Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ NHƢ TRANG

HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN
CÓ ĐIỀU KIỆN THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ NHƢ TRANG

HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN
CÓ ĐIỀU KIỆN THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. LÊ MINH HÙNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là một cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi, các số liệu trong luận văn trung thực, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Họ và tên tác giả

Trần Thị Nhƣ Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI
SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN

5

Khái niệm, phân loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện

5

1.1.1.

Khái niệm điều kiện trong hợp đồng có điều kiện


5

1.1.2.

Đặc điểm của điều kiện trong hợp đồng có điều kiện

8

1.1.3.

Khái niệm hợp đồng dân sự có điều kiện

16

1.1.4.

Các loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện

18

Khái niệm, đặc điểm hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện

22

1.2.1.

Khái niệm và đặc điểm hợp đồng tặng cho tài sản

22


1.2.2.

Khái niệm điều kiện trong tặng cho có điều kiện và hợp đồng tặng

1.1.

1.2.

1.2.3.

cho tài sản có điều kiện

24

Đặc điểm của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện

26

Mối quan hệ giữa thời điểm giao kết, việc thực hiện nghĩa vụ là

1.3.

điều kiện và hiệu lực của hợp đồng tặng cho có điều kiện
1.3.1.

1.3.2.

29

Thời điểm giao kết hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện dưới tác

động của điều kiện

29

Hiệu lực của hợp đồng tặng cho dưới tác động của điều kiện

31

Kết luận Chương 1

40

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TẶNG
CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN
2.1.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện

2.1.1.

41

41

Bất cập của thực tiễn xét xử trong việc xác định điều kiện trong hợp
đồng tặng cho có điều kiện

41


2.1.2.

Việc đánh giá tính hợp pháp của điều kiện trong hợp đồng tặng cho

45

2.1.3.

Vướng mắc trong việc đánh giá yếu tố lỗi trong việc không
thực hiện điều kiện và đối với hậu quả việc tặng cho

49


2.1.4.

Vướng mắc trong việc xác định tính chất của loại điều kiện
(làm phát sinh hiệu lực hay hủy bỏ hay để địi lại tài sản) để
từ đó xác định hiệu lực của hợp đồng tặng cho có điều kiện

2.1.5.

53

Bất cập trong việc xử lý vấn đề sở hữu tài sản tặng cho
trong mối quan hệ với việc thực hiện điều kiện của hợp
đồng và hiệu lực của hợp đồng tặng cho

2.2.


Hƣớng hoàn thiện các quy định của pháp luật về tặng cho tài
sản có điều kiện

2.2.1.

57
67

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật dân
sự về tặng cho tài sản, hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện và điều kiện của hợp đồng nói riêng

2.2.2.

68

Khắc phục sự mâu thuẫn của các ngành luật liên quan đến
thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, thời điểm phát
sinh quyền sở hữu

2.2.3.

74

Hoàn thiện pháp luật về đăng ký, đặc biệt là có quy định cụ
thể về việc đăng ký đối với giao dịch có điều kiện nói chung
và tặng cho có điều kiện nói riêng

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77

78


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong số các hình thức để chuyển quyền sở hữu tài sản, hợp đồng tặng cho tài
sản là một giao dịch dân sự phổ biến. Hợp đồng tặng cho tài sản vốn được xem là
một nội dung pháp lý phức tạp trong chế định hợp đồng và hợp đồng tặng cho tài
sản có điều kiện lại càng phức tạp hơn khi các bên tham gia cịn đưa thêm điều kiện
nhằm mục đích làm phát sinh hay chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.
Có thể thấy rằng, việc tặng cho tài sản thường được giao kết và thực hiện trên
tình cảm, sự quen biết, tinh thần tương thân tương ái giữa các bên tham gia quan hệ
hợp đồng. Trong mối quan hệ này, thường chỉ là một bên (bên tặng cho) có nghĩa
vụ và khơng có sự đền bù ngang giá theo quy luật giá trị. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của đời sống kinh tế xã hội, mặc dù việc tặng cho vẫn thường dựa trên
mối liên hệ gia đình, thân thích hoặc quan hệ tình cảm giữa các bên, người tặng cho
khơng yêu cầu người thụ nhận phải đền bù ngang giá đối với tài sản tặng cho,
nhưng có thể người tặng cho sẽ yêu cầu người được tặng cho thực hiện nghĩa vụ,
hay làm một việc gì đó, và đây được coi là điều kiện phát sinh hiệu lực của hợp
đồng. Chẳng hạn trong nhiều trường hợp, bên tặng cho là người sở hữu tài sản có
giá trị như nhà ở, xe ơ tơ, vàng, kim khí q đá q, nhưng lại có hồn cảnh neo
đơn, khơng có người thân để nương tựa, nhờ vả cũng khơng có ai chăm sóc khi tuổi
già, sức yếu là nhu cầu chính đáng và hợp pháp.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực nêu trên, Bộ luật Dân sự

Việt Nam năm 2005 đã quy định về loại hợp đồng tặng cho đặc biệt này. Nhưng vấn
đề này chỉ được quy định duy nhất tại một điều luật chưa đủ sức để điều chỉnh hết
các vấn đề phức tạp về hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, đồng thời, cách quy
định có nhiều điểm cịn bất cập, chưa phản ánh hết các vấn đề pháp lý phức tạp của
hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, thiếu tính khả thi, chưa bảo vệ tốt quyền, lợi
ích hợp pháp của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng cũng như trong quá
trình giải quyết tranh chấp đối với loại hợp đồng này. Thực tiễn áp dụng pháp luật
để giải quyết tranh chấp về hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện có nhiều vướng
mắc. Thực tế cho thấy rằng các tranh chấp về hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện diễn ra rất phức tạp, có khơng ít vụ án phải xét xử nhiều lần với nhiều cấp xét
xử khác nhau, nhưng quan điểm giải quyết không thống nhất, thậm chí trái ngược
nhau gây nên nhiều tranh luận, bàn cãi.


2

Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện về hợp đồng tặng
cho tài sản có điều kiện để làm rõ cơ sở lý luận về “điều kiện tặng cho”, thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn giải quyết tranh chấp của Tòa án đối với loại hợp đồng này là một trong những
yêu cầu cấp thiết của khoa học pháp lý. Với lý do trên, tác giả chọn “Hợp đồng
tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Ở Việt Nam, vấn đề về hợp đồng nói chung và hợp đồng tặng cho nói riêng đã
được một số nhà nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau
như: Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam, Bản án và bình luận bản án,
NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 (tác phẩm này chuyên sâu bình luận những
bản án đã được công bố liên quan đến các khía cạnh pháp lý của chế định hợp đồng,
tại tác phẩm này tác giả chỉ đề cập đến giao dịch dân sự có điều kiện và khái quát sơ

về “điều kiện” trong giao dịch có điều kiện); Nguyễn Hải An, Pháp luật về tặng cho
quyền sử dụng đất tại Việt Nam, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, (tác phẩm
này nghiên cứu chủ yếu về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trong đó có nêu sơ
lược về hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện); Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận các
hợp đồng thơng dụng trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb.Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2001; Nguyễn Mạnh Bách, Luật Dân sự Việt Nam lược giải-các hợp đồng
dân sự thơng dụng, Nxb.Chính trị quốc gia, 1997; Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định
hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005, Nxb.Tư pháp, 2007. Những tác phẩm này lại
không đề cập đến hợp đồng tặng cho tài sản cũng như hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện.
Riêng vấn đề về điều kiện trong hợp đồng có điều kiện được cũng được một số
nhà nghiên cứu đề cập đến trong một số bài viết, tác phẩm như: trong Luận án tiến
sỹ luật học, “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” của tác
giả Lê Minh Hùng; trong bài viết “Về “điều kiện” trong hợp đồng có điều kiện” trên
Tạp chí Luật học, số 2/1998; “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” trên Báo Pháp
luật Việt Nam, Số chuyên đề 01 tháng 11/2004; “Giao kết hợp đồng – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn ” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh trong sách chuyển khảo
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”;
“Bản chất của hợp đồng tặng cho” của tác giả Dương Anh Sơn trên Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 4(47)/2008…


3

Qua tìm hiểu của tác giả thì hiện nay chưa có một cơng trình nghiên cứu một
cách cơ bản, hệ thống và chuyên sâu về vấn đề hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tặng cho tài sản có điều kiện là một vấn đề phức tạp, có thể được nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi luận văn Thạc sĩ luật học, tác giả chỉ

tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của điều kiện trong giao dịch, hợp đồng
có điều kiện và trong hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, đặc điểm của hợp
đồng tặng cho có điều kiện (thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, phát sinh sở
hữu tài sản tặng cho trong mối liên hệ với việc thực hiện điều kiện của hợp đồng
tặng cho). Luận văn khơng nghiên cứu về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự.
4. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Việc nghiên cứu nhằm để làm rõ bản chất pháp lý của điều kiện trong hợp
đồng tặng cho, của loại hợp đồng tặng cho có điều kiện. Từ đó, tìm ra những điểm
thiếu sót, chưa phù hợp hay cịn gây tranh cãi về vấn đề này. Đồng thời, trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện để đánh giá lại sự phù hợp của các quy định pháp luật có liên quan đến
tặng cho có điều kiện để đề xuất kiến nghị hoàn thiện chế định này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp… để thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là cơng trình nghiên cứu cơ bản, có tính hệ thống về vấn đề tặng cho
có điều kiện. Các kiến nghị của tác giả Luận văn nếu được các cơ quan có thẩm
quyền nghiên cứu, tiếp thu sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc về lý luận,
những bất cập của các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn giải quyết các
tranh chấp liên quan đến tặng cho có điều kiện nói riêng và giao dịch, hợp đồng có
điều kiện nói chung. Bên cạnh đó, Luận văn cịn là tài liệu tham khảo cho giảng
viên, sinh viên, những người làm công tác thực tiễn và những người quan tâm đến
vấn đề điều kiện trong hợp đồng giao dịch, hợp đồng tặng cho có điều kiện.


4


7. Bố cục đề tài
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn được cơ cấu thành hai chương:
Chương 1:
Chương 2:

Những vấn đề cơ bản về hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng tặng cho tài sản có
điều kiện và kiến nghị hoàn thiện


5

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ ĐIỀU KIỆN
1.1. Khái niệm, phân loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện
1.1.1. Khái niệm điều kiện trong hợp đồng có điều kiện
Về phương diện ngôn ngữ học, điều kiện được định nghĩa là “Cái cần phải có
để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra” hay “Điều nêu ra như một địi hỏi
trước khi thực hiện một việc nào đó” hoặc “Những gì có thể tác động đến tính chất,
sự tồn tại hoặc sự xảy ra của một cái gì đó”1. Nói cách khác, điều kiện được xem
như cái tiền đề để cái khác xảy ra trong mối quan hệ nhân quả giữa chúng (điều kiện
tiền đề và hệ quả của nó) với nhau.
Về phương diện pháp lý, thuật ngữ “điều kiện” hiện chưa được pháp luật dân
sự định nghĩa một cách cụ thể, mà được sử dụng dưới các góc độ pháp lý khác
nhau, trong những hồn cảnh khác nhau và với nội dung khác nhau. Thật vậy, hợp
đồng là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ các giao dịch dân sự được thiết lập dựa trên
sự thống nhất ý chí giữa các bên, trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, tự do cam kết
thỏa thuận. Tuy nhiên, thỏa thuận đó chỉ được xem là có giá trị pháp lý ràng buộc

các bên khi tuân thủ một số tiêu chí nhất định đã được pháp luật quy định. Đó là
tiêu chí về năng lực chủ thể tham gia, điều kiện về mục đích và nội dung, điều kiện
về ý chí tự nguyện của các bên tham gia, và điều kiện về hình thức của hợp đồng.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (sau đây viết tắt là BLDS 2005), các
tiêu chí pháp lý nêu trên được gọi là các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao
dịch2. Có thể khẳng định rằng, các điều kiện nêu trên là các tiêu chí pháp lý do pháp
luật quy định bắt buộc mà một thỏa thuận phải đáp ứng để được coi là hợp đồng
hợp pháp.
Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc pháp lý cơ bản trong quan hệ pháp luật dân
sự thì sự tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên ln được tơn trọng. Chính vì vậy,
ngồi việc phải bảo đảm các tiêu chí (điều kiện) mà pháp luật quy định để hợp đồng
có hiệu lực nêu trên thì các bên hồn tồn có thể thỏa thuận thêm một hay một số
điều kiện khác nhằm tự ấn định hiệu lực hợp đồng hay gắn với việc thực hiện hợp
đồng. Chẳng hạn, các bên có thể thỏa thuận về việc hợp đồng sẽ phát sinh hoặc hủy
bỏ hiệu lực khi có sự xuất hiện hay khơng xuất hiện của một (hoặc một số) sự kiện
cụ thể nào đó. Trong trường hợp này, các điều kiện do các bên tự đặt ra chính là sự
1
2

Hồng Phê (2014), Từ điển Tiếng Việt (tái bản lần thứ 6), Nxb. Đà Nẵng, Đà Năng, tr.428.
Điều 121, Điều 122 và Điều 388 BLDS 2005.


6

kiện pháp lý làm căn cứ để phát sinh hiệu lực hoặc để hủy bỏ một hợp đồng cụ thể.
Khi đó, pháp luật về dân sự cũng dùng thuật ngữ “điều kiện” để nói đến những sự
kiện này và gọi chúng là điều kiện của hợp đồng. Tuy nhiên, những điều kiện này
không do pháp luật ấn định mà lại do các bên tự nguyện thỏa thuận và là một nội
dung, điều khoản trong chính hợp đồng, giao dịch đó để khi xảy ra sự kiện (là điều

kiện) này thì hợp đồng có hiệu lực hoặc hủy bỏ hiệu lực hay được thực hiện.
Với cách tiếp cận như vậy, khái niệm về điều kiện trong hợp đồng, giao dịch nói
chung có thể được hiểu như sau: “Điều kiện là những sự kiện pháp lý do các bên thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định nhằm xác lập căn cứ phát sinh hoặc hủy bỏ hiệu lực
của hợp đồng mà với sự xuất hiện hoặc không xuất hiện của sự kiện pháp lý đó trong
thực tế thì hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực hoặc bị hủy bỏ”3.
Có thể thấy rằng, xét dưới góc độ về nguồn gốc và cơ sở pháp lý hình thành
thì có sự khác nhau giữa khái niệm “điều kiện” để hợp đồng, giao dịch dân sự có
hiệu lực (được quy định tại Điều 122 BLDS 2005) và khái niệm “điều kiện” trong
giao dịch, hợp đồng có điều kiện. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao dịch là
những yêu cầu pháp lý nhằm bảo đảm cho hợp đồng trở nên hợp pháp và có giá trị
pháp lý được pháp luật công nhận. Các điều kiện này được pháp luật quy định,
nhằm kiểm sốt tính hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng và góp phần đảm bảo sự
an toàn pháp lý cho các bên tham gia xác lập, thực hiện giao dịch. Khi giao dịch,
hợp đồng khơng tn thủ một trong các điều kiện đó thì bị vơ hiệu hoặc có thể bị
tịa án tun bố vơ hiệu.
Cịn “điều kiện” trong hợp đồng, giao dịch dân sự có điều kiện là những sự
kiện được các bên tiên liệu khi xác lập hợp đồng, được ghi nhận vào trong hợp đồng
thành một điều khoản của hợp đồng và có thể xảy ra trong thực tế sau khi hợp đồng,
giao dịch được xác lập mà hậu quả của nó là làm cho hợp đồng, giao dịch phát sinh
hiệu lực hoặc bị hủy bỏ hoặc được thực hiện. Ngoài ra, điều kiện trong hợp đồng có
điều kiện cũng có bản chất khác với những thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực hay
thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng được quy định Điều 405 và khoản 2,
Điều 424 BLDS 2005, mặc dù xét về hệ quả pháp lý, thì chúng cũng đưa tới hệ quả
giống nhau.

3

Xem thêm: Lê Minh Hùng (2012), “Hợp đồng tặng cho nhà ở có điều kiện trong pháp luật Việt Nam hiện
hành”, Tài liệu Tọa đàm khoa học Giao dịch dân sự về nhà ở (tổ chức tại Trường Đại học Luật Thành phố

Hồ Chí Minh, ngày 08/12/2012), tr.55.


7

Xem xét thuật ngữ “điều kiện” được quy định trong các điều luật liên quan đến
giao dịch, hợp đồng có điều kiện được quy định trong BLDS 2005 cho thấy có sự
khác nhau về quy định giữa các điều luật. Cụ thể:
- Theo khoản 6 Điều 406 BLDS 2005 thì: “Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng
mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện
nhất định”. Theo đó, điều kiện trong hợp đồng có điều kiện được xác định là sự kiện
nhất định mà việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt sự kiện đó được gắn liền với
việc thực hiện hợp đồng. Có thể thấy rằng, điều khoản nêu trên không gắn điều kiện
với vấn đề hiệu lực phát sinh hay hủy bỏ của hợp đồng. Bên cạnh đó, do điều khoản
này khơng minh thị về nguồn gốc hình thành sự kiện (là điều kiện) nên về mặt
nguyên tắc, sự kiện này có thể là do các bên thỏa thuận song cũng có thể là do pháp
luật quy định. Nói cách khác, hợp đồng có điều kiện được hiểu là loại hợp đồng
trong đó các bên thỏa thuận hoặc có quy định pháp luật về một sự kiện nhất định
nào đó và chỉ khi xảy ra sự kiện này thì hợp đồng có hiệu lực thực hiện đối với các
bên tham gia giao kết.
- Trong khi đó, theo khoản 1 Điều 125 về giao dịch dân sự có điều kiện thì:
“Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao
dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ”.
Như vậy, đối với giao dịch dân sự có điều kiện thì điều kiện lại được pháp luật gắn
liền với vấn đề hiệu lực của giao dịch (việc phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch). Theo
đó, khi các bên có thỏa thuận thêm nội dung về điều kiện trong giao dịch của mình
thì khi xảy ra điều kiện đó, giao dịch được phát sinh hay hủy bỏ hiệu lực.
Do hợp đồng là một dạng của giao dịch dân sự (Điều 121 BLDS 2005), nên
quy định về điều kiện trong giao dịch dân sự có điều kiện tại Điều 125 BLDS 2005
vẫn hồn tồn có thể được áp dụng đối với hợp đồng dân sự. Nói cách khác, nếu

tiếp cận dưới góc độ là một dạng của giao dịch dân sự thì trong hợp đồng có điều
kiện, các bên hồn tồn có thể thỏa thuận về điều kiện để khi xuất hiện điều kiện đó
thì hợp đồng phát sinh hiệu lực hay hủy bỏ hiệu lực.
Cần lưu ý rằng, vấn đề hiệu lực hợp đồng (phát sinh hay hủy bỏ hợp đồng) và
vấn đề thực hiện hợp đồng là các vấn đề pháp lý khác nhau, mặc dù đều có liên
quan đến chế định hợp đồng. Cụ thể, BLDS 2005 khi nói về hiệu lực của hợp đồng
dân sự tại Điều 405 đã xác định: hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác. Sau khi hợp đồng đã được giao kết thì các bên bằng hành vi của mình sẽ thực


8

hiện các điều khoản là nội dung của hợp đồng. Pháp luật dân sự về hợp đồng coi
đây là giai đoạn thực hiện hợp đồng (được quy định từ Điều 412 đến Điều 422,
Chương XVII, Mục 7, Phần thứ ba của BLDS 2005).
Tóm lại, pháp luật về hợp đồng, giao dich có điều kiện khơng định nghĩa về
“điều kiện” mà chỉ gắn nó với các sự kiện có ý nghĩa pháp lý khác nhau đối với hợp
đồng (phát sinh hiệu lực, hủy bỏ hiệu lực hoặc thực hiện hợp đồng). Đồng thời, dưới
góc độ lý luận và nguồn gốc hình thành, điều kiện trong hợp đồng, giao dịch có điều
kiện là điều khoản do các bên tự nguyện thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định và
thuộc về nội dung hợp đồng. Điều khoản này quy định về các sự kiện cụ thể được các
bên thỏa thuận là căn cứ pháp lý để xác định thời điểm hợp đồng phát sinh hiệu lực
hoặc hủy bỏ hợp đồng hoặc thực hiện hợp đồng. Sự kiện cụ thể đó được gọi là “điều
kiện” của hợp đồng.
Như vậy, theo các điều luật có liên quan đến khái niệm điều kiện trong hợp
đồng, giao dịch thì với sự xuất hiện (hoặc khơng xuất hiện) của điều kiện đã được
thỏa thuận trong hợp đồng thì hợp đồng (đã được giao kết) sẽ phát sinh hiệu lực
hoặc hủy bỏ hiệu lực hoặc được thực hiện. Điều kiện ở đây được hiểu là một hoặc
nhiều “sự kiện” thực tế có thể xảy ra hoặc khơng xảy ra do pháp luật quy định hoặc

do các bên thỏa thuận, tiên liệu để xác lập căn cứ nhằm làm phát sinh hoặc chấm
dứt hợp đồng4.
Với cách tiếp cận đó, có thể đưa ra định nghĩa về điều kiện của của hợp đồng
có điều kiện như sau:
Điều kiện trong hợp đồng có điều kiện là những dự liệu về sự kiện mang tính
pháp lý được pháp luật quy định hoặc do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng trên
cơ sở không trái pháp luật, đạo đức xã hội, nhằm xác lập căn cứ làm phát sinh, hủy
bỏ hiệu lực hay thực hiện hợp đồng mà khi sự kiện đó xảy ra hay khơng xảy ra
trong thực tế thì hợp đồng đã được giao kết phát sinh hiệu lực hay hủy bỏ hiệu lực
hoặc có hiệu lực thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm của điều kiện trong hợp đồng có điều kiện
Về mặt nguyên tắc, hợp đồng là một sự kiện pháp lý được hình thành do
chính các bên giao kết tự nguyện thỏa thuận, qua đó làm phát sinh quan hệ pháp
luật về nghĩa vụ có hiệu lực ràng buộc giữa các bên (bản thân nó khơng phải là
nghĩa vụ do pháp luật tiên liệu). Mặc dù được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự
4

Phạm Công Lạc (1998), “Về “điều kiện” trong hợp đồng có điều kiện”, Tạp chí Luật học, (số 02/1998), tr.2829.


9

nguyện cam kết, thỏa thuận, song ý chí thỏa thuận đó của các bên (bao gồm cả
những điều khoản về điều kiện trong hợp đồng có điều kiện) chỉ được coi là hợp
pháp nếu tuân thủ các yêu cầu pháp lý nhất định. Nói cách khác, điều kiện trong
hợp đồng có điều kiện phải tuân thủ những yêu cầu pháp lý nhất định để bảo đảm
tính hợp pháp của hợp đồng. Cụ thể:
Thứ nhất, điều kiện phải là sự kiện được xảy ra mang tính tự nhiên, khách
quan và khơng phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ ai
Trong khoa học pháp lý, sự kiện là những điều kiện, hoàn cảnh tình huống

được diễn ra trong thực tế cuộc sống làm ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội. Những
sự kiện này có thể là sự kiện tự nhiên (sự biến) hoặc có thể là hành vi của con người
(bao gồm hành vi hành động và hành vi không hành động). Nếu những sự kiện này
được dự kiến trong các quy phạm pháp luật gắn với việc phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể khi chúng diễn ra trong thực tế cuộc sống thì
được gọi là sự kiện pháp lý5. Như vậy, sự kiện là điều kiện trong hợp đồng có điều
kiện có thể là sự kiện mang tính chất tự nhiên song cũng có thể là hành vi nhất định
của con người. Do đó, về mặt ngun tắc, sự kiện có thể mang tính chủ quan hay
khách quan.
Bên cạnh đó, sự kiện là điều kiện trong giao dịch có điều kiện nói chung và
hợp đồng có điều kiện nói riêng ln được đề cập đến dựa trên cơ sở ý chí chủ quan
của các bên tham gia giao kết, nhưng pháp luật quy định sự kiện này lại phải được
xảy ra một cách khách quan và không chịu bất cứ một sự tác động mang yếu tố chủ
quan của con người. Theo quy định tại khoản 2 Điều 125 BLDS 2005: “Trong
trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra
được do hành vi cố ý cản trở của một bên hoặc của người thứ ba thì coi như điều
kiện đó đã xảy ra; nếu có sự tác động của một bên hoặc của người thứ ba cố ý thúc
đẩy cho điều kiện để làm phát sinh hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự xảy ra thì coi như
điều kiện đó khơng xảy ra”.
Từ quy định trên, có thể thấy rằng pháp luật buộc việc xuất hiện hay khơng
xuất hiện sự kiện phải nằm ngồi sự tác động chủ quan của các bên tham gia giao
kết hoặc của người thứ ba và sự kiện đó phải diễn ra một cách tự nhiên như nó vốn
có. Nếu đây không phải diễn tiến tự nhiên (do sự sắp xếp, bố trí theo ý đồ của một
chủ thể nào đó) thì khi đó, việc hợp đồng có hiệu lực hay khơng là hồn tồn tùy
5

Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, tr.459-460.


10


thuộc vào ý muốn đơn phương của bên có quyền quyết định chi phối điều kiện của
hợp đồng. Như vậy, nó sẽ phá vỡ bản chất tự nguyện trong hợp đồng.
Nếu sự xuất hiện hay không xuất hiện của điều kiện là do ý chí, hành động chủ
quan của một hoặc các bên tham gia hợp đồng thúc đẩy (thể hiện qua việc thúc đẩy
hay cản trở sự xuất hiện) thì sự ràng buộc của sự kiện đó đối với hiệu lực của hợp
đồng sẽ khơng có giá trị, bởi vì lúc này pháp luật coi như điều kiện đó đã được thỏa
mãn để từ đó đã làm phát sinh hiệu lực hay hủy bỏ hiệu lực của hợp đồng. Nói cách
khác, việc điều kiện xảy ra khơng tự nhiên sẽ không phủ nhận tư cách tồn tại của
điều kiện và không đồng nghĩa với việc hợp đồng trở thành khơng có điều kiện hoặc
điều kiện của hợp đồng bị vơ hiệu. Bởi vì, xét về mặt ý chí thỏa thuận của các bên
trong hợp đồng có điều kiện thì việc khơng có điều kiện cũng đồng nghĩa với việc
các bên xác định khơng có quan hệ hợp đồng.
Như vậy, các điều kiện của hợp đồng có điều kiện có thể là những tình huống,
những hồn cảnh mang tính chất tự nhiên (khách quan) hoặc những hành vi (mang
dấu ấn chủ quan) song chúng phải được xảy ra một cách khách quan, khơng chịu sự
tác động bởi ý chí chủ quan của các bên. Trong trường hợp có hành vi cản trở hay
thúc đẩy thì sự kiện đó vẫn là điều kiện của hợp đồng, tuy nhiên, nó lại được pháp
luật xác định là đã xảy ra hoặc chưa xảy ra mặc dù trên thực tế là trái ngược.
Thứ hai, điều kiện của hợp đồng phải được các bên ấn định vào thời điểm
giao kết hợp đồng và dự kiến có thể phát sinh trong tương lai
Mối quan hệ giữa điều kiện với hiệu lực của hợp đồng là mối quan hệ nhân
quả, trong đó, điều kiện đóng vai trị nguyên nhân, tiền đề. Cả điều kiện lẫn hệ quả
của nó đều phải được ấn định cụ thể vào thời điểm giao kết hợp đồng. Tuy nhiên tại
thời điểm này, sự kiện là điều kiện vẫn chưa xảy ra trên thực tế mà các bên mới chỉ
dự kiến khả năng hình thành và xuất hiện của chúng vào một thời điểm tương lai,
sau khi hợp đồng được giao kết.
Một sự kiện đã tồn tại trên thực tế vào thời điểm xác lập hợp đồng thì sự kiện
đó khơng thể trở thành điều kiện của hợp đồng. Bởi lẽ khi đó, cái được gọi là điều
kiện sẽ luôn luôn được thỏa mãn. Lúc đó, hợp đồng sẽ khơng khác gì với một thỏa

thuận khơng có điều kiện (cho dù các bên có biết hay chưa về sự tồn tại của điều
kiện đó). Chẳng hạn, A lập hợp đồng tặng cho B điện thoại IPHONE với điều kiện
khi A được người thân tặng cho máy tính bảng SAMSUNG. Nếu vào thời điểm xác
lập hợp đồng đó mà A đã được tặng cho máy tính bảng, thì sự kiện “được tặng cho
máy tính bảng SAMSUNG” sẽ khơng cịn ý nghĩa gì đối với việc phát sinh hiệu lực


11

của hợp đồng tặng cho IPHONE, vì trong hồn cảnh đó, hợp đồng sẽ ln có hiệu
lực.
Sự kiện (hồn cảnh, tình huống, hành vi) do các bên thỏa thuận phải là những
sự kiện có khả năng xảy ra được trong tương lai. Nếu các bên thỏa thuận về một sự
kiện là điều kiện để xác lập hiệu lực hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng lại là những
sự kiện không thể xảy ra, chưa từng có trong xã hội, trong tự nhiên, mang tính chất
hoang đường hay vượt quá khả năng của người thực hiện (trong những điều kiện,
hoàn cảnh nhất định) thì sự kiện đó khơng thể được xem là điều kiện để xác lập hợp
đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng. Bởi vì lúc đó, sự thoả thuận giữa các bên sẽ khơng
nhằm mục đích tạo lập ra hiệu lực pháp lý (quyền và nghĩa vụ) ràng buộc các bên
giao kết và như vậy hợp đồng sẽ không bao giờ có thể phát sinh hiệu lực hay hủy bỏ
hiệu lực hay được thực hiện trên thực tế như mục đích của các bên mong muốn khi
giao kết.
Thứ ba, thời điểm xuất hiện sự kiện là điều kiện của hợp đồng phải xảy ra sau
cả thời điểm hợp đồng có hiệu lực theo quy định chung.
Bản thân một hợp đồng đã được giao kết khi thỏa mãn các tiêu chí (điều kiện)
bắt buộc do pháp luật quy định sẽ phát sinh hiệu lực. Thời điểm hợp đồng phát sinh
hiệu lực theo quy định chung là thời điểm hợp đồng được giao kết, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Bằng cách đưa thêm
điều kiện vào hợp đồng của mình, các bên ấn định lại thời điểm có hiệu lực hoặc
thời điểm thực hiện hợp đồng khác với thời điểm hợp đồng có hiệu lực theo quy

định chung. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất phải phát sinh hiệu lực ngay dưới sự
tác động của việc xuất hiện điều kiện, có thể thấy rằng: nếu sự kiện này được thỏa
mãn trước thời điểm hợp đồng có hiệu lực theo quy định chung (nếu khơng đặt điều
kiện), thì sự kiện đó cũng khơng có khả năng làm cho hợp đồng trở nên có hiệu lực
ngay vào thời điểm điều kiện được thỏa mãn, mà vẫn phải chờ đến thời điểm có
hiệu lực được pháp luật quy định. Do đó, nó khơng thỏa mãn được tính chất của
điều kiện như vốn được quy định tại khoản 1 Điều 125 BLDS 2005 (khi điều kiện
xảy ra thì giao dịch phát sinh hay hủy bỏ). Chẳng hạn, do pháp luật quy định việc
thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm,
cho nên dù sự kiện là điều kiện được các bên thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp có
xảy ra trước thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm thì hợp đồng cũng khơng thể phát
sinh hiệu lực (vì chưa thỏa mãn điều kiện do pháp luật quy định là phải đăng ký).


12

Có quan điểm cho rằng, sự kiện (là điều kiện) vẫn có thể xảy ra trước khi hợp
đồng có hiệu lực trong trường hợp những điều kiện này được xác lập nhằm đáp ứng
(bổ khuyết) cho yêu cầu bắt buộc về hiệu lực của hợp đồng do pháp luật quy định.
Chẳng hạn, việc các bên mua bán thỏa thuận điều kiện sẽ bán nhà cho nhau khi căn nhà
được cấp chủ quyền (do bên bán đang làm thủ tục mua hóa giá chẳng hạn). Quan điểm
này cho rằng, tại thời điểm giao kết xác lập hợp đồng thì mặc dù hợp đồng có vi phạm
điều kiện hợp đồng có hiệu lực (do chưa có chủ quyền, bên bán chưa phải là chủ sở
hữu tài sản), song do điều kiện được đặt ra là khi có chủ quyền thì việc bán tài sản mới
có hiệu lực phát sinh, do đó, khơng vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
và như vậy lại không trái pháp luật6.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi ở chỗ: bản thân hợp đồng mua bán có thỏa thuận
điều kiện như vậy lại chưa có giá trị pháp lý ràng buộc trách nhiệm các bên trong
quan hệ mua bán bởi vì nó chưa có hiệu lực, do chưa được công chứng, chứng thực
và đăng ký. Cơ quan công chứng, chứng thực lại không thể công chứng, chứng thực

sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng mua bán với nội dung này (do không đủ
điều kiện để công chứng, chứng thực7). Chỉ đến khi bên bán đã được cấp chủ quyền
thì mới có thể cơng chứng, chứng thực hợp đồng có điều kiện này. Theo quy định
của pháp luật về công chứng, chứng thực, các bên tham gia xác lập hợp đồng phải
ký hợp đồng trước mặt người có thẩm quyền cơng chứng, chứng thực. Do đó, các
bên cũng khơng thể xuất trình hợp đồng có điều khoản về điều kiện nêu trên do
mình đã ký trước đây (khi sự kiện là điều kiện chưa xảy ra) để công chứng viên
chứng nhận lên hợp đồng này, mà phải ký kết một hợp đồng mua bán chính thức tại
cơ quan có thẩm quyền cơng chứng, chứng thực. Tuy nhiên lúc đó, sự kiện là điều
kiện của hợp đồng đã được thỏa mãn nên không thể coi đây là điều kiện của hợp
đồng mua bán nhà tại thời điểm công chứng. Thực chất trong trường hợp này, sự
thỏa thuận giữa các bên về việc mua bán nhà nêu trên là loại thỏa thuận tiền hợp
đồng mua bán (hợp đồng hứa bán có điều kiện phát sinh hiệu lực hoặc hợp đồng đặt
cọc có điều kiện) vì loại hợp đồng này khơng buộc phải có cơng chứng, chứng thực
và việc mua bán sẽ phải được thực hiện chính thức bằng hợp đồng mua bán sau khi
đã có chủ quyền.

6

Nguyễn Như Bích (2011), “Bàn về hiệu lực của hợp đồng có điều kiện”, Tạp chí Tịa án nhân dân, Kỳ I
tháng 10-2011 (số 19), Tr.12-20.
7
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 91 Luật nhà ở thì điều kiện thực hiện giao dịch phải có giấy chứng nhận
quyền sở hữu.


13

Ở đây, bản chất của hợp đồng hứa mua, hứa bán và hợp đồng mua bán nhà có
điều kiện là khác nhau. Đối với hợp đồng mua bán nhà có điều kiện thì khi điều

kiện xảy ra, hợp đồng mua bán có hiệu lực và sẽ phải thực hiện (nếu hợp đồng được
lập hợp pháp).Tuy nhiên, nếu như bên bán chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, thì chưa đủ điều kiện
chuyển nhượng. Cịn đối với hợp đồng hứa mua, hứa bán thì đã có hiệu lực ngay tại
thời điểm giao kết. Việc thỏa thuận việc mua bán sẽ phải được tiến hành ngay khi
nhận được giấy chủ quyền nhà, và đây chỉ là vấn đề thời gian. Do đó, đến khi A
nhận được giấy chủ quyền thì A phải thực hiện hợp đồng hứa mua, hứa bán với B.
Nếu A không chịu thực hiện hợp đồng hứa mua, hứa bán với B, tức không chịu
cùng B ký hợp đồng mua bán nhà theo cam kết thì A phải chịu trách nhiệm dân sự
trước B do đã vi phạm hợp đồng hứa mua, hứa bán mà các bên đã ký.
Như vậy có thể thấy rằng, đối với loại hợp đồng mà pháp luật buộc phải công
chứng, chứng thực thì những sự kiện (điều kiện) làm tiền đề để hợp đồng có thể đáp
ứng những tiêu chí (điều kiện) hợp đồng có hiệu lực mà pháp luật địi hỏi sẽ khơng
bảo giờ thỏa mãn quy định của khoản 1 Điều 125 BLDS 2005, và không thể là xem
điều kiện của hợp đồng. Nói cách khác, việc sự kiện là điều kiện hợp đồng chỉ có
thể xảy ra sau khi quan hệ hợp đồng thỏa mãn các tiêu chí hợp đồng có hiệu lực mà
pháp luật quy định phải là yêu cầu bắt buộc.
Thứ tư, điều kiện là sự kiện có tính ngẫu nhiên hoặc khơng chắc chắn
Theo quy định tại Điều 125 BLDS 2005, khả năng hiện thực của những sự
kiện là điều kiện chỉ mang tính “có thể” hoặc “ngẫu nhiên” mà các bên tham gia
giao kết khơng thể biết được chính xác thời điểm xảy ra của nó. Nói cách khác, sự
kiện là điều kiện của hợp đồng có điều kiện có thể khơng xảy ra, và nếu có xảy ra
thì thời điểm xảy ra cũng không thể biết trước. Nếu sự kiện chắc chắn xảy ra song
các bên lại không thể xác định được thời điểm cụ thể thì nó vẫn thỏa tính chất ngẫu
nhiên của điều kiện. Ví dụ: sự kiện chết của bên tặng cho trong hợp đồng tặng cho
có điều kiện hoặc sự kiện chết của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ là những sự kiện chắc chắn xảy ra trong tương lai nhưng chưa xác định
được thời điểm xảy ra lúc nào, trừ trường hợp chết của người bị bệnh tật, tai nạn đã
được cá nhân, tổ chức có chun mơn y khoa, pháp lý đã dự đoán, kết luận.
Nếu sự kiện là điều kiện mà sự xảy ra của nó là chắc chắn tại một thời điểm

xác định thì hợp đồng đó khơng cịn được coi là hợp đồng có điều kiện nữa. Trong
trường hợp đó, sự kiện được chọn làm điều kiện khơng phải là điều kiện đúng


14

nghĩa, mà chỉ là mốc tính thời gian hoặc là thời điểm phát sinh hay chấm dứt hiệu
lực của hợp đồng. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định về vấn đề này, nhưng đoạn
2 Điều 131 BLDS Nhật Bản có quy định rõ: “Nếu điều kiện khơng xảy ra đã trở nên
chắc chắn ở thời điểm xác lập hành vi pháp lý thì hành vi này bị coi là vô hiệu nếu
kèm theo điều kiện khẳng định, và bị coi là khơng có điều kiện nếu kèm theo điều
kiện phủ định”8.
Thứ năm, nội dung của sự kiện mà các bên thỏa thuận là điều kiện xác lập
hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng không được vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc
trái đạo đức xã hội.
Theo quy định tại Điều 389 BLDS 2005 thì việc giao kết hợp đồng không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Do sự kiện là điều kiện của hợp đồng thực chất
là một phần nội dung của hợp đồng, được thể hiện dưới dạng điều khoản của hợp
đồng, cho nên nó cũng phải được xác lập phù hợp với yêu cầu của pháp luật như đối
với hợp đồng. Xuất phát từ nguyên tắc này, các giao dịch có dạng điều kiện như
việc từ chối những hậu quả pháp lý do luật định, xâm phạm tới quyền con người,
quyền tự do dân sự… đều bị coi là vơ hiệu. Nói cách khác, điều kiện bị coi là trái
pháp luật khi được đưa ra nhằm các mục đích hay thực hiện những yêu cầu vi phạm
điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Ví dụ: hợp đồng tặng cho nhà với điều
kiện giết người, hoặc với mục đích hối lộ để bên cho nhận được lợi ích trái pháp
luật trong vụ việc liên quan tới người này, hoặc tặng cho nhà với điều kiện từ bỏ
hôn nhân, nhận hay không nhận con nuôi, nhận hay từ bỏ cha, mẹ, con… là những
hợp đồng có điều kiện trái pháp luật, đạo đức xã hội. Khi điều kiện vi phạm điều
cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì điều khoản quy định điều kiện đó bị vơ
hiệu.

Ở đây cần phân biệt tính chất trái pháp luật, đạo đức xã hội của điều kiện với
tính chất trái pháp luật, đạo đức xã hội của quá trình xảy ra sự kiện, điều kiện. Tác
giả đồng ý với quan điểm cho rằng, chỉ cần điều kiện của hợp đồng là “hợp pháp”,
chứ không bắt buộc sự kiện được chọn luôn phải là sự kiện hợp pháp, bởi lẽ bản
thân sự kiện chỉ là những gì xảy ra trên thực tế khách quan, không do các bên tạo
ra9. Khi sự kiện đó xảy ra thì việc đánh giá tính chất hợp pháp hay khơng hợp pháp
của sự kiện đó chỉ cần thiết khi giải quyết hậu quả của nó, chứ tính chất hợp pháp
hay khơng hợp pháp của sự kiện không là căn cứ phát sinh hay chấm dứt hợp đồng
8
9

Lê Minh Hùng (2012), Tlđd (3), tr.61.
Phạm Công Lạc (1998), Tlđd, (4), tr 29.


15

có điều kiện, trừ trường hợp sự kiện đó liên quan tới việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
các bên trong hợp đồng. Ví dụ: A tặng cho B căn nhà sau khi A chết. Sự kiện A chết
có thể là do chết tự nhiên, do tai nạn, hay do bị người khác giết chết một cách trái
pháp luật. Khi sự kiện đó xảy ra, thì hợp đồng có hiệu lực, khơng phân biệt cái chết
do bình thường hay do hành vi trái pháp luật gây ra. Chỉ khi người giết chết A chính
là B (hoặc do B dàn dựng) thì mới có thể xem là căn cứ để hủy hợp đồng, cịn các
trường hợp chết khác khơng ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, pháp
luật Việt Nam khơng có quy định cụ thể về vấn đề này, mà áp dụng theo nguyên tắc
chung của nội dung giao dịch dân sự.
Thứ sáu, điều kiện làm phát sinh hiệu lực hay hủy bỏ và hệ quả pháp lý của
nó phải được các bên tiên liệu trong hợp đồng và điều kiện trong hợp đồng có điều
kiện để thực hiện hợp đồng cịn có thể do pháp luật quy định.
Như đã phân tích, trong quan hệ hợp đồng, các bên vẫn có thể thỏa thuận với

nhau nhằm ấn định lại về thời điểm hợp đồng phát sinh hoặc chấm dứt hiệu lực hay
được thực hiện bằng cách đưa thêm các điều kiện khác làm phát sinh hay chấm dứt
hiệu lực của hợp đồng. Khi đó, các điều kiện này phải được thể hiện minh bạch, rõ
ràng trong hợp đồng dưới dạng những điều khoản của hợp đồng.
Như vậy, việc hủy bỏ một hợp đồng đã được các bên giao kết và đã có hiệu
lực có thể theo sự thỏa thuận của các bên hoặc có thể theo ý chí của một bên mà ý
chí này đã được tiên liệu trước, ghi nhận thành một điều khoản trong hợp đồng. Bên
cạnh đó, việc hủy bỏ hợp đồng cũng có thể xảy ra khi pháp luật có quy định (được
pháp luật tiên định). Ví dụ: khoản 1 Điều 425 BLDS 2005 quy định: “Một bên có
quyền hủy bỏ hợp đồng và khơng phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp
đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Tuy nhiên, theo cách quy định tại khoản 6 Điều 406 BLDS 2005 thì điều kiện của
hợp đồng (có thể do các bên thỏa thuận có thể là do pháp luật quy định) chỉ gắn với
việc thực hiện hợp đồng, còn nếu sự kiện đó dẫn đến việc phát sinh hiệu lực hay
hủy bỏ hiệu lực hợp đồng chỉ có thể do hai bên thỏa thuận. Với ý nghĩa đó, điều
kiện về xác lập hiệu lực hay hủy bỏ hợp đồng nếu do pháp luật quy định sẽ không
được coi là điều kiện theo đúng nghĩa trong hợp đồng có điều kiện (mà chỉ có thể
do các bên thỏa thuận).
Mặt khác, hệ quả pháp lý được phát sinh từ sự xuất hiện của điều kiện cũng
ln phải được dự đốn trong hợp đồng hoặc được pháp luật quy định tương ứng.
Hệ quả pháp lý đó của hợp đồng thường là việc xác định khi sự kiện xảy ra hoặc


16

khơng xảy ra, thì hợp đồng phát sinh hiệu lực hay hợp đồng bị hủy bỏ hay được
thực hiện. Ví dụ: trong Điều 425 BLDS 2005 nói trên, nhà làm luật cũng dự liệu rõ
ràng hệ quả pháp lý của điều kiện, đó là việc “một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng”.
Như vậy, khi điều kiện của hợp đồng và hệ quả pháp lý của nó khơng được tiên liệu
trong hợp đồng thì hợp đồng sẽ khơng phải là hợp đồng có điều kiện và do vậy hợp

đồng sẽ phát sinh hay chấm dứt theo quy định chung của pháp luật và không bị chi
phối bởi bất kỳ điều kiện nào khác.
1.1.3. Khái niệm hợp đồng dân sự có điều kiện
Theo quy định tại Điều 405 BLDS 2005, hợp đồng được giao kết hợp pháp có
hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác. Như vậy, pháp luật về dân sự cho phép các bên thỏa thuận về các sự
kiện, điều kiện khác làm phát sinh hoặc hủy bỏ hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng có
thời điểm phát sinh hay hủy bỏ hiệu lực phụ thuộc vào các điều kiện khác như vậy
được gọi là hợp đồng có điều kiện.
Xét về bản chất, hợp đồng có điều kiện nhằm ấn định lại thời điểm phát sinh
hiệu lực hay thời điểm hủy bỏ hiệu lực của hợp đồng (đã được giao kết) hay việc
thực hiện hợp đồng gắn với một sự kiện nào đó mà các bên mong muốn. Sự xuất
hiện hay khơng xuất hiện sự kiện đó sẽ có ý nghĩa nhất định đối với lợi ích của chủ
thể hợp đồng, trong đó chủ thể chưa chắc chắn, cịn lưỡng lự về giao dịch. Ví dụ:
nếu đường đi làm hàng ngày tiếp tục bị tắc sẽ bán ô tô hay nếu xuất cảnh sẽ bán và
bàn giao nhà. Chính vì vậy, xuất phát từ tinh thần của khoản 1 Điều 125 BLDS
2005 về giao dịch có điều kiện, có quan điểm cho rằng hợp đồng có điều kiện là:
“Hợp đồng với các sự kiện là điều kiện phát sinh là hợp đồng đã được giao kết
nhưng còn “chờ” điều kiện mới làm phát sinh hiệu lực, mới làm phát sinh hậu quả
pháp lý” hoặc là “những hợp đồng trong đó các bên thỏa thuận về một hoặc nhiều
sự kiện là điều kiện mà chỉ khi điều kiện đó xảy ra hoặc khơng xảy ra thì hợp đồng
mới được coi là phát sinh hay chấm dứt hiệu lực”10.
Tuy nhiên, xuất phát từ quy định tại khoản 6 Điều 406 về hợp đồng có điều
kiện nên vẫn có quan điểm cho rằng: điều kiện trong hợp đồng có điều kiện không
phải là điều kiện phát sinh hay chấm dứt hiệu lực hợp đồng, mà điều kiện ở đây là
sự kiện nhất định mà việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt của nó làm cho hợp

10

Phạm Cơng Lạc (1998), Tlđd (4), tr.29.



17

đồng được thực hiện11. Khơng có điều luật nào trong BLDS 2005 minh thị, quy định
về hợp đồng có điều kiện phát sinh hay hợp đồng có điều kiện chấm dứt mà chỉ có
quy định hợp đồng có điều kiện thực hiện. Điều này cho thấy có sự khác biệt cơ bản
giữa hợp đồng có điều kiện với giao dịch dân sự có điều kiện được quy định tại
khoản 1 Điều 125 BLDS 2005 (theo khoản 1 Điều 125 BLDS 2005, giao dịch dân
sự có điều kiện là giao dịch dân sự phát sinh, hủy bỏ hiệu lực lệ thuộc vào sự xuất
hiện của điều kiện).
Có thể thấy rằng, xét về mặt hiệu lực pháp luật và mối liên hệ giữa các chế
định trong BLDS 2005 thì quy định về hợp đồng có điều kiện là quy định riêng, cịn
quy định về giao dịch dân sự có điều kiện là quy định chung. Theo đó, có thể các
nhà làm luật đã không thừa nhận điều kiện phát sinh hay hủy bỏ hiệu lực hợp đồng
mà chỉ thừa nhận điều kiện thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, như vậy lại không hợp
lý, bởi lẽ, hợp đồng là một dạng của giao dịch dân sự và nếu quy định về điều kiện
được gắn với vấn đề hiệu lực chỉ áp dụng đối với hành vi pháp lý đơn phương (mà
không được áp dụng đối với hợp đồng) thì có lẽ nhà làm luật khơng đề cập đến khái
niệm giao dịch có điều kiện chung chung trong điều luật như vậy.
Về mặt nguyên lý, khi cùng điều chỉnh liên quan đến một vấn đề, những quy
định riêng có thể đưa thêm những nội dung đặc thù, nhưng vẫn phải trên cơ sở
thống nhất với nguyên tắc đã được ghi nhận trong quy định chung. Từ đó, có quan
điểm cho rằng việc quy định khác biệt như khoản 6 Điều 406 BLDS 2005 là chưa
nhất quán với quy định chung về giao dịch dân sự có điều kiện được quy định tại
khoản 1 Điều 125 BLDS 2005. Tuy nhiên, tác giả cho rằng các điều khoản này cần
được hiểu theo hướng: đối với hành vi pháp lý đơn phương thì điều kiện chỉ được
gắn với sự kiện làm phát sinh hay hủy bỏ hiệu lực, cịn đối với hợp đồng thì vừa có
thể là sự kiện làm phát sinh hay hủy bỏ vừa có thể là sự kiện để thực hiện hợp đồng
(loại điều kiện này, giao dịch là hành vi pháp lý đơn phương khơng có).

Như vậy, căn cứ vào những qui định của pháp luật về giao dịch dân sự có điều
kiện (khoản 1 Điều 125 BLDS 2005), về thực hiện nghĩa vụ dân sự có điều kiện
(Điều 294 BLDS 2005), về hợp đồng có điều kiện (khoản 6 Điều 406 BLDS 2005)
và qua những phân tích nêu trên, tác giả cho rằng, xét về mặt lý luận, khái niệm hợp
đồng dân sự có điều kiện cần được hiểu như sau: “Hợp đồng dân sự có điều kiện là
hợp đồng mà việc phát sinh hiệu lực hoặc việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân
11

Lê Minh Hùng (2012), Tlđd (3), tr.64.


18

sự của các bên hoặc việc hủy bỏ hợp đồng phụ thuộc vào một sự kiện khách quan
nhất định do các bên thỏa thuận không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội và là
những sự kiện phổ biến, biện chứng khơng mang tính chất hoang đường được xác
định trong một thời hạn, một không gian nhất định và trong một phạm vi cụ thể và
lấy đó làm điều kiện để xác định việc phát sinh hoặc hủy bỏ quyền và nghĩa vụ của
các bên khi sự kiện do các bên thỏa thuận phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt”.
1.1.4.

Các loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện

1.1.4.1. Điều kiện làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng có điều kiện.
Điều kiện làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng có điều kiện là loại điều kiện
mà chỉ khi có sự xuất hiện hay khơng xuất hiện của sự kiện là điều kiện của hợp
đồng thì hợp đồng đã được giao kết, xác lập mới phát sinh hiệu lực. Nói cách khác,
tại thời điểm hợp đồng được giao kết, xác lập thì hợp đồng vẫn chưa phát sinh hiệu
lực.
Xét về mặt bản chất, hợp đồng có điều kiện phát sinh là hợp đồng mà thời

điểm có hiệu lực của nó là do các bên thỏa thuận (thơng qua việc thỏa thuận về điều
kiện làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng). Thời điểm này khác với thời điểm giao
kết hợp đồng và cũng khác với thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do luật định,
theo quy định chung tại Điều 405 BLDS 2005.
Thời điểm xảy ra sự kiện làm phát sinh hiệu lực hợp đồng phải sau thời điểm
hợp đồng có hiệu lực theo cách thơng thường nếu khơng đặt điều kiện. Thời điểm
này cịn tùy thuộc vào loại hợp đồng ưng thuận hay hợp đồng thực tế. Chẳng hạn,
đối với hợp đồng ưng thuận thì thời điểm xảy ra sự kiện làm phát sinh hiệu lực hợp
đồng phải sau thời điểm các bên thỏa thuận xong nội dung cần thiết (chủ yếu) của
hợp đồng (cho dù các bên đã bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng với
nhau hay chưa). Còn đối với hợp đồng thực tế thì sự kiện làm phát sinh hiệu lực hợp
đồng phải xảy ra sau thời điểm các bên thực tế đã chuyển giao đối tượng hợp đồng.
Đặc biệt, đối với những loại hợp đồng mang tính trọng thức phải tuân theo thể thức
công chứng, chứng thực, cho phép, đăng ký thì sự kiện là điều kiện của hợp đồng
phải xảy ra sau khi hợp đồng đó đã được cho phép, đăng ký thì mới thỏa mãn dấu
hiệu được quy định về điều kiện trong giao dịch dân sự (vì nếu sự kiện là điều kiện
xảy ra trước thời điểm hợp đồng được đăng ký thì vẫn chưa thể làm phát sinh hiệu
lực của hợp đồng như đúng cách quy định của điều luật về điều kiện của giao dịch).
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp sự kiện là điều kiện khơng xảy ra thì hợp
đồng đã được cơng chứng và đăng ký sẽ được các cơ quan có thẩm quyền xử lý như


19

thế nào. Đây hiện là vấn đề còn đang bỏ ngỏ và có nhiều tranh cãi. Ngược lại, nếu
cho rằng vẫn có thể chấp nhận loại điều kiện mà khi nó xảy ra thì mới cho phép hợp
đồng được đăng ký thì mặc dầu hợp lý, song lại trái với nguyên tắc pháp lý đã được
quy định của điều kiện (đó là khi điều kiện thỏa mãn thì hợp đồng có hiệu lực).
Cần phân biệt giữa hợp đồng có điều kiện phát sinh hiệu lực với hợp đồng có
điều khoản quy định thời điểm phát sinh hiệu lực. Hợp đồng có điều khoản quy định

thời điểm phát sinh hiệu lực là hợp đồng mà hiệu lực của nó sẽ phát sinh vào một
thời điểm xác định, thể hiện bằng một mốc thời gian xác định hoặc một mốc sự kiện
cụ thể, chắc chắn. Ví dụ: các bên thỏa thuận trong hợp đồng tặng cho nhà ở là hợp
đồng sẽ có hiệu lực vào thời điểm bên cho bàn giao nhà cho bên nhận, hoặc hợp
đồng có hiệu lực vào ngày, tháng, năm xác định. Như vậy, đối với thỏa thuận này
thì thời điểm có hiệu lực ln được xác định và chắc chắn sẽ phát sinh hiệu lực vào
thời điểm đó. Trong khi đó, hợp đồng có điều kiện phát sinh hiệu lực là hợp đồng
mà hiệu lực của nó có thể phát sinh khi xuất hiện sự kiện mang tính chất ngẫu
nhiên, khơng chắc chắn và cũng khơng xác định được chính xác thời điểm nào thì
sự kiện đó sẽ xảy ra. Hợp đồng có điều kiện phát sinh hiệu lực có thể có hiệu lực
nếu điều kiện xảy ra, hoặc ngược lại sẽ khơng có hiệu lực nếu điều kiện không xảy
ra12.
1.1.4.2. Điều kiện làm hủy bỏ hiệu lực của hợp đồng có điều kiện
Hợp đồng có điều kiện hủy bỏ là hợp đồng đã được giao kết và phát sinh hiệu
lực, nhưng khi có sự xuất hiện hoặc không xuất hiện của sự kiện là điều kiện hủy bỏ
của hợp đồng thì hợp đồng sẽ bị hủy bỏ hiệu lực. Điều này có nghĩa là: khi xuất hiện
sự kiện là điều kiện hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng khơng cịn giá trị pháp lý thực hiện
với hậu quả pháp lý là hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên
phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận (nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì
phải trả bằng tiền).
Cần phân biệt giữa hủy bỏ hợp đồng với chấm dứt hợp đồng. Chấm dứt hợp
đồng là trường hợp mặc dù các nghĩa vụ của hợp đồng chưa được thực hiện xong,
nhưng do nhu cầu khách quan thay đổi thì các bên vẫn có thể thỏa thuận lại với
nhau để chấm dứt hợp đồng ngay mà không cần phải chờ đến khi thực hiện xong.
Khi đó, theo thỏa thuận, các bên được giải thốt khơng phải thực hiện tiếp các nghĩa
vụ cịn lại. Hợp đồng đến đây chấm dứt (trừ trường hợp pháp luật có quy định
12

Lê Minh Hùng (2012), tlđd (3), tr.65-66.



20

khác). Trong khi đó, theo quy định tại Điều 424, Điều 425 và Điều 426 BLDS 2005
thì hủy bỏ hợp đồng là một trong số những trường hợp mà hợp đồng được xem là
chấm dứt. Tuy nhiên, hủy bỏ hợp đồng không đồng nghĩa với chấm dứt hợp đồng
bởi sự khác nhau về hậu quả pháp lý. Đây chính là yếu tố pháp lý để phân biệt giữa
hủy bỏ và chấm dứt hợp đồng. Cụ thể, hợp đồng bị hủy bỏ thì khơng có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, khơng có giá trị thi hành. Lúc đó, giữa các bên coi như chưa tồn
tại quan hệ hợp đồng và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận13. Còn khi
hợp đồng chấm dứt (chẳng hạn do đơn phương chấm dứt hay do thỏa thuận chấm
dứt) thì từ thời điểm đó, các bên ngừng việc thực hiện hợp đồng, không phải tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ và bên đã thực hiện nghĩa vụ trước đó có quyền yêu cầu bên
kia thanh tốn14. Lúc này, hợp đồng vẫn có giá trị hiệu lực từ thời điểm đình
chỉ/chấm dứt trở về trước. Những gì đã thực hiện trong khoảng thời gian này vẫn có
giá trị hiệu lực.
Xuất phát từ sự khác biệt nêu trên, sự kiện là điều kiện hủy bỏ hợp đồng sẽ
không giống với thời hạn hợp đồng hay những sự kiện để chấm dứt hợp đồng. Bởi vì,
thời hạn hợp đồng ln được xác định cụ thể bằng một mốc thời gian xác định, còn
sự kiện là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng là những sự kiện có thể xảy ra hoặc khơng
xảy ra (khơng chắc chắn), đồng thời, hậu quả pháp lý của nó cũng hồn tồn khác
như phân tích nêu trên. Tuy vậy, khi xuất hiện điều kiện làm chấm dứt hay hủy bỏ
hợp đồng, các bên vẫn phải giải quyết hậu quả pháp lý tương ứng cho từng trường
hợp chấm dứt hợp đồng theo quy định chung (do hủy bỏ hợp đồng hay do đình chỉ
hợp đồng). Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng và giao dịch có điều kiện khơng hề gắn
điều kiện với việc chấm dứt hợp đồng mà chỉ quy định đối với việc hủy bỏ hiệu lực
của hợp đồng.
Ngoài ra cần lưu ý rằng, hợp đồng có thể bị hủy bỏ hay khơng là cịn tùy thuộc
vào bản chất pháp lý của từng loại hợp đồng cụ thể. Chẳng hạn, đối với hợp đồng
ủy quyền sẽ khơng thể có việc các bên thỏa thuận hay đơn phương hủy bỏ hợp đồng

đã được giao kết hợp pháp, mà chỉ có thể có việc thỏa thuận hay đơn phương chấm
dứt việc thực hiện hợp đồng. Bởi lẽ, khi bên được ủy quyền thực hiện công việc
nhân danh bên ủy quyền và trong phạm vi cơng việc được ủy quyền thì bên ủy
quyền phải liên đới chịu trách nhiệm về những hành vi, cam kết mà bên được ủy
quyền đã thực hiện cơng việc nhân danh mình với bên thứ ba. Nếu việc ủy quyền bị
13
14

Khoản 3 Điều 425 BLDS 2005
Khoản 3 Điều 426 BLDS 2005.


×