Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Trợ giúp pháp lý thực trạng và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 75 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH

TRẦN THỊ THU HƢƠNG
MSSV: 3050174

TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật
Niên khoá: 2005 – 2009
Ngƣời hƣớng dẫn: Thạc sĩ ĐINH THỊ CẨM HÀ

TP.HỒ CHÍ MINH – Năm 2009


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

MỤC LỤC
Trang

Lời nói đầu ...................................................................................................... ... 4
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ... ...
1.1. Khái niệm về trợ giúp pháp lý ...................................................... ... 7
1.1.1. Khái niệm ............................................................................. ... 7
1.1.2. Các đặc điểm của trợ giúp pháp lý ....................................... ... 10

1.2. Lịch sử hình thành trợ giúp pháp lý ở Việt Nam ....................... ... 18
1.3. Ý nghĩa của trợ giúp pháp lý ......................................................... ... 24


CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT ........................................................... ... 32
2.1. Các kết quả đạt đƣợc của trợ giúp pháp lý thời gian qua ........ ... 32
2.2. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động trợ giúp pháp lý ............ ... 42
2.2.1. Những vấn đề về xây dựng hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ trợ
giúp pháp lý ......................................................................... ... 42
2.2.2. Những vấn đề về hiệu quả trợ giúp pháp lý ......................... ... 46
2.2.3. Những vấn đề về sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, tổ chức
trong công tác trợ giúp pháp lý ........................................... ... 48
2.2.4. Những vấn đề về cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động ....... ... 52
2.2.5. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện trợ giúp pháp lý ........ ... 54
2.2.6. Những vấn đề về hiệu quả hợp tác quốc tế .......................... ... 56

CHƢƠNG III: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ THỜI GIAN TỚI (GIAI ĐOẠN 2010 –
2020)

............................................................................................. ... 57

3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện hoạt động trợ giúp pháp lý ......... ... 57
3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về trợ giúp pháp lý ............ ... 58

Trang 2


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

3.3. Định hƣớng nhằm hoàn thiện hoạt động trợ giúp pháp lý ...... trong

giai đoạn hiện nay .......................................................................... ... 60
3.4. Một số kiến nghị cụ thể để hoàn thiện hoạt động trợ giúp ...... pháp
lý trong thời gian tới ...................................................................... ... 62
3.4.1. Những giải pháp hoàn thiện tổ chức người tiến hành trợ giúp pháp
lý .......................................................................................... ... 62
3.4.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng vụ việc trợ giúp pháp
lý ......................................................................................... ... 67
3.4.3. Những giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa trợ giúp pháp lý và
các cơ quan, tổ chức khác ................................................... ... 71
3.4.4. Những giải pháp tăng nguồn tài chính cho hoạt động trợ giúp pháp
lý ......................................................................................... ... 72

Kết luận ............................................................................................................ ... 74
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................. ... 75
Phụ lục .............................................................................................................. ... 78

Trang 3


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tổ chức trợ giúp pháp lý chính thức ra đời cách đây 12 năm trên cơ sở
Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 với mục đích hoạt động là giúp đỡ cho người
nghèo và đối tượng chính sách tiếp cận pháp luật và cơng lý cũng như thực hiện xóa
đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa. Trong khoảng thời gian hoạt động không dài cơng
tác trợ giúp pháp lý vẫn cịn là lĩnh vực tương đối mới, là nhiệm vụ mới Chính phủ đã

giao cho Ngành Tư pháp.
Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 9 thơng qua có
hiệu lực từ ngày 01/01/2007, sau hai năm thực hiện còn nhiều điều mới mẻ. Đặc biệt
các văn bản triển khai thi hành và hướng dẫn thi hành Luật đang đặt ra yêu cầu nghiên
cứu và tìm hiểu để việc thực hiện công tác trợ giúp pháp lý được tiến hành nhanh
chóng và đúng quy định pháp luật. Cơng tác trợ giúp pháp lý là một dịch vụ công thiết
thực và cần được phát triển hơn nữa trong thời gian tới. Việc nghiên cứu, tìm hiểu
nhằm hồn thiện cơng tác này là rất cần thiết để bảo đảm công bằng xã hội cũng như
phát triển kinh tế.
Hoạt động của trợ giúp pháp lý đã có những thành tích được ghi nhận trong
công tác bảo vệ quyền lợi cho người được trợ giúp pháp lý và phổ biến pháp luật tuy
nhiên trong việc tổ chức và tiến hành trợ giúp pháp lý hiện nay còn rất nhiều vấn đề
bất cập. Mặc dù, Trợ giúp pháp lý đã hoạt động hơn một thập kỷ, tuy nhiên cơng tác
này cịn xa lạ với rất nhiều người, ngay cả với người được trợ giúp pháp lý và những
sinh viên luật, những luật sư, những công chức, cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp
pháp lý Nhà nước. Những hạn chế đó đã và đang làm giảm hiệu quả hoạt động của
một mơ hình thiết thực và đáng làm.
Từ những lý do trên đây, tác giả đã chọn đề tài: “TRỢ GIÚP PHÁP LÝ –
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ” để nghiên cứu trong khoá luận cuối khố.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
 Mục đích của luận văn

Trang 4


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương


Hệ thống pháp luật ngày càng nhiều và mức độ phức tạp ngày càng tăng, ngay
cả người được đào tạo về pháp luật đôi khi cũng không hiểu hết các quy định của pháp
luật và khi có vướng mắc pháp luật hay phải đứng trước tồ án vẫn gặp khó khăn trong
bảo vệ thành cơng quyền lợi của mình. Do đó, một cơng dân khơng có kiến thức pháp
luật thì sẽ gặp khó khăn rất lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Những người được trợ giúp pháp lý là những đối tượng gặp khó khăn lớn nhất trong
việc tiếp cận thông tin pháp luật bởi điều kiện hoàn cảnh ở vùng sâu, vùng xa, hạn chế
về mặt kinh tế dẫn đến họ thực sự cần được trợ giúp pháp lý. Vì vậy mục đích của đề
tài này là làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về trợ giúp pháp lý để nêu
lên những hạn chế góp phần hồn thiện tổ chức trợ giúp pháp lý bảo đảm sự tiếp cận
công lý bình đẳng cho người nghèo và đối tượng chính sách, giúp họ thực hiện các
quyền của mình theo pháp luật.
 Nhiệm vụ của luận văn
Khoá luận “Trợ giúp pháp lý – thực trạng và kiến nghị” có nhiệm vụ sau:
-

Trình bày các vấn để lý luận về trợ giúp pháp lý, làm rõ lịch sử hình thành và
phát triển;

-

Thơng qua các số liệu, các bài viết khái quát kết quả đạt được của hoạt động trợ
giúp pháp lý trong suốt 12 năm hoạt động;

-

Chỉ ra các hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới;

-


Đưa ra những biện pháp giải quyết triệt để những hạn chế hiện tại của trợ giúp
pháp lý góp phần đưa cơng tác này được hồn thiện hơn.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận
 Đối tƣợng nghiên cứu
Trợ giúp pháp lý là một phạm trù rất rộng, trong phạm vi khoá luận này tác giả
giới hạn trình bày làm sáng tỏ về ba vấn đề: lý luận về trợ giúp pháp luận, thực trạng
về trợ giúp pháp lý và phương hướng hoàn thiện cơng tác trợ giúp pháp lý trong phạm
vi tồn quốc thời gian tới (giai đoạn 2010 - 2020).
 Phạm vi nghiên cứu

Trang 5


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

Nhằm giải quyết những nhiệm vụ của đề tài, phạm vi nghiên cứu của khoá luận
tập trung vào nghiên cứu: những quy định của pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý;
những báo cáo kết quả công tác trợ giúp pháp lý của Cục Trợ giúp pháp lý trong cả
nước và của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tại một số tỉnh, thành phố; sách,
báo, tạp chí đề cập đến vấn đề trợ giúp pháp lý liên quan đến nội dung

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, sử dụng kết hợp các phương pháp so sánh, phân
tích, tổng hợp và quy nạp khi nghiên cứu các tài liệu liên quan đến trợ giúp pháp lý.

5. Ý nghĩa thực tiễn của khoá luận

Khố luận trình bày rõ ràng về lý luận của trợ giúp pháp lý, thơng qua đó làm rõ
hai vấn đề: Thế nào là trợ giúp pháp lý và lịch sử của công tác trợ giúp pháp lý ở Việt
Nam. Hiện nay, mặc dù có rất nhiều bài viết trên sách, báo, tạp chí về trợ giúp pháp lý
trong tồn quốc, nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách đồng bộ, toàn
diện về lý luận của trợ giúp pháp lý. Vì vậy, khố luận là cơng trình đầu tiên tổng hợp
về đặc điểm và ý nghĩa của trợ giúp pháp lý. Thơng qua những phân tích về thực trạng
và những kiến nghị đề xuất giải quyết những hạn chế của trợ giúp pháp lý nước ta sẽ
đóng góp vào cơng tác hồn thiện tổ chức này cả về tổ chức và chất lượng vụ việc
trong thời gian gần đây.

6. Kết cấu của khố luận
Nội dung chính của luận văn bao gồm: Lời nói đầu, ba chương và Kết luận:
-

Chương I: Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý.

-

Chương II: Thực trạng về hoạt động trợ giúp pháp lý và những vấn đề đặt ra.

-

Chương III: Phương hướng hoàn thiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời
gian tới (giai đoạn 2010 – 2020).

Trang 6


Luận văn Cử nhân Luật học


Trần Thị Thu Hương

CHƢƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1.1.

Khái niệm về trợ giúp pháp lý.
1.1.1. Khái niệm.

Nghiên cứu lịch sử của cơng tác trợ giúp pháp lý tại Việt Nam có thể khẳng
định dịch vụ pháp luật miễn phí mang bản chất trợ giúp pháp lý đã hình thành và phát
triển cùng với hình thức “tư pháp bổ trợ”, gắn liền với yêu cầu bảo đảm quyền bào
chữa của “người bị can, bị cáo”. Năm 1997, cùng thời điểm trợ giúp pháp lý Nhà nước
thành lập, tại Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, vấn đề
bổ trợ tư pháp được đề cập trong Văn kiện hội nghị về cải cách tư pháp có nêu rõ:
“Củng cố và tăng cường các tổ chức bổ trợ tư pháp: Đổi mới quản lý nhà nước đối với
các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp… Tổ chức hình thức tư vấn
pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được
hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí…”[2-tr.58]. Như vậy, hoạt động giúp đỡ về
mặt pháp lý miễn phí có phần tương đồng với Bổ trợ tư pháp đó là gắn liền với hoạt
động của Luật sư, tư vấn pháp luật miễn phí, và cùng thuộc sự quản lý của Bộ Tư
pháp. Điều này dễ tạo ra sự hiểu nhầm Trợ giúp pháp lý là một hoạt động của Bổ trợ tư
pháp dù đây là hai lĩnh vực hoạt động độc lập, hai nhiệm vụ khác nhau của ngành Tư
pháp. Việc làm sáng tỏ về từ ngữ và chức năng sẽ chứng minh đây là hai hoạt động
hồn tồn khác biệt, đồng thời góp phần làm rõ khái niệm Trợ giúp pháp lý.
Trước hết về mặt ngữ nghĩa, theo Đại từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “Trợ giúp”
có nghĩa là “Giúp đỡ” bao gồm “Giúp” nghĩa là “góp sức làm cho ai việc gì hoặc đem
cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến” và “đỡ đần nhằm giảm bớt khó khăn”.
Cịn khái niệm “Pháp lý” được hiểu là “căn cứ, cơ sở lý luận của pháp luật”. Như vậy
“Trợ giúp pháp lý” có thể hiểu là giúp đỡ về mặt căn cứ pháp luật cho những

ngƣời cần nhằm giảm bớt sự khó khăn trong lúc cần pháp luật. Thuật ngữ “Tư
pháp” có nghĩa là “bảo vệ luật”, thuật ngữ “bổ trợ”có nghĩa là “giúp thêm vào, phụ

Trang 7


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

thêm vào cho đủ hơn, tốt hơn”. Từ đó, ta có thể nêu khái niệm “bổ trợ tư pháp” là giúp
thêm vào để bảo vệ luật tốt hơn [31].
Về mặt chức năng, các tổ chức Bổ trợ tư pháp là các tổ chức thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ giúp cho các cơ quan tư pháp bảo vệ luật tốt hơn, nghĩa là giúp cho cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, toà án xét xử một cách khách quan, công minh, đúng luật,
bảo vệ luật và cũng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, của tổ chức.
Điều này được quy định cụ thể trong Quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ Bổ trợ tư
pháp năm 2005 và Quyết định số 306/QĐ-BTP ngày 05/02/2009 quy định quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Bổ trợ tư pháp: “Vụ Bổ trợ
tư pháp (sau đây gọi là Vụ) là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp
Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực bổ trợ tư pháp, bao gồm: luật sư, tư
vấn pháp luật, giám định tư pháp, công chứng, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương
mại” [14]. Trợ giúp pháp lý cũng góp phần giúp các cơ quan tư pháp hoạt động tốt hơn
tuy nhiên khơng chỉ dừng ở đó, hoạt động trợ giúp pháp lý cịn có phạm vi trợ giúp với
những hình thức đa dạng nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo
đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” lần đầu tiên được sử dụng trong quyết định thí
điểm thành lập Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà nước tại 2 tỉnh: Trung tâm Trợ
giúp pháp lý của Nhà nước tại Cần Thơ ngày 13/7/1996, Trung tâm Trợ giúp pháp lý

của Nhà nước tỉnh Hà Tây (Hà Tây nay được sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội 01/8/2008)
được thành lập ngày 28/01/1997. Từ những kết quả đạt được của mơ hình thí điểm đã
tạo tiền đề cho sự ra đời chính thức của tổ chức trợ giúp pháp lý tại Việt Nam. Ngày
06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ
chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Trong quyết định
734/TTg không đưa ra định nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý cũng như trong các văn
bản hướng dẫn quyết định, các quyết định về việc thành lập Cục Trợ giúp pháp lý, các
Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương…

Trang 8


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

Trợ giúp pháp lý tại Việt Nam chính thức được làm rõ nghĩa tại Điều 3 Luật
Trợ giúp pháp lý năm 2006: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn
phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được
trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp
luật, ý thức tơn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục
pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh
chấp và vi phạm pháp luật” [9-].
Nội hàm của khái niệm trợ giúp pháp lý bao gồm ba nội dung chủ yếu, đó là
dịch vụ pháp lý được cung cấp miễn phí, dành riêng cho người được trợ giúp và có
hình thức, thủ tục phù hợp quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý
được xác định là một loại hình dịch vụ pháp lý chỉ dành riêng cho những đối tượng
nhất định thuộc diện Nhà nước và xã hội phải quan tâm giúp đỡ. Xuất phát từ nền tảng
đó, dịch vụ pháp lý ở đây được thực hiện miễn phí và người được trợ giúp khơng phải
chi trả bất cứ một khoản chi phí nào kể cả lệ phí giấy tờ và các chi phí hành chính

khác. Việc cung ứng các dịch vụ pháp lý phải tuân theo các quy định chặt chẽ cả về vụ
việc, hình thức, phạm vi… trợ giúp.
So sánh với quan niệm về trợ giúp pháp lý của một số nước trên thế giới thì trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam được quy định không cụ thể rõ khái niệm ở mặt ngữ nghĩa
nhưng quy định đầy đủ cả về ba đặc trưng của hoạt động này. Khái niệm của một số
nước trên thế giới thường chỉ quy định về đặc trưng miễn phí hoặc thêm diện được
giúp đỡ như: nước Đức quan niệm "Trợ giúp pháp lý là giúp đỡ một phần hoặc tồn
bộ tài chính cho những người khơng có khả năng thanh tốn cho các chi phí về tư vấn
pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước toà án". Điều 5 Luật Trợ giúp pháp lý năm
1997 của bang Queensland (Úc) quy định "Trợ giúp pháp lý có nghĩa là cung cấp dịch
vụ pháp lý miễn phí hoặc có thu phí nhưng với mức thấp hơn so với giá trị thực tế của
dịch vụ". Theo pháp luật của Anh và xứ Wales thì “Trợ giúp pháp lý là giúp đỡ pháp
lý cho những người khơng có khả năng chi trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp
lý” [25].

1.1.2. Các đặc điểm của Trợ giúp pháp lý

Trang 9


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

 Một là, Nhà nƣớc là chủ thể có trách nhiệm cung cấp dịch vụ trợ giúp
pháp lý.
Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước và là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện bản chất Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một
nguyên tắc quan trọng bảo đảm thể hiện đúng bản chất và phát huy hiệu lực cho Nhà

nước. Trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách là chính sách
nhất quán của Đảng, được Đảng quan tâm, định hướng, tạo ra động lực cho sự hình
thành và phát triển. Từ sau Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI,
cùng với việc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, nhằm “thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh” [1-tr.129]. Từ những định hướng đó của Đảng, Nhà nước, bộ phận đứng vị trí
trung tâm của hệ thống chính trị và giữ vai trị quan trọng, cơng cụ thực hiện quyền lực
nhân dân, có trách nhiệm tổ chức, quản lý trực tiếp hoạt động trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách được xác định là trách
nhiệm của Nhà nước xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước được cấu
thành từ yếu tố tổ chức và hoạt động đều dựa trên cơ sở Hiến pháp và các đạo luật, bảo
đảm cho Hiến pháp và các đạo luật được tơn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh, giữ vị
trí cao nhất trong đời sống. Nhà nước khơng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất,
toàn diện, đồng bộ, thể hiện ý chí của nhân lao động, phù hợp với điều kiện khách
quan, mà còn phải đảm bảo cho hệ thống pháp luật đó đi vào cuộc sống, bảo đảm cho
ý chí của nhân dân trở thành hiện thực. Trong Nhà nước pháp quyền mọi cơng dân đều
được bình đẳng trước pháp luật, ở đó các quyền con người được tơn trọng và bảo đảm
thực thi. Vì vậy, khơng thể thừa nhận một nhà nước mà trong đó dân cư, đặc biệt là
tầng lớp dân cư nghèo, những người có hồn cảnh khó khăn khơng hiểu biết pháp luật,
khơng có ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, không biết bảo vệ quyền và lợi ích

Trang 10


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương


hợp pháp của mình là một nhà nước pháp quyền. Vì vậy, để đảm bảo Nhà nước là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì nhân dân phải có sự nhận thức hay sự
hiểu biết pháp luật một cách đúng đắn từ đó có tư tưởng, thái độ và tình cảm đúng đắn
đối với pháp luật để có hành vi cư xử phù hợp với pháp luật.
Chính vì thế, bên cạnh chức năng quản lí mọi mặt đời sống xã hội (còn gọi là
chức năng cai trị), Nhà nước cịn có chức năng phục vụ, cung ứng dịch vụ cơng cho
cộng đồng và cơng dân của mình. Xét về mặt bản chất, ở bất kỳ quốc gia nào trên thế
giới đều coi trọng trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người “yếu thế”, người
khơng có khả năng chi trả các chi phí cho dịch vụ pháp lý có thu phí là một loại hình
dịch vụ cơng thuộc chức năng xã hội của Nhà nước, là nhiệm vụ của Nhà nước. Đạo
luật Trợ giúp pháp lý năm 1995 của Singapore định nghĩa "Trợ giúp pháp lý là việc
giúp đỡ những người khơng có khả năng chi trả cho dịch vụ pháp lý". Nhìn dưới góc
độ mục đích của hoạt động trợ giúp pháp lý, pháp luật trợ giúp pháp lý của Úc định
nghĩa "Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ cho một người có được hồn cảnh và điều kiện
tương tự như người khác trong việc tiếp cận pháp luật, tức là tạo ra được sự công
bằng khi tiếp cận với pháp luật" [25].
Khái niệm về dịch vụ cơng ở nước ta hiện nay có thể nói là chưa thống nhất, tuy
nhiên cách hiểu về dịch vụ công của một số tác giả nghiên cứu là khơng mâu thuẫn.
Nghiên cứu về dịch vụ cơng từ góc độ chính trị là một chức năng của Nhà nước, tác
giả đồng tình với khái niệm: “Dịch vụ cơng là những hoạt động phục vụ các lợi ích
chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức do nhà nước trực
tiếp đảm nhận hay ủy quyền cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo
trật tự và công bằng xã hội” [27]. Theo đó, dịch vụ cơng gắn với quyền lực nhà nước
và vai trò của Nhà nước đối với xã hội. Nhà nước là cơ quan đại diện quyền lực công
và sử dụng quyền lực đó để quản lý xã hội và phục vụ các lợi ích chung của cộng
đồng. Nhà nước có trách nhiệm phục vụ các lợi ích chung của quốc gia và cộng đồng
dân cư không phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước, hay lợi ích của giai cấp cầm
quyền. Với tư cách đại diện quyền lực cơng, Nhà nước có nghĩa vụ hỗ trợ những người


Trang 11


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

dễ bị tổn thương trong xã hội, đặc biệt những người nghèo, nhằm mục tiêu công bằng
xã hội.
Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước tạo ra sự khác biệt giữa dịch vụ
pháp luật này với các dịch vụ có chi phí ở ba vấn đề cụ thể. Đó là:
-

Nhà nƣớc có trách nhiệm quản lý, tổ chức cung ứng, đảm bảo chất
lƣợng của hoạt động trợ giúp pháp lý;

Ngay từ khi thành lập năm 1997 theo quyết định số 734/QĐ-TTg trợ giúp pháp
lý đã được xác định là tổ chức trực thuộc Bộ máy nhà nước, Cục Trợ giúp pháp lý trực
thuộc sự quản lý của Bộ Tư pháp. Đến Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 đã chính thức
ghi nhận trợ giúp pháp lý thuộc trách nhiệm của Nhà nước: “Trợ giúp pháp lý là trách
nhiệm của Nhà nước. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực
hiện trợ giúp pháp lý; khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và Luật sư, cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý” [9-Điều
6]. Nhà nước có trách nhiệm quản lý, tổ chức, chất lượng của dịch vụ. Chất lượng của
trợ giúp pháp lý hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò
nòng cốt trong việc thực hiện và tổ chức thực hiện hoạt động này. Mọi uy tín của trợ
giúp pháp lý gắn chặt với uy tín của Nhà nước mà khơng thể chuyển được cho bất kỳ
chủ thể nào, hay nói cách khác theo ngơn ngữ kinh tế thì “thương hiệu” của dịch vụ trợ
giúp pháp lý được đảm bảo bởi uy tín của Nhà nước. Nhà nước huy động xã hội hóa

cơng tác trợ giúp pháp lý để tăng nguồn nhân lực tham gia vào cơng tác này trong đó
có Văn phịng luật sư, Cơng ty luật và các Trung tâm tư vấn pháp luật. Tuy nhiên điều
đó khơng đồng nghĩa với việc trách nhiệm được chuyển giao cho các tổ chức tham gia
trợ giúp pháp lý, dù là cá nhân hay tổ chức nào thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý thì
cuối cùng Nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm và hậu quả của việc trợ giúp pháp lý.
Như vậy, trợ giúp pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc thù, trong đó Nhà nước
ln là chủ thể gánh vác nghĩa vụ trợ giúp, cịn cơng dân là chủ thể hưởng quyền và
lợi ích từ sự trợ giúp của chủ thể Nhà nước.

Trang 12


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

- Mục tiêu cao nhất của trợ giúp pháp lý là phục vụ những lợi ích tối cần
thiết cho xã hội đó là pháp luật, nhu cầu đa dạng của công dân về bào
chữa trƣớc tòa, đại diên, tƣ vấn; bảo đảm các quyền, nghĩa vụ cho
ngƣời đƣợc trợ giúp;
Bước vào thiên niên kỷ mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn về
kinh tế - xã hội, các mối quan hệ cũng trở nên đa dạng và phức tạp, các quan hệ hơn
nhân - gia đình, dân sự, lao động, đất đai… thay đổi không ngừng. Pháp luật đã trở
thành công cụ quản lý nhà nước và xã hội quan trọng, phát triển nhanh chóng về số
lượng, phạm vi điều chỉnh. Nhu cầu về pháp luật của nhân dân khơng chỉ dừng lại ở tố
tụng mà cịn về đại diện, tư vấn đặc biệt là hoạt động tư vấn. Nắm bắt được nhu cầu
của nhân dân đối với pháp luật, trợ giúp pháp lý đã cung cấp đầy đủ những dịch vụ này
phục vụ người được trợ giúp. Điều này cho thấy Nhà nước thực sự quan tâm và coi trợ
giúp pháp lý là trách nhiệm của mình chứ khơng hề mang tính hình thức. Hoạt động
trợ giúp ngay tại định nghĩa đã xác định mục tiêu hoạt động là “bảo vệ công lý, bảo

đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”.
-

Trợ giúp pháp lý là dịch vụ cơng hồn tồn miễn phí.

Hoạt động trợ giúp pháp lý khơng chịu sự ràng buộc của các quy luật thị trường
như quy luật giá cả, quy luật cung - cầu… như dịch vụ pháp luật của tư nhân cung cấp.
Bởi vì, có thể nói dịch vụ trợ giúp pháp lý Nhà nước cung cấp cho những đối tượng
nhất định có đặc tính khơng cạnh tranh. Người được trợ giúp pháp lý có những hồn
cảnh khó khăn về kinh tế, về nhận thức, khả năng tiếp cận những dịch vụ pháp lý của
tư nhân. Chính vì thế khi họ được Nhà nước trợ giúp pháp lý hồn tồn khơng làm
giảm lượng tiêu dùng của khu vực tư nhân. Nói theo ngơn ngữ thương mại người được
trợ giúp pháp lý không phải là “khách hàng” của dịch vụ pháp lý có trả tiền. Thứ hai,
ngay cả khi họ có thể vay mượn để chi trả chi phí thì số lượng cũng rất hạn chế chính
vì vậy việc họ được Nhà nước giúp đỡ không làm giảm khả năng tiêu dùng của khu
vực dịch vụ pháp luật của tư nhân dù cho số lượng người được trợ giúp pháp lý là rất
lớn. Đó chính là đặc tính khơng loại trừ của trợ giúp pháp lý.

Trang 13


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

Hoạt động của hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý không vì mục tiêu lợi nhuận.
Là một dịch vụ pháp luật, nhưng là dịch vụ cơng có mục tiêu hoạt động là đáp ứng nhu
cầu tối thiểu cho người nghèo, đối tượng chính sách khác cho nên người được trợ giúp
khơng phải mất bất kỳ một khoản phí trong suốt quá trình được giúp đỡ. Tồn bộ chi
phí, thù lao cho người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ do Nhà nước thực hiện bằng nguồn

lực tài chính từ ngân sách hoặc nguồn lực do Nhà nước huy động được từ các tổ chức,
cá nhân trong nước và nước ngoài.
 Hai là, Trợ giúp pháp lý phục vụ những đối tƣợng có hồn cảnh đặc biệt.
Trợ giúp pháp lý là một lĩnh vực dịch vụ pháp luật mang đầy đủ nội dung và
đặc điểm của loại hình dịch vụ pháp luật của luật sư, điểm khác biệt đó là đối tượng
phục vụ. Đối tượng phục vụ của hoạt động trợ giúp pháp lý hiện nay được quy định
trong Luật Trợ giúp pháp lý 2006 [10, Điều 10] quy định có 6 đối tượng được hưởng
dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí đó là: Người nghèo; Người có cơng với cách mạng;
Người già cô đơn; Người tàn tật; Trẻ em không nơi nương tựa; Người dân tộc thiểu số
thường trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tại Điều 2 Nghị
định số 07/20007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật Trợ giúp pháp
lý liệt kê cụ thể các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý trong đó có thêm một quy
định mở tại Điều 2 khoản 7: Các đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định
tại điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Các đối tưởng được Nhà nước trợ giúp pháp lý đều có hồn cảnh đặc biệt có
khó khăn trong việc tiếp cận pháp luật, người được trợ giúp pháp lý có thể được chia
thành ba nhóm:
+ Người nghèo;
+ Người thiệt thòi trong xã hội;
+ Đối tượng chính sách.
 Người thuộc chuẩn nghèo theo quy định pháp luật là người thuộc diện được
Nhà nước cung cấp trợ giúp pháp lý miễn phí (Khoản 1 Điều 2 Nghị định
07/2007/ND-CP).

Trang 14


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương


Chuẩn nghèo quốc gia là mức chi phí cho một loạt nhu cầu tiêu dùng các mặt
hàng lương thực và phi lương thực thiết yếu, cho phép con người có một cuộc sống
khỏe mạnh. Mức chuẩn nghèo hiện nay ở nước hộ nghèo là những hộ có thu nhập
200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đ/người/năm) đối với khu vực nông thôn và
260.000 đồng/người/tháng (3.120.000 đ/người/năm) đối với khu vực thành thị [15] với
các tỉnh có tình hình kinh tế phát triển sẽ có những quy định riêng cho phù hợp. Theo
đó, tỷ lệ hộ nghèo cả nước khoảng 14,8% năm 2007; theo chuẩn quốc tế 24% vào năm
2004 [33]. Dân số nước ta tính đến năm 2007 là 85,16 triệu người [28] thì nước ta có
khoảng 12,6 triệu người nghèo. Đặc biệt, trong đó có 61 huyện nghèo thuộc 20 tỉnh,
nơi có trên 50% tỷ lệ hộ nghèo trong huyện.
 Đối tượng thứ hai được hưởng trợ giúp pháp lý từ nhà nước người dân tộc là
người thường xuyên sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn theo quy định của pháp luật (Khoản 6 Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý).
Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là đối tượng áp dụng Chính sách hỗ trợ
hộ dân tộc đặc biệt khó khăn của Nhà nước Việt Nam. Ở Việt Nam phân định các địa
phương miền núi và địa phương có dân tộc thiểu số sinh sống có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn làm 3 khu vực lần lượt là I, II, III, trong đó khu vực III là khu vực đặc
biệt khó khăn thuộc phạm vi của Chương trình 135. Trong khu vực I, II cũng có thể có
những thơn, bản, bn, sóc được cơng nhận là đặc biệt khó khăn. Hiện nay, nước ta có
1644 xã đặc biệt khó khăn của 287 huyện, 45 tỉnh [7] và 3.149 thơn, bn, xóm, bản,
làng, phum, sóc, ấp...(gọi tắt là thơn) đặc biệt khó khăn thuộc 1.140 xã khu vực II [16].
Người dân tộc thuộc đối tượng được giúp đỡ của Trợ giúp pháp lý gặp khó khăn trong
việc tiếp cận pháp luật khơng chỉ ở khơng có khả năng chi trả cho chi phí mà cịn là
khó khăn ở việc tiếp cận thơng tin pháp luật vì điều kiện sinh sống xa xơi, và khó khăn
ở ngơn ngữ.
Nhóm đối tượng là những người thiệt thòi trong xã hội còn bao gồm:
-

Người già từ 60 tuổi trở lên sống độc thân hoặc khơng có nơi nương tựa;


-

Người tàn tật bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng
biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động,

Trang 15


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn hoặc là người bị
nhiễm chất độc hoá học, bị nhiễm HIV hoặc bị các bệnh khác làm mất năng lực
hành vi dân sự mà khơng có nơi nương tựa;
-

Trẻ em dưới 16 tuổi khơng có nơi nương tựa;

-

Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình và của bn bán phụ nữ.
Người già, người tàn tật, bị nhiễm chất độc hóa, bị nhiễm HIV họ thuộc diện

được trợ giúp pháp lý có hồn cảnh thiệt thịi vì thể chất yếu đuối khơng thể tự bảo vệ
mình khi gặp vấn đề liên quan đến pháp luật. Họ cũng là những người yếu thế trong xã
hội, khơng người thân thích, các hoạt động của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày đối với
họ đã khó khăn vì thế khi “vơ phúc đáo tụng đình”, hay cần người đại diện, tư vấn để
bảo vệ quyền lợi của mình họ cần Nhà nước giúp đỡ. Những đặc trưng về thể chất và

giới tính, phủ nữ và trẻ em cũng là những nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất cần phải
được bảo vệ quan tâm một cách đặc biệt. Phụ nữ và trẻ em ở nhiều nơi, nhất là nông
thôn và miền núi vẫn đang phải chịu thiệt thòi trong cuộc sống. Do trải qua nhiều thế
kỷ dưới chế độ phong kiến, những tư tưởng, phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn ảnh
hưởng khá sâu sắc trong đời sống xã hội hiện nay. Trong đó có quan niệm cũ về thân
phận, vị trí người phụ nữ và trẻ em trong gia đình, xã hội dẫn đến những vi phạm
nghiêm trọng về quyền phụ nữ và trẻ em. Vì vậy đây là đối tượng cần được bảo vệ, ưu
tiên trong cơng tác hồn thiện pháp luật. Người nhiễm HIV/AIDS có những mặc cảm
nhất định về bản thân khi tiếp xúc với xã hội. Họ vừa đáng được xã hội quan tâm vừa
cần được quan tâm đúng mức.
 Đối tượng chính sách (Người có cơng với cách mạng) được Nhà nước trợ giúp
pháp lý miễn phí là những người cống hiến vì tổ quốc và những thân nhân của
họ.
Cụ thể, trong Điều 2 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định bao gồm 10 nhóm
đối tượng: Người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945;
Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao
động … Trợ giúp pháp lý cho những đối tượng này không chỉ thể hiện sự tri ân của

Trang 16


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

Nhà nước đối với những đóng góp của họ với nước mà cịn thể hiện sự quan tâm tới
những người gặp khó khăn trong cuộc sống.
Theo Văn kiện Dự án “Hỗ trợ Hệ thống Trợ giúp pháp ở Việt Nam, 2005 –
2009” do các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho Việt Nam đã mở rộng diện được trợ giúp pháp
lý không cần thêm điều kiện như không nơi nương tựa, người dân tộc sống trong vùng

có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn…, từ năm 2005 các nhóm đối tượng sau
đây cũng thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí: Người chưa thành niên; Người
dân tộc thiểu số; Người bị nhiễm HIV/AIDS; Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình
và bn bán người; Người mới ra tù tái hòa nhập xã hội. Với sự hỗ trợ về tài chính của
Dự án người được trợ giúp đã được mở rộng hơn về diện được trợ giúp. Đáng chú ý
trong số người được trợ giúp qua quỹ hỗ trợ của Dự án là người mới ra tù tái hòa nhập
xã hội, họ cần được trợ giúp pháp lý của Nhà nước để nhanh chóng “làm quen” với
mội trường mới, những quy định pháp luật mới.

1.2.

Lịch sử hình thành trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.

Trợ giúp pháp lý là loại hình dịch vụ pháp lý, ra đời, tổn tại và phát triển cùng
với nghề luật sư và gắn liền với yêu cầu của một xã hội thượng tôn pháp luật, suy tôn
pháp quyền. Trên thế giới trợ giúp pháp lý đã ra đời từ thế kỷ XV ở Anh, thế kỷ XVII
ở Đan Mạch và Na Uy tranh tụng miễn phí được triển khai bởi các luật sư và các tổ
chức từ thiện, đặc biệt là nhà thờ. Năm 1870 ở Mỹ và năm 1851 ở Pháp, chế độ biện
hộ cho người nghèo miễn phí đã hình thành. Cùng với xu hướng phát triển chung của
nhiều quốc gia Châu Âu, tư duy về “quyền” được trợ giúp pháp lý trở thành trào lưu
chung, trợ giúp pháp lý gắn liền với khái niệm “Luật cho người nghèo”. Năm 1903 ở
Anh, trợ giúp pháp lý được ghi nhận trong pháp luật, ở Mỹ từ 1962 trợ giúp pháp lý
được ghi nhận như là một bộ phận của Chiến lược xóa đói giảm nghèo, Hà Lan bắt đầu
từ năm 1970, Thụy Sỹ năm 1972… tại Công ước Châu Âu về nhân quyền 1979, Đức
từ 1982, Nhật năm 1953, Hàn Quốc từ năm 1972 và Trung Quốc từ 1962 [29]. Có thể
nói, trợ giúp pháp lý trên thế giới đã ra đời rất sớm.
Ở Việt Nam, Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Tuyên ngôn Độc lập
đánh dấu sự ra đời của nhà nước kiểu mới – nhà nước dân chủ nhân dân. Sau hơn nửa

Trang 17



Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

thế kỷ nền tư pháp nhân dân phát triển và trưởng thành đạt được những thành tựu to
lớn góp phần vào cơng cuộc đổi mới đất nước. Một trong những thành tựu đó là việc
ra đời và hoạt động rất hiểu quả của tổ chức trợ giúp pháp lý. Chính thức thành lập và
hoạt động theo Quyết định số 734/TTg của Thủ tướng chính phủ (cố Thủ tướng Võ
Văn Kiệt) ngày 06/9/1997, sự ra đời của trợ giúp pháp lý rất chính quy và hiện đại là
thành quả của cả một chặng đường phát triển rất dài của lịch sử.
Dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước ta đã trải qua các bước phát triển khác
nhau phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
cách mạng đặt ra trong từng giai đoạn của đất nước. Có thể khẳng định rằng sự phát
triển của trợ giúp pháp lý luôn luôn đi cùng với sự phát triển và hoàn thiện của luật sư
và ngành tư pháp. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 đã quy định: “Trong việc đại
hình, nếu trước Tịa án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố một bị can khơng có
ai bênh vực, ơng Chánh án sẽ cử một luật sư hoặc bào chữa viên nhân để bào chữa”
(Điều 44). Tại Điều 2 Sắc lệnh 69 năm 1949 của Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định trong
trường hợp bị can, bị cáo khơng có ai bênh vực thì Chánh án có thể cử hoặc theo yêu
cầu của bị can, bị cáo, cử người đứng ra bào chữa cho bị can, bị cáo. Người được
Chánh án chỉ định sẽ không được nhận tiền thù lao của bị can, bị cáo hay của nhân
thân của họ mà họ được hưởng cấp phí hàng ngày theo quy định lúc bấy giờ. Công tác
trợ giúp pháp lý tại thời kỳ này đã thể hiện bản chất nhân đạo và trách nhiệm của Nhà
nước thơng qua việc khơng thu phí [22- tr.182].
Như vậy, ý tưởng ban đầu về trợ giúp pháp lý đó là giúp đỡ cho bị cáo trước tòa
án, đảm bảo quyền bảo vệ mình trước pháp luật. Luật sư và bào chữa viên nhân dân là
những người đầu tiên thực hiện công tác cao cả này. Đặc biệt là người dân được giúp
đỡ khơng chỉ trong các vụ án hình sự mà cả trong những việc hộ, việc dân sự, thương

mại, nguyên đơn, bị đơn đều có quyền xin hỗ trợ về mặt pháp luật. Sắc lệnh 113 được
ban hành ngày 28/6/1946 đã ghi rõ: “nguyên cáo hoặc bị cáo trong một việc hộ có
quyền xin tư pháp bổ trợ”.
Trên nền tảng Hiến pháp 1946, Hiến pháp năm 1959 tại điều 101 quy định
“Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm”. Hiến pháp năm 1980 quy định mở

Trang 18


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

rộng hơn: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập
để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Theo quy định này sự giúp đỡ
pháp lý nói chung đã được nâng lên một tầm cao mới, tầm hiến định. Nhu cầu pháp lý
của bị cáo rất đa dạng như quyền được đại diện, quyền được tư vấn đều được Hiến
pháp ghi nhận. Đồng thời không chỉ các bị cáo mà các đương sự khác cũng thuộc diện
được hưởng trợ giúp pháp lý. Hiến pháp năm 1980 đã tạo cơ sở cho sự ra đời của tổ
chức luật sư, một tổ chức không thể thiếu và rất đặc trưng của xã hội dân chủ, pháp
chế, pháp quyền.
Sự ra đời của Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 là cơ sở pháp lý vững chắc để
10 năm sau tổ chức pháp lý đầu tiên được thành lập. Pháp lệnh luật sư đã mở ra trang
mới cho hoạt động tố tụng – tư pháp, cơng tác bảo chữa trước tịa trở thành hoạt động
thực chất và có hiệu quả. Chế định luật sư được khẳng định vị trí trong q trình triển
khai, đưa vào vận hành đường lối đổi mới, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội. Pháp
lệnh đã tạo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao đáp ứng nhu cầu xã hội bức xúc về hoạt động
của các luật sư chuyên nghiệp, chính quy theo nguyên tắc hành nghề tự do. Từ góc
nhìn trợ giúp pháp lý với tính cách là một loại hình hoạt động, một chức năng xã hội
thể hiện ở sự giúp đỡ về mặt pháp luật cho bộ phận dân cư bị thiệt thòi hoặc gia đình

chính sách, có cơng có thể thấy Pháp lệnh đã đưa hoạt động luật sư theo hướng có tính
đến hồn cảnh tình hình đất nước.
Luật sư tham gia tích cực vào cơng tác nâng cao ý thức pháp luật, nói chung là
nâng cao dân trí pháp luật thơng qua việc tư vấn pháp luật, giúp đỡ pháp luật nói
chung trên cơ sở miễn phí, giảm tiền thù lao giúp đỡ pháp luật. Cụ thể Pháp lệnh tổ
chức luật sư quy định tại Điều 20 “ Công dân và tổ chức nhờ luật sư giúp đỡ pháp lý
phải trả tiền thù lao. Chế độ trả tiền thù lao và những trường hợp được miễn, giảm do
Quy chế Đoàn luật sư quy định”. Quy chế Đoàn luật sư được ban hành kèm theo Nghị
định số 15 ngày 21/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng đã quy định cụ thể rõ những
trường hợp miễn, giảm thù lao tại Điều 33 khoản 2 “Thương binh nặng (loại 1,2/4)”,
khoản 4 “Thành viên của các tổ chức hịa giải khi nhờ Luật sư giải thích pháp luật về
những vấn đề có liên qua đến hoạt động xã hội của họ” và “Ngoài các trường hợp kể

Trang 19


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

trên, Ban Chủ nhiệm Đồn Luật sư có thể xét miễn hoặc giảm thù lao cho những cơng
dân có hồn cảnh kinh tế khó khăn hoặc các trường hợp đặc biệt khác khi có đơn đề
nghị của đương sự”. Đối tượng chính sách và người có hồn cảnh kinh tế khó khăn đã
được trợ giúp về pháp luật.
Điều đáng chú ý là việc miễn giảm thù lao ở đây là quy định pháp luật do đó có
tính chất bắt buộc mà khơng phụ thuộc vào ý chí của luật sư hay tâm nguyện của Đồn
luật sư. Vì thế việc miễn thù lao trở thành một loại nghĩa vụ, trách nhiệm xã hội cao
quý của Đoàn luật sư. Qua đây càng thấy rõ những phương diện xã hội của trợ giúp
pháp lý của pháp luật Việt Nam ngay ở buổi đầu đi theo hướng chính quy, hiện đại.
Quy định này đáp ứng việc thể chế Công ước về các quyền dân sự và chính trị

năm 1966 của Liên hợp quốc mà Việt Nam tham gia năm 1982 đó là phải tăng cường
những khẳ năng bảo hộ pháp lý và các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm yêu
cầu bảo hộ pháp lý. Theo Điều 14, điểm 3 Phần d Công ước về các quyền dân sự và
chính trị, q trình xét xử một tội hình sự, mỗi người đều có quyền địi hỏi một cách
hồn tồn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu là “được có mặt trong khi xét xử và được
tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ về
pháp lý thì phải được thơng báo về quyền này; trong trường hợp do lợi ích của cơng lý
địi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ pháp lý mà người đó khơng phải trả
tiền nếu khơng có đủ điều kiện trả”. Việc tham gia các Cơng ước này địi hỏi Nhà nước
ta phải đổi mới tư duy về quyền được tiếp cận luật sư, người có kiến thức pháp luật
của mọi cơng dân khơng phân biệt giàu nghèo, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu và hoàn
thiện chế định tư pháp bảo trợ với nội dung và phương thức mới, không chỉ dừng lại ở
bảo đảm quyền bào chữa mà còn gắn với quyền được tiếp cận và sử dụng pháp luật
của công dân, nhất là những người có hồn cảnh đặc biệt (khơng có đủ điều kiện trả
tiền) nhằm bảo đảm công bằng xã hội.
Trước yêu cầu đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo và đối tượng
chính sách ngày 18/5/1995, tại phiên họp Ban Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Tổng
Bí thư Đỗ Mười khẳng định: “Chúng ta cần chú ý đến các biện pháp để tăng cường
hoạt động pháp lý mang tính kinh doanh, dịch vụ phục vụ đầu tư nhưng cũng cần chú

Trang 20


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

trọng công tác tư vấn, hướng dẫn pháp luật cho nhân dân, mà đặc biệt là người
nghèo, đồng bào dân tộc ít người. Công tác này chưa được quan tâm đúng mức. Đây
là một vấn đề cần được nghiên cứu và làm ngay trong thời gian tới”. Để kịp thời đưa

chủ trương này vào đời sông công tác hướng dẫn pháp luật trở thành cơng tác hàng
đầu, mang tính thời sự, chính vì vậy ngày 31/5/1995, Văn phịng Trung ương Đảng đã
có Công văn số 485/CV-VPTW thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư gửi Ban cán
sự Đảng Chính phủ, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đề nghị “xác định phạm vi thích
hợp hoạt động tư vấn pháp luật của tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân,
trước hết chú trọng tổ chức tư vấn pháp luật của nhà nước…; cần nghiên cứu lập hệ
thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm
việc theo pháp luật”.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo của
Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ động nghiên cứu, tham mưu giúp Chính phủ triển khai
thí điểm thành lập các Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước tại một số tỉnh. Trung
tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước tỉnh Cần Thơ được thành lập ngày 13/7/1996,
Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước tỉnh Hà Tây được thành lập ngày
28/01/1997. Hoạt động trợ giúp pháp lý thí điểm ở 2 địa phương cho thấy, nhân dân
Cần Thơ và Hà Tây đón nhận trợ giúp pháp lý như một chính sách xã hội rộng lớn,
hoan nghênh chủ trương này của Đảng và Nhà nước. Do được UBND nhiệt tình hưởng
ứng, người dân biết đến nhanh nên hoạt động trợ giúp pháp lý đã thu được một số kết
quả đáng khích lệ (trên 700 vụ/2 địa phương), số vụ việc ngày càng tăng, nhiều đối
tượng đã gửi thư cảm ơn. Lãnh đạo hai tỉnh đánh giá cao và coi đây là một trong
những loại hình đưa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi
vào cuộc sống hiệu quả nhất. Kết quả thí điểm là tiền đề rất quan trọng cho sự ra đời
của công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
Từ những kết quả ban đầu, trên cơ sở kinh nghiệm tổ chức và hoạt động trợ
giúp pháp lý của các nước phát triển và xu hướng vận động và phát triển của trợ giúp
pháp lý trên thế giới, Bộ Tư pháp đã hoàn thiện Đề án về việc thành lập tổ chức trợ
giúp pháp lý và báo cáo xin ý kiến Trung ương, Chính phủ. Tại kỳ họp lần thứ 3 Ban

Trang 21



Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, lần đầu tiên Trung ương Đảng ghi nhận trong
Nghị quyết định hướng chỉ đạo triển khai cơng tác trợ giúp pháp lý: “Tổ chức hình
thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người
nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí”. Đây là cơ sở chính trị - pháp lý
quan trọng, khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc bảo đảm quyền
được tiếp cận với pháp luật của người nghèo, phù hợp với truyền thống, đạo lý của dân
tộc Việt Nam “lá lành đùm lá rách”, “đền ơn đáp nghĩa”; thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ ta trong việc thực hiện dân chủ, hướng về cơ sở, gần dân, sát dân, tạo thuận lợi
cho dân trong tiếp cận pháp luật. Đồng thời thực hiện nhất quán quan điểm quản lý xã
hội bằng pháp luật, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân theo pháp
luật và phù hợp với xu thế phát triển của cộng đồng quốc tế.
Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg
thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách tạo
cơ sở pháp lý cho sự ra đời hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước ở 64 tỉnh
thành trên cả nước. Trợ giúp pháp lý Việt Nam không ngừng phát triển và lớn mạnh,
các trợ giúp viên và cộng tác viên đã giúp đỡ cho hàng triệu lượt người với hàng triệu
vụ việc. Đặc biệt Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội khóa XI thơng qua tại kỳ họp
thứ 9 ngày 29/6/2006, có hiệu lực ngày 01/01/2007 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho
việc hoạt động của tổ chức.
Từ khi thành lập đến nay, chặng đường hơn nười năm phát triển Trợ giúp pháp lý
khơng ngừng hồn thiện cả về thể chế, tổ chức và chất lượng phục vụ. Luật Trợ giúp
pháp lý được ban hành kịp thời thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối và chính sách
của Đảng về giúp đỡ pháp luật cho nhân dân, đánh dấu bước phát triển về chất của
công tác trợ giúp pháp lý. Hệ thống tổ chức pháp lý Nhà nước đã được thành lập trên
toàn quốc với đội ngũ hàng trăm trợ giúp viên và hàng ngàn cộng tác viên, môi năm
giúp đỡ cho hàng triệu lượt đồng bào trong cả nước. Chương trình hợp tác thu hút sự

hỗ trợ từ quốc tế phát triển đã mang lại cơ hội được giúp đỡ nhiều hơn cho những
người có hồn cảnh khó khăn. Trợ giúp pháp lý đã trở thành một hiện thực sinh động,

Trang 22


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

một nét sinh hoạt không thể thiếu của đời sống pháp luật của xã hội, một nhu cầu, một
đòi hỏi bức xúc của nhiều bộ phận dân cư xã hội.

1.3. Ý nghĩa của Trợ giúp pháp lý
 Trợ giúp pháp lý góp phần đảm bảo quyền bào chữa của ngƣời đƣợc trợ
giúp.
Mặc dù quyền được bào chữa của bị can, bị cáo đã được Hiến pháp và pháp luật
tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và hành chính quy định tương đối đầy đủ, nhưng trong
thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta, khi chưa có tổ chức trợ giúp pháp lý,
không phải tất cả các bị can, bị cáo đều có khả năng thực hiện quyền này. Ngoại trừ
một số trường hợp bị can, bị cáo phạm tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử
hình, là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, nếu
họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tịa án phải
u cầu Đồn luật sư phân cơng Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho hị hoặc để
nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Mặt trận của người bào chữa
cho thành viên của tổ chức mình [5, Điều 57].
Phần lớn các vụ án hình sự, bị can, bị cáo phải tự bào chữa cho mình bởi ba lý
do chủ yếu đó là: họ là người nghèo hoặc có hồn cảnh đặc biệt khơng có đủ điều kiện
về kinh tế để mời luật sư tham gia bào chữa cho họ; bị can, bị cáo cư trú ở vùng nông
thôn, miền núi, đồng bào dân tộc có trình độ dân trí thấp, hiểu biết pháp luật hạn chế

không biết quyền được bào chữa để mời người bào chữa cho mình; số lượng luật sư
nước ta cịn q ít (cả nước có khoảng hơn 4.000 luật sư) lại tập trung chủ yếu ở các
thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (khoảng 2.500 luật sư), một số
tỉnh miền núi như Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Bắc Cạn… chỉ trên dưới mười luật sư
nên không đáp ứng được hết yêu cầu bào chữa của bị can, bị cáo.
Do không mời được luật sư tham gia bào chữa, trong khi thiếu hiểu biết pháp
luật, thậm chí khơng có kiến thức nào về pháp luật, bị can, bị cáo khó cơ thể tự bào
chữa để bảo vệ quyền và lợi ích của mình và phải chịu thiệt thịi là điều khơng tránh
khỏi. Những vụ án khơng có người bào chữa cho bị can, bị cáo thì hầu như khơng có
việc tranh tụng tại Tịa án, và đã khơng tranh tụng thì khó có thể xem xét vụ án một

Trang 23


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

cách toàn diện, khách quan, cơng bằng và bình đẳng cho nên dễ dẫn đến oan sai, bỏ lọt
tội phạm hoặc làm oan người vô tội.
Trợ giúp pháp lý với hoạt động của mình đã góp phần khắc phục tình trạng trên
đây. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ của đương sự là người
nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, người già cô đơn,
người tàn tật… được thực hiện trong thực tiễn, pháp luật trợ giúp pháp lý quy định các
Trung tâm trợ giúp pháp lý có trách nhiệm cử Trợ giúp viên phap lý hoặc luật sư là
cộng tác viên tham gia tố tụng để thực hiện bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc đại diện
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ án dân sự, hành chính.
Hoạt động trợ giúp pháp lý đã tạo ra cơ chế bảo đảm các quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền bảo vệ của đương sự là những người nghèo và những đối tượng yếu thế
khác được thực hiện trong thực tiễn mà trước đây họ khơng thể thực hiện được, góp

phần thực hiện mục tiêu của cải cách tư pháp là bảo đảm cơng bằng xã hội.
 Trợ giúp pháp lý góp phần bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm
minh và thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tƣ pháp.
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 yêu cầu phải đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp, bảo
đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa và coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp trong tiến trình cải cách tư
pháp.
Luật trợ giúp pháp lý quy định người được trợ giúp pháp lý có quyền được đề
nghị Trung tâm trợ giúp pháp lý có quyền được đề nghị Trung tâm cử Trợ giúp viên
pháp lý hoặc Luật sư là cộng tác viên tham gia tố tụng để đại diện, bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Khi tham gia tố tụng, trợ giúp viên pháp lý hoặc
luật sư là cộng tác viên có đầy đủ quyền năng theo pháp luật tố tụng và pháp luật trợ
giúp pháp lý. Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTCTANDTC hướng dẫn một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng [17]
đã tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tiến hành tố tụng và tổ chức trợ giúp
pháp lý. Thông tư đảm bảo cho người được trợ giúp pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để

Trang 24


Luận văn Cử nhân Luật học

Trần Thị Thu Hương

người tiến hành trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thưo quy định của pháp luật. Việc
tham gia tố tụng của trợ giúp viên hoặc luật sư là cộng tác viên không chỉ đảm bảo
quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người được trợ giúp pháp lý, mà còn góp phần
nâng cao tính cơng khai, dân chủ và thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong quá trình tố
tụng; giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết vụ việc một cách tồn
diện, chính xác, khách quan, cơng bằng và đúng pháp luật; góp phần nâng cao ý thức

pháp luật, tạo lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về việc “thực hiện và phát triển các loại
hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập
chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” và triển khai thi
hành Luật Trợ giúp pháp lý, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam theo hướng
thiết lập hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thành lập Tòa án khu vực, tạo điều
kiện thuận lợi cho người được trợ giúp pháp lý tiếp cận với hoạt động trợ giúp pháp lý
và tham gia tố tụng, ngày 23/6/2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Quy
hoạch mạng lưới Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm
giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015”, trong đó quy định rõ đến năm
2015 sẽ thành lập tất cả các Chi nhánh của Trung tâm tương ứng với Tòa án khu vực.
Việc thành lập các Chi nhánh của Trung tâm tương ứng với Tòa án khu vực sẽ tạo
thuận lợi cho người dân dễ tiếp cận với hoạt động trợ giúp pháp lý để yêu cầu Chi
nhánh cử trợ giúp viên và luật sư tham gia tố tụng, từ đó góp phần thực hiện mục tiêu
của cải cách tư pháp là bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và nâng cao chất lượng
tranh tụng trong hoạt động tư pháp, bảo đảm mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp
luật.
 Hoạt động trợ giúp pháp lý góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm quyền tự
do, dân chủ của công dân và thực hiện công bằng xã hội.
Mọi người đều có quyền được tơn trọng và được đối xử với một thái độ tôn
trọng. Đảm bảo công bằng là một nguyên tắc tối quan trọng nhưng trên thực tế điều
này không phải lúc nào cũng được đảm bảo nếu bạn nghèo và khơng có quyền lực. Xã
hội ln ln tồn tại những người thu nhập thấp hơn nhất là nền kinh tế nước ta hộ

Trang 25


×