thực hiện việc quản lý, điều phối q trình đưa hàng hóa
từ nước ngồi qua biên giới vào thị trường nội địa. Theo quy định của pháp luật thì
chủ hàng có thể là những đối tượng sau:
Thứ nhất, chủ hàng chính là người mua hàng trực tiếp từ người bán ở nước
ngồi. Người mua chính là chủ thể có quyền sở hữu hàng hóa khi được nhập khẩu
về Việt Nam. Theo quy định tại Nghị định 187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng
13

Khoản 2 Điều 3 Nghị định 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu.
13



hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia cơng và q cảnh hàng hóa với
nước ngồi (Nghị định 187/2013/NĐ-CP) thì chủ thể có quyền kinh doanh xuất
khẩu, nhập khẩu bao gồm doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể được thành lập, đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật (được gọi chung là thương nhân). Theo
đó, thương nhân có quyền xuất, nhập khẩu hàng hóa để kinh doanh mà không cần
đăng ký hoạt động xuất nhập khẩu. Quy định trên góp phần mở rộng quyền tự do
kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp khi có
nhu cầu nhập khẩu hàng hóa đều có thể trực tiếp ký kết các hợp đồng ngoại thương
và thực hiện hoạt động nhập khẩu. Do đó, người mua hàng có thể là người tiêu
dùng, các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa để kinh doanh, phân phối; nhập
nguyên liệu, tài sản cố định để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh,…
Thứ hai, chủ hàng hóa nhập khẩu là tổ chức nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa.
Theo quy định tại Điều 155 Luật Thương mại năm 2005:“Hoạt động ủy thác mua
bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận ủy thác thực hiện việc
mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với
bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác.” Quy định trên được cụ thể hóa trong
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tại Điều 16 Nghị định 187/2013/NĐ-CP:
“Thương nhân được ủy thác cho thương nhân khác xuất khẩu, nhập khẩu hoặc
được nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu từ thương nhân khác các loại hàng hóa,
trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.”
Sở dĩ tổ chức nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa được xem như chủ hàng hóa
nhập khẩu xuất phát từ đặc điểm của hoạt động ủy thác. Lúc này tổ chức nhận ủy
thác sẽ đóng vai trị là người trực tiếp thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa với
người bán ở nước ngồi, đứng tên trên hợp đồng ngoại thương và trong vận đơn
giao hàng thể hiện người nhận hàng là tổ chức ủy thác nhập khẩu hàng hóa. Pháp
luật thuế sẽ mặc nhiên xem tổ chức nhận ủy thác chính là chủ hàng và phải thực
hiện nghĩa vụ thuế với cơ quan thuế. Giữa người mua hàng và tổ chức nhận ủy thác
tồn tại một hợp đồng thương mại. Theo đó bên nhận ủy thác sẽ cung ứng dịch vụ ủy
thác nhập khẩu và nhận thù lao ủy thác từ bên ủy thác. Quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hoạt động ủy thác nhập khẩu pháp luật khơng có nội dung điều chỉnh cụ

thể mà dựa vào sự thỏa thuận giữa các bên. Người mua hàng và bên cung cấp dịch
vụ ủy thác sẽ thỏa thuận với nhau trong hợp đồng về trách nhiệm cụ thể của mỗi
bên, đặc biệt là trong hoạt động kê khai, nộp thuế với Nhà nước. Do đó, nội dung
của hợp đồng ủy thác phải được các bên quy định chặt chẽ, phù hợp với nội dung
của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế để tránh xảy ra tranh chấp khi thực hiện và
phải dự liệu trách nhiệm của mỗi bên trong quan hệ khi có trách chấp xảy ra.
14


Thứ ba, chủ hàng hóa nhập khẩu là cá nhân có hàng hóa khi nhập cảnh; nhận
hàng qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam. Hàng hóa nhập khẩu của cá nhân trong
trường hợp này được xem là hàng hóa phi mậu dịch, nhập khẩu về Việt Nam khơng
nhằm mục đích thương mại. Vì theo quy định tại Nghị định 187/2013/NĐ-CP và
Thông tư 04/2014/TT-BCT hướng dẫn Nghị định 187/2013/NĐ-CP, cá nhân khơng
thuộc đối tượng có quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu. Sở dĩ pháp luật không đặt ra
quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu đối với cá nhân là do tính chất phức tạp của hoạt
động kinh doanh nhỏ lẻ của từng cá nhân sẽ gây khó khăn cho cơng tác quản lý
thuế. Trong trường hợp cá nhân có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa để kinh doanh thì
có thể ủy thác cho tổ chức nhập khẩu hàng hóa. Theo quy định trên thì hàng hóa phi
mậu dịch của cá nhân nhập khẩu vào Việt Nam có thể là tài sản di chuyển hoặc quà
biếu, quà tặng hoặc hàng hóa là hành lý cá nhân của người nhập cảnh gửi theo vận
tải đơn, hàng hoá mang theo người của người nhập cảnh vượt tiêu chuẩn miễn
thuế,…Tuy nhiên, lợi dụng những quy định về miễn thuế đối với hàng hóa phi mậu
dịch, một số đối tượng đã thực hiện hành vi nhập khẩu hàng hóa sau đó bán ra thị
trường mà khơng phải kê khai, nộp thuế hoặc trong một số trường hợp nhập khẩu
hàng hóa thuộc diện cấm nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu. Do đó, nhóm hàng hóa của
cá nhân khi nhập cảnh, hàng hóa nhận qua biên giới Việt Nam cũng phải thực hiện
thủ tục kê khai thuế và nộp thuế trong trường hợp vượt quá định mức miễn thuế để
cơ quan hải quan cũng như cơ quan thuế có thể quản lý và kiểm sốt lượng hàng
hóa nhập khẩu này.

Từ những phân tích trên có thể thấy, chủ hàng hóa nhập khẩu là nhóm chủ thể
có nghĩa vụ thuế theo luật định, phát sinh do trách nhiệm hành chính. Chủ hàng hóa
nhập khẩu sẽ tự mình thực hiện hoạt động kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập
khẩu và chịu trách nhiệm pháp lý trước cơ quan quản lý thuế. Hoạt động kê khai,
nộp thuế hàng hóa nhập khẩu sẽ được thực hiện tại cơ quan hải quan thơng qua thủ
tục hải quan. Chủ hàng phải xuất trình những giấy tờ quy định trong hồ sơ hải quan,
sau đó kê khai các thơng tin về lơ hàng nhập khẩu để làm căn cứ tính thuế.
 Đối tượng được ủy quyền, bảo lãnh nộp thay thuế
Đây là nhóm chủ thể phát sinh nghĩa vụ kê khai, nộp thuế thông qua giao dịch
dân sự với chủ hàng hóa nhập khẩu. Đây là nhóm chủ thể được chủ hàng hóa nhập
khẩu trao quyền thay mặt họ thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Đây được xem là
quan hệ đại diện thuộc sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Mặc dù nhóm chủ thể
này trực tiếp thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế, tuy nhiên chủ hàng hóa nhập
khẩu vẫn phải chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế vì xuất phát từ bản chất trách

15


nhiệm hành chính của người nộp thuế là trách nhiệm khơng thể chuyển giao. Nhóm
đối tượng được ủy quyền, bảo lãnh, nộp thay thuế bao gồm:
Thứ nhất là đại lý làm thủ tục hải quan. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5
Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày 30/01/2015 của Bộ Tài chính quy định chi tiết
thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; cấp và thu hồi mã số nhân viên đại
lý làm thủ tục hải quan; trình từ, thủ tục công nhận và hoạt động của đại lý làm thủ
tục hải quan (Thông tư 12/2015/TT-BTC), đại lý làm thủ tục hải quan là “là doanh
nghiệp đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Hải quan, thay
mặt người có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi chung là chủ hàng) thực
hiện việc khai hải quan; nộp, xuất trình bộ hồ sơ hải quan có liên quan đến lơ hàng
xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định và thực hiện toàn bộ hoặc một phần các công
việc liên quan đến thủ tục hải quan theo thỏa thuận trong hợp đồng ký với chủ

hàng”. Như vậy, đại lý hải quan được hiểu là doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải
quan nói chung và nghĩa vụ kê khai, nộp thuế nói riêng thay cho chủ hàng hóa nhập
khẩu. Đại lý hải quan sẽ nhận ủy quyền thực hiện thủ tục hải quan trong hai trường
hợp, cụ thể:
Một là, theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định 08/2015/NĐ-CP ngày
21/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về
thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan (Nghị định 08/2015/NĐCP), đối với chủ hàng hóa là thương nhân nước ngồi khơng hiện diện tại Việt Nam
thì phải thực hiện thủ tục hải quan thơng qua đại lý làm thủ tục hải quan. Đây là quy
định mới được bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về xuất nhập khẩu hàng hóa và
thủ tục hải quan. Trước đó, Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan,
kiểm tra, giám sát hải quan khơng đề cập đến đối tượng thương nhân nước ngồi
khơng có hiện diện tại Việt Nam là người khai hải quan. Tuy nhiên theo cam kết khi
gia nhập WTO, Việt Nam cho phép thương nhân khơng có hiện diện tại Việt Nam
được quyền xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Đồng thời, trong hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế có phát sinh các điều kiện mua bán như DDP thì lúc này người
bán là doanh nghiệp nước ngoài phải chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa đến
Việt Nam, làm thủ tục hải quan, nộp thuế và giao hàng cho người nhập khẩu Việt
Nam.14 Do đó, quy định mới trong Nghị định 08/2015/NĐ-CP đã nội luật hóa
những cam kết quốc tế và thơng lệ mua bán hàng hóa quốc tế về thủ tục hải quan
của đối tượng thương nhân nước ngoài khơng có hiện diện tại Việt Nam.
14

Tuệ Văn, “Đề xuất quy định mới về người khai hải quan”,
truy cập ngày 6/6/2016.
16


Hai là, trong trường hợp chủ hàng hóa nhập khẩu là người khai hải quan theo
quy định tại Luật Hải quan 2014 và Nghị định 08/2015/NĐ-CP khơng tự mình thực

hiện thủ tục hải quan thì phải thơng qua đại lý hải quan để làm thủ tục hải quan. Nội
dung quy định này được Tổng cục Hải quan hướng dẫn trong Công văn số
6643/TCHQ-GSQL về việc ủy quyền làm thủ tục hải quan.
Theo quy định trên ta thấy đại lý hải quan sẽ nhân danh chính mình trong hoạt
động kê khai, nộp thuế hàng nhập khẩu. Đại lý hải quan sẽ đứng tên trên hồ sơ hải
quan thay vì là chủ hàng. Trong mối quan hệ ba bên giữa đại lý hải quan, chủ hàng
và cơ quan quản lý thuế, đại lý hải quan sẽ phải chịu trách nhiệm trước chủ hàng
đối với những thỏa thuận trong hợp đồng đại lý, đồng thời chịu trách nhiệm trước
cơ quan quản lý thuế về nội dung kê khai, nộp thuế của mình trên cơ sở chứng từ,
tài liệu liên quan đến hàng hóa nhập khẩu do chủ hàng cung cấp. 15 Thông tư
12/2015/TT-BTC cũng quy định cụ thể quyền, trách nhiệm của chủ hàng. Theo đó,
chủ hàng phải cung cấp đầy đủ, chính xác các chứng từ, thông tin cần thiết để làm
thủ tục hải quan lô hàng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các chứng từ, thơng
tin đó; chịu trách nhiệm thực hiện các quyết định xử lý của cơ quan hải quan trong
trường hợp đại lý làm thủ tục hải quan vi phạm các quy định của pháp luật về hải
quan, pháp luật về thuế. Mặc dù trong trường hợp này, chủ hàng đã ủy quyền cho
đại lý hải quan thông qua hợp đồng đại lý, nhưng xét về bản chất quan hệ pháp luật
kê khai, nộp thuế, nghĩa vụ nộp thuế của chủ hàng là nghĩa vụ luật định. Do đó, khi
có vi phạm xảy ra trong hoạt động kê khai, nộp thuế của đại lý hải quan trong phạm
vi ủy quyền, chủ hàng phải chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế.
Thứ hai là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát
nhanh quốc tế (sau đây gọi chung là doanh nghiệp). Đây là đối tượng sẽ thực hiện
việc kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu thay cho chủ hàng trong trường
hợp chủ hàng tại Việt Nam mua hàng ở nước ngoài và gửi về Việt Nam thông qua
đường bưu điện hoặc chuyển phát nhanh bằng đường hàng khơng và có u cầu
doanh nghiệp thực hiện thay thủ tục hải quan. Hàng hóa nhập khẩu bằng bưu chính
và chuyển phát nhanh sẽ thực hiện thủ tục hải quan tại Chi cục Hải quan Bưu điện
và Chi cục Hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế.16 Doanh nghiệp sẽ tự kê khai, tự tính
thuế, hồn tất thủ tục hải quan sau đó liên hệ với chủ hàng để giao nhận hàng hóa.
Các nghĩa vụ của chủ hàng trong việc thực hiện thủ tục nhập khẩu hàng hóa phải

được doanh nghiệp tuân thủ đầy đủ. Trách nhiệm của doanh nghiệp được quy định
15

Khoản 4 Điều 13 Thông tư 12/2015/TT-BTC
Điều 3 Thông tư 49/2015/TT-BTC quy định thủ tục hải quan đối với thư, gói, kiện hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu gửi qua dịch vụ bưu chính của doanh nghiệp được chỉ định.
16

17


cụ thể tại Thông tư 49/2015/TT-BTC ngày 14/4/2015 của Bộ Tài chính quy định thủ
tục hải quan đối với thư, gói, kiện hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gửi qua dịch vụ
bưu chính của doanh nghiệp được chỉ định và Thơng tư 191/2015/TT-BTC ngày
24/11/2015 của Bộ Tài chính quy định thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế.
Thứ ba là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật
Các tổ chức tín dụng. Đây là đối tượng tham gia trong giai đoạn nộp thuế. Các tổ
chức tín dụng sẽ bảo lãnh cho người nộp thuế về thời hạn nộp thuế. Theo đó, tổ
chức tín dụng cam kết bằng thư bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thay cho
người nộp thuế trong trường hợp người nộp thuế vi phạm thời hạn nộp thuế. Có thể
thấy, mối quan hệ trách nhiệm pháp lý giữa chủ hàng và tổ chức tín dụng nhận bảo
lãnh là nghĩa vụ liên đới, việc vi phạm nghĩa vụ của chủ hàng sẽ phát sinh trách
nhiệm của tổ chức tín dụng nhận bảo lãnh với cơ quan hải quan. Do đó, pháp luật về
thuế đã có cơ chế để kiểm soát vấn đề này khi quy định không phải mọi chủ hàng
đều được chấp nhận áp dụng bảo lãnh nộp thuế. Chủ hàng phải đáp ứng được các
điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 43 Thơng tư số 38/2015/TT-BTC ngày
25/3/2015 của Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải
quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hố xuất khẩu,
nhập khẩu (Thơng tư 38/2015/TT-BTC) về thời gian thực hiện hoạt động nhập

khẩu, ý thức chấp hành pháp luật thuế. Quy định như vậy nhằm giảm thiểu được rủi
ro về thuế xuất phát từ phía người nộp thuế để q trình thu thuế được nhanh chóng,
tránh những rắc rối phát sinh khi phải làm việc thông qua một chủ thể khác mà
không phải là chủ hàng, đồng thời khuyến khích người nộp thuế tuân thủ pháp luật
thuế để được hưởng những quyền lợi nhất định. Để được các tổ chức tín dụng bảo
lãnh nộp thuế, chủ hàng hóa nhập khẩu phải có văn bản gửi Chi cục Hải quan nơi
đăng ký tờ khai đề nghị được bảo lãnh chung cho hàng hoá nhập khẩu thực hiện
theo mẫu số 06A/ĐĐNBLC/TXNK và nộp Thư bảo lãnh chung thực hiện theo mẫu
số 06/TBLC/TXNK Phụ lục VI ban hành kèm Thơng tư số 38/2015/TT-BTC.
Tóm lại, chủ thể có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu được
đề cập trước tiên và chịu trách nhiệm trực tiếp với cơ quan thuế là chủ hàng hóa
nhập khẩu. Xuất phát từ đặc thù của hoạt động nhập khẩu, pháp luật thừa nhận tính
pháp lý của các chủ thể khác có vai trị là người thực hiện thay nghĩa vụ kê khai,
nộp thuế cho chủ hàng. Để nhóm chủ thể thứ hai có thể thay mặt mình thực hiện
nghĩa vụ thuế, chủ hàng phải trao cho họ quyền thông qua các thỏa thuận dân sự
như ủy quyền, bảo lãnh. Pháp luật thuế không điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ
hàng và đối tượng thực hiện thay nghĩa vụ kê khai, nộp thuế. Khi có hành vi vi
18


phạm pháp luật thuế xảy ra, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà chủ hàng sẽ phải tự
mình chịu trách nhiệm hoặc sẽ liên đới chịu trách nhiệm cùng với đối tượng kê
khai, nộp thuế thay mình.
1.1.3.2 Cơ quan quản lý thuế
Như đã phân tích, thủ tục kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu được
thực hiện thơng qua thủ tục hải quan. Do đó, trách nhiệm quản lý thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu sẽ được giao cho cơ quan hải quan. Điều 84 Luật Hải quan năm
2014 quy định:
“Điều 84. Trách nhiệm của cơ quan hải quan trong việc tổ chức thu thuế và các
khoản thu khác

1. Tổng cục Hải quan tổ chức thực hiện thống nhất việc thu thuế và các khoản thu
khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; việc áp dụng các biện pháp để bảo
đảm thu đúng, thu đủ thuế và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật về
thuế, phí, lệ phí và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Cơ quan hải quan nơi làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo chức
năng và thẩm quyền được phân cấp kiểm tra việc kê khai, tính thuế; thực hiện miễn
thuế, giảm thuế, hồn thuế, khơng thu thuế, ấn định thuế, gia hạn, xóa nợ tiền thuế,
tiền chậm nộp, tiền phạt đối với người khai hải quan; thu thuế, các khoản thu khác
và quản lý việc nộp thuế.”
Theo quy định trên, trách nhiệm quản lý thuế hàng hóa nhập khẩu được tập
trung thống nhất bởi Tổng cục Hải quan, dưới đó là Cục hải quan và các Chi cục hải
quan. Cơ quan Hải quan được giao nhiệm vụ quản lý và giám sát tình hình nhập
khẩu hàng hóa, do đó việc quy định trách nhiệm quản lý thuế hàng hóa nhập khẩu
cho cơ quan Hải quan là hợp lý, tạo sự đồng bộ, tập trung thống nhất trong quản lý
thuế, tránh trường hợp cùng một hoạt động nhưng lại chịu sự quản lý của các cơ
quan khác nhau, cụ thể là cơ quan hải quan và chi cục thuế, từ đó có thể dẫn đến sự
chồng chéo, mâu thuẫn trong cơ chế quản lý, gây khó khăn cho người nộp thuế. Sau
khi thu thuế từ người nộp thuế, cơ quan Hải quan phải thực hiện nhiệm vụ nộp tiền
vào Kho bạc Nhà nước là nơi tập trung quản lý nguồn thu Ngân sách nhà nước.
Ngồi ra đối với những loại hàng hóa có u cầu kiểm tra chất lượng, kiểm dịch
vệ sinh, y tế,..còn có sự tham gia quản lý của các Bộ, cơ quan chuyên ngành. Những
cơ quan này có thẩm quyền ban hành Danh mục hàng hóa thuộc diện kiểm tra
chuyên ngành và sẽ xem xét hàng hóa có đủ điều kiện để nhập khẩu vào thị trường
nội địa hay không. Quyết định của các cơ quan quản lý chuyên ngành là căn cứ để
cơ quan hải quan ra quyết định thông quan hàng hóa.

19



×