Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Vi phạm cơ bản hợp đồng theo công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 193 trang )

VÕ SỸ MẠNH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
TP.HỒ CHÍ MINH
__
___
_____________________

Võ Sỹ Mạnh

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƯỚC VIÊN
NĂM 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC
TẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG HỒN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CĨ
LIÊN QUAN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

KHĨA: 7

TP.HỒ CHÍ MINH, năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

VÕ SỸ MẠNH
VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980
VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA QUỐC TẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG


HỒN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CÓ LIÊN QUAN CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 62.38.50.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGƯT MAI HỒNG QUỲ

TP.HỒ CHÍ MINH - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là
trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án
chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
Tác giả luận án

Võ Sỹ Mạnh


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt


Công ước Viên

Công ước Viên năm 1980 của Liên
Hợp quốc về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế

CIETAC

China International

Ủy ban trọng tài thương mại và

Economic and Trade

kinh tế quốc tế Trung Quốc

Arbitration Commission
Hợp đồng

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc

MBHHQT

tế

PICC

Principles of International Những nguyên tắc hợp đồng
thương


Commercial Contract

mại

quốc

tế

của

UNIDROIT
PECL

Principles

of

European Những nguyên tắc Luật hợp đồng

Contract Law

châu Âu

TNHH
ULIS

ULF

Trách nhiệm hữu hạn


Uniform Law on
International
Sale
Goods 1964
Uniform Law on

the Luật thống nhất về mua bán hàng
of hóa quốc tế năm 1964
the Luật thống nhất về giao kết hợp

Formation of Contracts for đồng mua bán hàng hóa quốc tế
the International Sale of năm 1964
Goods 1964
UNCITRAL

Nations Ủy ban về luật thương mại quốc tế

United
Commission

on của Liên hợp quốc

International Trade Law
UNIDROIT

Insitut International pour Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế
l`Unification
Privé

des


Droits


i
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương

7

pháp nghiên cứu
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

7

1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài

15

1.3. Phương pháp nghiên cứu

18

Chương 2. Những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng

20


2.1. Khái niệm, đặc điểm của vi phạm cơ bản hợp đồng

20

2.2. Cơ chế pháp luật điều chỉnh về vi phạm cơ bản hợp đồng

39

Kết luận Chương 2

45

Chương 3. Các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo

47

Cơng ước Viên và định hướng hồn thiện quy định pháp luật Việt Nam
về vi phạm cơ bản hợp đồng
3.1. Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên (có so sánh với pháp luật

47

Việt Nam)
3.2. Quy định và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi

54

phạm hợp đồng theo Cơng ước Viên
3.3. Một số bất cập trong quy định và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành


92

tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng
hoàn thiện
Kết luận Chương 3

112

Chương 4. Chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và

114

định hướng hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về chế tài do vi
phạm cơ bản hợp đồng
4.1. Khái quát về chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Cơng ước Viên (có

114

so sánh với pháp luật Việt Nam)
4.2. Quy định và thực tiễn áp dụng chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo

118

Công ước Viên
4.3. Một số bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng chế tài do vi phạm cơ
bản hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng hoàn thiện

147



ii
Kết luận chương 4

168

KẾT LUẬN

169

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

171

NHỮNG CƠNG TRÌNH LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ĐÃ CƠNG BỐ

187


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Thương mại được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
14/6/2005 (sau đây gọi tắt là Luật Thương mại) và chính thức có hiệu lực từ ngày
1/1/2006, thay thế Luật Thương mại năm 1997. Phải thừa nhận một điều rằng, những
người soạn thảo Luật Thương mại đã rất cố gắng trong việc khắc phục những điểm
chưa phù hợp của Luật Thương mại năm 1997 và đặc biệt là đưa vào Luật Thương mại
nhiều khái niệm, quy định mới nhằm điều chỉnh một số loại hình hoạt động thương
mại mà trước đây Luật Thương mại năm 1997 chưa đề cập tới, ví dụ: mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa, nhượng quyền thương mại, logistic, tạm ngừng thực

hiện, đình chỉ thực hiện hợp đồng…
Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, Luật Thương mại có nhiều quy định tốt hơn,
có nhiều điểm mới hơn Luật Thương mại năm 1997. Tuy nhiên, khi xem xét, nghiên
cứu kỹ Luật Thương mại, có thể thấy bên cạnh những điểm mới cịn có một số khái
niệm, quy định cần phải được lý giải và làm sáng rõ hơn và một trong số đó là khái
niệm “vi phạm cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng với ý nghĩa là căn cứ để áp dụng một số
chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại.
Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại thì vi phạm cơ bản là “sự
vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia
khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp
đồng là cơ sở pháp lý quan trọng để áp dụng các chế tài trong thương mại, như chế tài
tạm ngừng thực hiện hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc chế tài hủy
bỏ hợp đồng khi các bên trong hợp đồng khơng có thỏa thuận về điều kiện áp dụng ba
chế tài này1. Tuy nhiên, quy định này chưa thực sự rõ ràng, tường minh và tạo thuận
lợi cho việc áp dụng các chế tài có liên quan. Bên cạnh đó, theo Điều 4 Luật Thương
mại, trong trường hợp Luật Thương mại hoặc luật chuyên ngành khơng quy định thì áp
dụng quy định của Bộ luật dân sự2. Song, Bộ luật dân sự năm 1995 cũng như năm
2005 cũng không quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng và các văn bản dưới luật của
Việt Nam hiện hành cũng khơng có quy định làm rõ hơn về vấn đề này. Đây thực sự là
những bất cập của pháp luật Việt Nam. Những bất cập này nếu khơng được loại bỏ hay
sửa đổi thì việc áp dụng ba chế tài nói trên khó có tính khả thi. Và như vậy thì sẽ dẫn
1
2

Điều 308, 310, 312 Luật thương mại năm 2005.
Điều 4 Luật thương mại năm 2005.


2
đến một thực tế là quy định “vi phạm cơ bản hợp đồng” sẽ khó được áp dụng trong

thực tiễn, thậm chí trao cho tịa án, trọng tài thẩm quyền lớn trong việc xác định có hay
khơng có vi phạm cơ bản hợp đồng.
Trong khi đó, vi phạm cơ bản hợp đồng là một chế định pháp luật được sử dụng
trong Công ước Viên. Được ký kết vào năm 1980, có hiệu lực từ năm 1988, đến nay
đã có 83 quốc gia tham gia3, Công ước Viên được xem là nguồn luật thống nhất về
hợp đồng MBHHQT, đã dung hòa được quan điểm của các quốc gia theo hệ thống luật
Civil Law và Common Law về vấn đề này. Công ước Viên cũng được các nhà soạn
thảo Luật Thương mại “tham khảo” và “căn cứ các nguyên tắc của Công ước”4 nhằm
khắc phục sự “chưa tương thích của Luật Thương mại với điều ước đã được thừa nhận
rộng rãi trên thế giới như Công ước Viên”5.
Điều 25 Công ước Viên quy định “Vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là cơ
bản nếu vi phạm đó gây tổn hại cho bên kia đến mức tước đi đáng kể những gì bên kia
có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được và một người
có lý trí cũng khơng tiên liệu được hậu quả đó nếu họ ở vào địa vị và hồn cảnh tương
tự”. Tương tự Luật Thương mại, Công ước Viên cũng khơng đưa ra sự giải thích cụ
thể để xác định hành vi vi phạm như thế nào bị coi là vi phạm cơ bản. Tuy nhiên, trải
qua hơn 30 năm tồn tại, thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng MBHHQT có liên
quan đến vi phạm cơ bản hợp đồng, các tòa án và trọng tài tại các quốc gia thành viên
Công ước Viên đã, căn cứ vào từng tình huống cụ thể, xác định có hay khơng có một
sự vi phạm cơ bản hợp đồng để làm cơ sở áp dụng chế tài hủy hợp đồng, yêu cầu thay
thế hàng hóa…theo Cơng ước Viên. Vấn đề đặt ra là chế định vi phạm cơ bản hợp
đồng trong Công ước Viên đặt ra những vấn đề gì trong thực tiễn áp dụng? Việt Nam
học được gì từ những quy định và vận dụng của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành
viên của Công ước Viên về vi phạm cơ bản hợp đồng và Việt Nam phải đối mặt với
vấn đề gì khi khơng sửa đổi để hồn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng?
Để trả lời được những câu hỏi này, cần phải có sự nghiên cứu kỹ những quy
định về vi phạm cơ bản trong Cơng ước Viên. Đó là lý do để Nghiên cứu sinh chọn
vấn đề “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên năm 1980 về
3


Xem chi tiết tại truy cập ngày 15/3/2015.
Tờ trình số 1456/CP-CP của Chính phủ ngày 5/10/2004 trước Quốc hội về dự án Luật thương mại (sửa đổi),
tr.11; Báo cáo 350/UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 18/5/2005 về việc giải trình, tiếp thu
chỉnh lý dự thảo Luật thương mại (sửa đổi) trình Quốc hội thơng qua.
5
Tờ trình số 1456/CP-CP của Chính phủ ngày 5/10/2004 trước Quốc hội về dự án Luật thương mại (sửa đổi),
tr.2; Báo cáo 350/UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 18/5/2005 về việc giải trình, tiếp thu chỉnh
lý dự thảo Luật thương mại (sửa đổi) trình Quốc hội thơng qua.
4


3
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên
quan của pháp luật Việt Nam” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về
vi phạm cơ bản hợp đồng, quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ bản
hợp đồng, chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và pháp luật Việt
Nam, đề tài đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm, một mặt, tạo sự phù hợp giữa pháp luật
Việt Nam và Công ước Viên, mặt khác tạo cơ sở pháp lý thuận lợi và dễ áp dụng cho
các doanh nghiệp Việt Nam trong giao kết và thực hiện hợp đồng, cho các cơ quan giải
quyết tranh chấp của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng
MBHHQT khi phải áp dụng quy định về vi phạm cơ bản.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng;
- Phân tích, làm rõ quy định về vi phạm cơ bản theo Cơng ước Viên (có so sánh
với pháp luật Việt Nam), thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi

phạm hợp đồng theo Cơng ước Viên của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên
Công ước, đồng thời làm rõ một số bất cập trong quy định và thực tiễn xác định các
yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, từ đó
định hướng hồn thiện pháp luật Việt Nam;
- Phân tích, làm rõ quy định của Công ước Viên về chế tài do vi phạm cơ bản
(có so sánh với Việt Nam) và thực trạng vận dụng các chế tài này của tòa án, trọng tài
một số quốc gia thành viên Công ước, đồng thời phân tích những bất cập trong quy
định và thực tiễn áp dụng chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam, từ đó định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề liên quan đến vi phạm cơ
bản, là các quy định của Công ước Viên và của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản
hợp đồng, về các chế tài được áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Đối tượng


4
nghiên cứu của Luận án là sự vi phạm hợp đồng từ phía người bán và người mua trong
hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, đặc biệt là trong hợp đồng MBHHQT. Đối
tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm những án lệ, những vụ tranh chấp cũng
như thực tiễn xét xử của các tòa án và trọng tài của một số quốc gia là thành viên của
Công ước Viên liên quan đến việc áp dụng các quy định của Công ước Viên về vi
phạm cơ bản hợp đồng để giải quyết tranh chấp hợp đồng MBHHQT. Ngoài ra, đối
tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm cả việc phân tích những bất cập trong quy
định và thực tiễn áp dụng các quy định về vi phạm cơ bản của pháp luật Việt Nam so
với các quy định của Công ước Viên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Như tên gọi của Công ước Viên là Cơng ước quốc tế điều chỉnh
hợp đồng MBHHQT, do đó, về phạm vi nghiên cứu, đề tài giới hạn ở việc phân tích vi
phạm cơ bản hợp đồng theo Cơng ước Viên trong mối quan hệ với khái niệm về vi

phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam nhưng chỉ đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng MBHHQT nói riêng.
Vi phạm cơ bản hợp đồng, bản thân nó, ln gắn liền với việc áp dụng chế tài
hủy hợp đồng. Nói cách khác, phạm vi nghiên cứu về mặt nội dung của Luận án tiến sĩ
này là những vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước Viên
trong mối quan hệ với việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bằng cách
yêu cầu giao hàng thay thế hoặc hủy hợp đồng khi người bán hoặc người mua vi phạm
hợp đồng. Theo quy định của Luật Thương mại, khi một bên có sự vi phạm cơ bản,
bên kia có quyền áp dụng cả chế tài hủy hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp
đồng, chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, do đó phạm vi nghiên cứu của Luận án
về nội dung còn bao gồm cả việc phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về vi
phạm cơ bản hợp đồng, đặc biệt là quy định của Luật Thương mại về vi phạm cơ bản
hợp đồng trong mối quan hệ với việc áp dụng các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp
đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.
- Về không gian: Khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ bản
hợp đồng, Luận án phân tích thực tiễn và án lệ tịa án, trọng tài ở một số nước như
Đức, Pháp, Trung Quốc…là những nước đã gia nhập Công ước Viên.
- Về thời gian: Khi phân tích về những vấn đề phát sinh từ thực tiễn áp dụng
Công ươc Viên, Luận án lấy số liệu từ năm 1988, năm Cơng ước Viên có hiệu lực cho
đến nay.


5
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về phương diện lý luận, luận án góp phần củng cố và hoàn thiện cơ sở lý luận
về vi phạm cơ bản trong pháp luật hợp đồng Việt Nam để các nhà lập pháp, các cơ
quan có thẩm quyền, các cán bộ nghiên cứu, các nhà kinh doanh vận dụng trong quá
trình thực hiện, giải quyết tranh chấp hay xây dựng và hoàn thiện pháp luật về vi phạm
cơ bản hợp đồng.
Về phương diện thực tiễn, những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng được đề xuất trong luận án sẽ là tài liệu tham
khảo có giá trị cho các nhà lập pháp, cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng. Luận án cũng
là tài liệu tham khảo cho trọng tài, tòa án khi xem xét vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm
áp dụng đúng các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng
và hủy bỏ hợp đồng. Luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các doanh nghiệp
Việt Nam khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng
MBHHQT nói riêng.
5. Những điểm mới của Luận án
- Luận án là cơng trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cơ sở lý
luận và thực tiễn về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước Viên có so
sánh với pháp luật Việt Nam.
- Luận án đã phân tích, bình luận, đánh giá một cách khách quan về quy định và
thực tiễn vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước
Viên như xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và chế tài
do vi phạm cơ bản hợp đồng để từ đó có cái nhìn cụ thể và đầy đủ hơn về quy định này
trong Cơng ước Viên và đặt nó trong mối quan hệ với các quy định về vi phạm cơ bản
theo pháp luật Việt Nam nhằm tìm ra những bất cập, những điểm chưa hợp lý trong
các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản.
- Luận án đã đưa ra kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của
pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản, trên cơ sở chọn lọc các quy định có tính ưu
việt của Cơng ước Viên về cùng vấn đề nhằm nâng cao tính khả thi cho các quy định
của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản.
- Những đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể của Luận án sẽ là cơ sở khoa
học cho việc hoàn thiện các quy định cúa pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp
đồng, từ đó góp phần tạo khung pháp luật phù hợp cho việc thực hiện hợp đồng mua


6
bán hàng hóa của các doanh nghiệp và góp phần thuận lợi cho việc giải quyết tranh

chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, hợp đồng thương mại nói chung.
6. Kết cấu của Luận án
Ngồi Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm 4
Chương:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu.
Chương 2. Những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng
Chương 3. Các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo Công
ước Viên và định hướng hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản
hợp đồng
Chương 4. Chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và định
hướng hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng


7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Việc xác định vi phạm cơ bản hợp đồng luôn mang đến ảnh hưởng nhất định về
quyền lợi và nghĩa vụ đối với các bên và việc áp dụng các chế tài trong thương mại
như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hay hủy bỏ hợp đồng.
Chính vì vậy, nội dung này được các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu và kể các các
bên trong quan hệ hợp đồng thương mại trong nước và ngoài nước đánh giá là vấn đề
quan trọng và cơ bản, luôn quan tâm để tìm ra phương hướng hồn thiện.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, tính đến nay, chưa có cơng trình hay sách chuyên khảo nào nghiên
cứu một cách hệ thống, cụ thể về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên. Mặc
dù vậy, các nghiên cứu đơn lẻ về vi phạm cơ bản hợp đồng cũng đã có, cụ thể:
Cuốn sách “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” của tác giả

Nguyễn Ngọc Khánh được Nxb Tư pháp xuất bản năm 2007 chỉ dành hơn 2 trang
(tr.382&383) để đề cập rất sơ lược về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng và tác giả
cuốn sách cho rằng định nghĩa về vi phạm cơ bản hợp đồng tại khoản 13 Điều 3 Luật
Thương mại cũng “tương tự” khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng nêu trong Công ước
Viên.
Cuốn sách “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng” của tác
giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (tái bản năm 2013), cũng
đã đề cập đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng. Tác giả cho rằng “chỉ nên coi
những vi phạm có ảnh hưởng lớn tới hợp đồng mới là cơ bản” và việc xác định tính
chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng là “phụ thuộc hồn cảnh cụ thể và
khi có tranh chấp thì Tịa án sẽ tự xác định”.
Cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án” của tác giả
Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2013 (tái bản lần thứ tư, tập 2),
trong đó tác giả đã đưa ra một số bản án liên quan đến chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng do
khơng thực hiện đúng hợp đồng từ trang 565-612 có đề cập sơ lược đến vi phạm
nghiêm trọng, vi phạm cơ bản hợp đồng.


8
Luận văn Thạc sỹ Luật của tác giả Phạm Thị Minh Nguyệt, trường Đại học
Luật Tp.HCM “Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và chế tài khi vi phạm cơ bản
nghĩa vụ hợp đồng” năm 2013. Luận văn này chỉ nghiên cứu khái quát về khái niệm vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thương mại nói chung và theo quy định của Luật
Thương mại, các chế tài áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Bài viết “Hướng tới sự thống nhất pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng ở Việt
Nam” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trong Kỷ yếu Hội thảo “Hồn thiện các báo cáo rà
sốt Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại” do VCCI phối hợp với Văn
phịng Chính phủ tổ chức tại Tp.Hồ Chí Minh ngày 24/8/2011. Tác giả của bài viết này
đã chỉ ra những bất cập trong việc áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng
(được quy định tại Điều 308 Luật Thương mại) và quyền hoãn thực hiện hợp đồng của

bên mua (theo quy định tại khoản 2 Điều 415 Bộ luật dân sự năm 2005) vì những khó
khăn trong việc xác định cái gọi là vi phạm cơ bản hợp đồng – điều kiện để áp dụng
chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng theo quy định của Luật Thương mại.
Bài viết “Vi phạm cơ bản hợp đồng” của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên
Báo Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 22/3/20106. Bài viết này phân tích một tranh chấp
giữa bên mua là các Công ty của Argentina và của Hungary, cịn bên bán là một Cơng
ty của Nga. Bên mua đã khởi kiện bên bán và cho rằng bên bán đã có sự vi phạm cơ
bản hợp đồng vì đã khơng giao hàng như cam kết. Bên bán thì lại cho rằng bên mua đã
có sự vi phạm cơ bản hợp đồng vì đã chậm thanh tốn. Tranh chấp được xét xử tại Hội
đồng trọng tài Zurich, phán quyết tuyên ngày 31/5/1996. Tương tự, bài viết “Hủy hợp
đồng do chậm giao hàng” cũng của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên Báo Diễn
đàn doanh nghiệp, ngày 22/3/20107, trong đó tác giả đã phân tích căn cứ mà tịa án
tuyên bố hủy hợp đồng trong vụ tranh chấp giữa Công ty Diversitel Communications
Inc. (Canada) và Công ty Glacier Bay Inc. (Mỹ) là do người bán Mỹ không giao hàng
khi hết thời hạn quy định trong hợp đồng. Tranh chấp này đã được xét xử tại Tịa Cơng
lý tối cao tại Ontario (Canada), phán quyết tuyên ngày 6/10/2003.

6

Nguyễn
Minh
Hằng,
Vi
phạm

bản
hợp
đồng,
tham
khảo

tại
truy cập ngày 11/2/2011.
7
Nguyễn
Minh
Hằng,
Hủy
hợp
đồng
do
chậm
giao
hàng,
tham
khảo
tại
/>truy
cập
ngày
11/2/2011.


9
Bài viết “Hoàn thiện chế định hợp đồng” của tác giả Phan Chí Hiếu đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2005, trong đó tác giả này cho rằng khái niệm vi
phạm cơ bản là một sự vi phạm nghiêm trọng và cần có giải thích thế nào là vi phạm
nghiêm trọng.
Bài viết “Vi phạm cơ bản hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 9/2004 đã giải nghĩa thuật ngữ “cơ bản”, “vi phạm cơ bản”.
Tác giả này nhấn mạnh một số văn bản quốc tế về hợp đồng như PICC, PECL đều

không sử dụng khái niệm “vi phạm cơ bản”. Theo quan điểm của tác giả này, không
nên tiếp nhận từ nước ngồi những thuật ngữ cũ hoặc khơng rõ ràng, gây khó khăn
trong áp dụng thống nhất.
Như vậy, có thể thấy các cơng trình, bài viết của các tác giả ở Việt Nam mới chỉ
đề cập đơn lẻ đến vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng…Chưa có cơng trình nào
nghiên cứu vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối quan hệ
với pháp luật Việt Nam về cùng vấn đề.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Ở nước ngồi, cũng có một số cơng trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp
đồng liên quan đến đề tài của luận án đã được cơng bố. Tiêu biểu trong số đó là:
Cuốn sách của tác giả Djakhongir Saidov có tên: “The Law of Damages in
International Sales: The CISG and other International Instruments” (Dịch ra tiếng
Việt là Luật bồi thường thiệt hại trong mua bán quốc tế: Công ước Viên và các công
cụ quốc tế khác) được Nxb Hart Publishing xuất bản năm 2008. Sau khi phân tích
Cơng ước Viên với ý nghĩa như là Luật bồi thường thiệt hại trong mua bán hàng hóa
quốc tế, tại Chương 5 của cuốn sách này, tác giả Djakhongir Saidov đã phân tích về
khả năng tiên liệu thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra – một trong nhưng yếu
tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên. Nói cách khác, tác giả này
phân tích thiệt hại do vi phạm hợp đồng với ý nghĩa là yếu tố cấu thành vi phạm cơ
bản hợp đồng.
Cuốn sách của tác giả Benjamin K.Leisinger có nhan đề: “Fundamental Breach
considering Non-conformity of the goods” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp
đồng – xem xét về tính khơng phù hợp của hàng hóa) được Nxb Sellier European Law
Publishers xuất bản năm 2007, trong đó phân tích một số vụ tranh chấp liên quan đến
nghĩa vụ của các bên về giao hàng thiếu, giao hàng chậm, giao hàng kém chất


10
lượng…với ý nghĩa nhấn mạnh vào tính chất khơng phù hợp của hàng hóa khi một bên
vi phạm hợp đồng và coi tính khơng phù hợp của hàng hóa đến mức như thế nào thì sẽ

cấu thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng.
Cơng trình nghiên cứu của tác giả Jorge Ivan Salazar Tamez: “The CISG
Remedies of Specific Performance, Damages and Avoidance, Compared to the
Equivalent in the Mexican Law on Sales” (Dịch ra tiếng Việt là Các chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng, so sánh với các chế tài có
liên quan trong Luật mua bán của Mexico) được Nxb ProQuest Information and
Learning Company xuất bản năm 2007. Cơng trình này nghiên cứu các chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng theo Luật mua bán của
Mexico và đặt chúng trong mối quan hệ với khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng là
điều kiện tiên quyết để áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo Công ước Viên.
Bài viết “Fundamental Breach of Contract under the CISG: A Controversial
Rule” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên: Một quy
tắc gây tranh cãi) của tác giả Eduardo Grebler, được đăng trên Tạp chí Proceedings of
the Annual Meeting (American Society of International Law), Vol. 101 (năm 2007).
Trong bài viết này, tác giả Eduardo Grebler đã bình luận Điều 25 Cơng ước Viên cả về
mặt hình thức lẫn nội dung. Theo tác giả này, về mặt hình thức, việc dịch ra nhiều thứ
tiếng có thể tạo sự khơng thống nhất trong cách hiểu về Điều 25 Công ước Viên. Về
mặt nội dung, tác giả này cho rằng tính chất cơ bản của vi phạm cơ bản hợp đồng phụ
thuộc vào cái gọi là sự tước đi đáng kể lợi ích của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, thế nào
là sự tước đi đáng kể lợi ích của bên bị vi phạm lại khơng được giải thích bởi Cơng
ước Viên. Điều này gây khó khăn và do đó trong thực tiễn, vấn đề này do cơ quan giải
quyết tranh chấp tự xem xét và quyết định. Trên cơ sở đó, Eduardo Grebler cho rằng
đây là bất cập của chính Cơng ước Viên liên quan đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp
đồng được quy định tại Điều 25 Công ước Viên.
Bài viết “Fundamental Breach of Contract under the UN Sales Convention – 25
years of Article 25 CISG” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công
ước viên – 25 năm của Điều 25 Công ước Viên), của tác giả Franco Ferrari đăng trên
tạp chí 25 J.L. & Com. 489 (năm 2006). Bài viết này đã phân tích khái niệm vi phạm
cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên dưới góc độ xem xét mức độ của sự vi phạm hợp
đồng, về mức độ của tổn hại với ý nghĩa là những điều kiện tiên quyết để xác định cái



11
gọi là vi phạm cơ bản hợp đồng và khả năng mà người ta có thể tiên liệu được về
những hậu quả do sự vi phạm hợp đồng đó gây ra. Bài viết này cũng xem xét hành vi
vi phạm cơ bản hợp đồng từ phía người bán trong những tình huống cụ thể như người
bán giao hàng có khiếm khuyết, người bán giao chứng từ chậm hoặc giao chứng từ
không phù hợp với hợp đồng.
Bài viết “The Concept of fundamental breach: Perspectives from the CISG,
UNIDROIT Principles and PECL and case law” (Dịch ra tiếng Việt là Khái niệm vi
phạm cơ bản hợp đồng: triển vọng từ Công ước Viên, những nguyên tắc UNIDROIT,
PECL và án lệ) của tác giả Chengwei Liu đăng trên tạp chí 20 J.L. & Com. 460 (năm
2005). Bài viết này sau khi giới thiệu khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy
định tại Điều 25 Công ước Viên, khoản 1 Điều 7.3.1 Bộ nguyên tắc UNIDROIT và
Điều 8:103 của PECL, tác giả Chengwei Liu kết luận rằng cả 3 quy định này là tương
tự nhau mặc dù ngôn từ và nội dung của mỗi điều khoản có một số điểm khác nhau.
Bài viết “Fundamental Breach and the CISG - a Unique Treatment or Failed
Experiment?” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản và Công ước Viên – cách xử lý
duy nhất hay thử nghiệm thất bại) của tác giả Bruno Zeller đăng trên tạp chí 8
Vindobona Journal of International Commercial Law & Arbitration 81 (năm 2004) là
bài đưa ra quan điểm cho rằng việc giải thích Điều 25 Cơng ước Viên cần phải dựa
vào ý định của các bên giao kết hợp đồng và phải phân tích ý nghĩa của Điều 25 trong
mối quan hệ với hệ thống các chế tài của Cơng ước Viên đã quy định. Từ đó, tác giả
này cho rằng khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng cần phải được tiếp cận từ vai trò của
khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên hơn là chỉ giải thích nó theo
nghĩa đen.
Bài viết “Avoidance and the notion of fundamental breach under the CISG: An
English perspecitive” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy bỏ hợp đồng và khái niệm vi phạm cơ
bản theo Công ước Viên) của tác giả Darren Peacock đăng trên tạp chí 8 Int’l Trade &
Bus. L. Ann. 95 (năm 2003). Bài viết này, sau khi trình bày khái quát về lịch sử ra đời

của Điều 25 Cơng ước Viên, đã phân tích các khái niệm về “vi phạm”, “tổn hại” và
“khả năng tiên liệu” được sử dụng tại chính khái niệm vi phạm cơ bản trong Điều 25
Công ước Viên. Tác giả của bài viết này cũng so sánh cơ chế áp dụng chế tài hủy hợp
đồng đối với người mua và người bán theo Công ước Viên với cơ chế hủy hợp đồng
theo quy định Luật mua bán hàng hóa của Anh năm 1979.


12
Bài viết “Case law on the concept of fundamental breach in the Vienna Sales
Convention” (Dịch ra tiếng Việt là Án lệ về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo
Công ước Viên) của tác giả Leonardo Graffi đăng trên tạp chí Int'l Bus. L.J. 338 (năm
2003). Trong bài viết này, dựa trên nội dung quy định của Điều 25 Công ước Viên, tác
giả này chia khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng ra hai góc độ để phân tích, đó là góc
độ liên quan đến bên có quyền lợi bị vi phạm với cái gọi là “tổn hại đáng kể”, “mong
muốn của người này trên cơ sở hợp đồng” và góc độ liên quan đến người vi phạm với
cái gọi là “khả năng tiên liệu”, “người có lý trí ở vào địa vị và hồn cảnh tương tự”. Từ
đó, tác giả này đã phân tích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong những tình
huống vi phạm cụ thể của các bên như chậm thực hiện hợp đồng, hàng hóa được giao
có khiếm khuyết.
Bài viết “The Concept of fundamental breach as an International Principle to
create uniformity of commercial law” (Dịch ra tiếng Việt là Khái niệm vi phạm cơ bản
hợp đồng như là nguyên tắc quốc tế để thống nhất pháp luật thương mại) của tác giả
Clemens Pauly đăng trên tạp chí 19 J.L. & Com. 221 (năm 2000). Tác giả này sử dụng
phương pháp phân tích theo nghĩa đen của khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo
Cơng ước Viên và có so sánh với Điều 2 Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ
(UCC) và Luật nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự của Đức (Bürgerliches Gesetzbuch). Bài
viết này phân tích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng thông qua 3 vụ tranh chấp được
giải quyết bởi tịa án Đức, đó là: Vụ "Fabrics in Wrong Color" (giao vải sai màu),
"Cobalt Sulphate of Different Quality" (Colablt Sulphate không phù hợp về chất
lượng) và "Compressors of Lower Cooling” (máy nén làm lạnh kém) để nêu ra quan

điểm riêng khi vận dụng quy định của Điều 25 Công ước Viên vào các vụ việc tranh
chấp cụ thể.
Bài viết “The Concept of fundamental Breach of Contract under the United
Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG)” (Dịch
ra tiếng Việt là Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) của tác giả Robert Koch đăng trong Cuốn
“Review of the Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG)”
năm 1998. Tác giả này đã giới thiệu một phương pháp giải thích khái niệm vi phạm cơ
bản hợp đồng đang được tịa án tối cao Đức áp dụng. Đó là phương pháp dựa trên
thuật ngữ có kết hợp chặt chẽ với việc trả lời câu hỏi nhằm xác định rõ mục đích của


13
hợp đồng có bị mất đi do hành vi vi phạm hay không và xác định bên bị vi phạm có
cần áp dụng chế tài hủy hợp đồng hoặc giao hàng thay thế hay khơng.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp đồng như đã nêu ở
trên, cịn có một số cơng trình phân tích về chế tài hủy hợp đồng, theo hướng nhấn
mạnh rằng vi phạm cơ bản hợp đồng là một trong những điều kiện để áp dụng chế tài
này. Ví dụ, bài viết “Avoidance for Breach under the Vienna Convention: A Critical
Analysis of Some of the Early Cases” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy hợp đồng do vi phạm
theo Công ước Viên: phân tích một số vụ tranh chấp) của tác giả Alastair Mullis đăng
trong Andreas & Jarborg eds., Anglo-Swedish Studies in Law, Lustus Forlag, năm
1998; Bài viết “The remedial provisions of the Vienna Convention on the international
sale of goods 1980: A small business perspective” (Dịch ra tiếng Việt là Quy định chế
tài của Công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980: triển vọng
kinh doanh nhỏ) của tác giả David G.Fagan đăng trên tạp chí the Journal of Small &
Emerging Business Law, Vol.2:317 (năm 1998); Bài viết “Avoidance of the contract in
case of non-conforming goods (Article 49(1)(a) CISG)” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy hợp
đồng khi hàng hóa khơng phù hợp hợp đồng (Điều 49(1)(a)) của tác giả Ingeborg
Schwenzer đăng trên tạp chí Journal of Law and Commerce, Vol.25:437 (năm 2005);

Bài viết “Avoidance in non-payment situations and fundamental breach under the
1980 U.N Convention on contracts for the international sale of goods” (Dịch ra tiếng
Việt là Hủy hợp đồng trong trường hợp khơng thanh tốn và vi phạm cơ bản hợp đồng
theo Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) của tác giả Olof
Clausson đăng trên tạp chí N.Y.L.Sch.J.Int’l & Comp.L, Vol.6 (năm 1986); Bài viết
“Cancellation for “material” or “fundamental” breach: A comparative analysis of
South African Law, the UN Convention on contracts for the international sale of goods
(CISG) and the UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts” (Dịch
ra tiếng Việt là Chấm dứt hợp đồng do vi phạm cơ bản: phân tích so sánh Luật Nam
phi, Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và Những nguyên tắc
UNIDROIT về hợp đồng thương mại) của tác giả Tjakie Naudé đăng trên tạp chí
Stellenbosch L.Rev, Vol.12 (năm 2001) v.v…
Các cơng trình nêu trên đã phân tích việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo
Điều 49, Điều 51, Điều 64, Điều 72 và Điều 73 Công ước Viên. Đây là những tài liệu
tham khảo bổ ích vì nó giúp tác giả Luận án Tiến sĩ hiểu rõ hơn về mục đích cuối cùng


14
của quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng là nhằm để giúp các bên trong hợp đồng
MBHHQT có thể áp dụng chế tài hủy hợp đồng, giao hàng thay thế nếu sự vi phạm
hợp đồng của một bên là vi phạm cơ bản.
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Như đã trình bày ở trên, những cơng trình nghiên cứu ngồi nước phân tích dưới
nhiều góc độ khác nhau về vi phạm cơ bản hợp đồng với ý nghĩa là khái niệm được
quy định tại Điều 25 Công ước Viên và điều kiện áp dụng chế tài yêu cầu giao hàng
thay thế, hủy hợp đồng theo quy định tại các Điều 46, 49, 51, 64,70, 72 và Điều 73
Cơng ước Viên. Trong khi đó, ở Việt Nam thì chưa có cơng trình nào nghiên cứu trực
tiếp khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên mà đơn thuần chỉ là
những quan điểm phản ánh sự khó khăn do tính phức tạp trong quy định về vi phạm cơ
bản hợp đồng tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại. Nhìn chung, các bài viết, cơng

trình nghiên cứu chưa đề cập một cách chuyên sâu, toàn diện về những vấn đề liên
quan đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và theo pháp luật
Việt Nam nhằm làm rõ những bất cập của cả Công ước Viên và của cả pháp luật Việt
Nam về vấn đề này. Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước
liên quan đến đề tài luận án, tác giả đưa ra những nhận định như sau:
1.1.3.1. Những vấn đề đã được giải quyết
- Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên cịn mang tính trừu
tượng, do đó, nhiều tác giả nước ngồi đã phân tích về tổn hại và mức độ tổn hại; về tính
khơng phù hợp của hàng hóa; về mục đích của việc giao kết hợp đồng.v.v…và coi đó là các
tiêu chí xác định tính chất cơ bản của hành vi vi phạm hợp đồng để giải thích khái niệm vi
phạm cơ bản hợp đồng được quy định trong Công ước Viên. Tùy theo cách tiếp cận, cách
hiểu của từng tác giả mà khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng nên được áp dụng như thế nào
trong thực tiễn. Quan điểm của các tác giả này có giá trị khoa học ở chỗ là họ đã “mổ xẻ”
khái niệm về vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên theo nhiều cách
tiếp cận. Điều này cho thấy khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên cũng
đang gây nhiều tranh luận và chưa có sự thống nhất.
- Một số cơng trình nghiên cứu của các tác giả ở nước ngoài đã tiếp cận khái niệm vi
phạm cơ bản hợp đồng với ý nghĩa là điều kiện để áp dụng chế tài hủy hợp đồng, giao hàng
thay thế. Điều này cho thấy, về mặt lý luận, các tác giả này đã hiểu khá thống nhất về mục


15
đích của quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng tại Điều 25 Công ước Viên là nhằm áp dụng
một số chế tài cụ thể khi có sự vi phạm hợp đồng MBHHQT.
- Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT, chế
tài hủy hợp đồng đã được trọng tài, tòa án một số nước áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản
hợp đồng. Tuy nhiên, cách xử lý của trọng tài, tịa án trong việc xác định tính cơ bản của vi
phạm hợp đồng để áp dụng chế tài tương ứng vẫn cịn chưa có sự thống nhất.
- Ở Việt Nam, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp đồng với ý
nghĩa là một chế định pháp luật, dù ở góc độ hợp đồng dân sự cũng như hợp đồng thương

mại và cả hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp về hợp đồng
MBHHQT cũng chưa có nhiều án lệ về vận dụng các quy định về vi phạm cơ bản trong
Luật Thương mại để xem xét việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng hay chế tài đình chỉ
thực hiện hợp đồng và tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
1.1.3.2. Những vấn đề cịn bỏ ngỏ
- Chưa có cơng trình hay Luận án tiến sĩ Luật học nào nghiên cứu một cách cụ
thể, toàn diện những vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong
mối liên hệ, so sánh với các quy định này của pháp luật Việt Nam.
- Chưa có các cơng trình nghiên cứu, đánh giá hay nhận xét về những khó khăn
trong việc vận dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng
và cũng chưa có các cơng trình nghiên cứu về việc áp dụng các chế tài khi có sự vi
phạm cơ bản trong thực hiện hợp đồng thương mại của doanh nghiệp Việt Nam, đặc
biệt là chế tài hủy bỏ hợp đồng.
- Chưa có các cơng trình nghiên cứu những bất cập của pháp luật Việt Nam trong
các quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm đề xuất giải pháp sửa đổi và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Có thể khẳng định đây là Luận án tiến sĩ Luật học đầu tiên nghiên cứu vấn đề về
vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối quan hệ với pháp luật Việt
Nam và định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Vi phạm cơ bản hợp đồng hợp đồng là gì? Cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với
vi phạm cơ bản hợp đồng?
- Công ước Viên quy định như thế nào về vi phạm cơ bản hợp đồng, có điểm
nào tương đồng hay khác biệt với quy định về vi phạm cơ bản theo pháp luật Việt


16
Nam? Các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và thực tiễn xác định
các yếu tố này của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên Công ước như thế nào?

Quy định và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng
theo pháp luật Việt Nam có những bất cập gì? Định hướng hồn thiện, khắc phục
những bất cập đó?
- Khi có vi phạm cơ bản hợp đồng, bên vi phạm phải gánh chịu chế tài nào theo
Cơng ước Viên, có điểm nào tương đồng hay khác biệt với các chế tài do vi phạm cơ
bản hợp đồng theo pháp luật Việt Nam? Thực tiễn vận dụng các chế tài đó của tịa án,
trọng tài của một số quốc gia thành viên Công ước ra sao? Bất cập trong quy định và
thực tiễn áp dụng chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo pháp luật Việt Nam là gì?
Định hướng hồn thiện, khắc phục những bất cập đó?
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Vi phạm cơ bản hợp đồng là vấn đề có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với pháp luật
về hợp đồng và thực hiện hợp đồng. Vì vậy, các lý thuyết về hợp đồng, hiệu lực hợp
đồng, vi phạm hợp đồng, nguyên tắc tuân thủ hợp đồng (pacta sun sevanda) sẽ là cơ sở
cho những luận giải, đề xuất của luận án. Bên cạnh đó, học thuyết về tàu đi chệch
hướng – nền tảng của học thuyết vi phạm cơ bản hợp đồng cũng là cơ sở lý thuyết
nghiên cứu của luận án. Lý thuyết về kinh tế, thương mại, quan hệ cung cầu trong
thương mại cũng được sử dụng làm cơ sở nghiên cứu của luận án.
1.2.3. Các giả thuyết nghiên cứu
- Vi phạm cơ bản hợp đồng ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của bên bị vi phạm,
địi hỏi chế tài áp dụng phù hợp tác động lên hiệu lực của hợp đồng nhằm đảm bảo
quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng. Tính cơ bản của hành vi vi phạm hợp đồng
được xác định trên cơ sở lợi ích mà các bên mong muốn khi giao kết hợp đồng, không
phụ thuộc vào việc tồn tại hay không tồn tại thiệt hại.
- Quy định pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản có những điểm tương đồng
và khác biệt với Công ước Viên. Bản chất pháp lý của vi phạm cơ bản hợp đồng theo
Công ước Viên và pháp luật Việt Nam là dựa trên yếu tố về lợi ích mà bên bị vi phạm
mong muốn từ hợp đồng bị tước đi đáng kể. Vì vậy, tổn hại/thiệt hại do hành vi vi
phạm hợp đồng không phải là yếu tố bắt buộc khi xác định vi phạm cơ bản hợp đồng.
- Chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng là cơ sở nhằm đảm bảo kịp thời quyền và
lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Quy định pháp luật Việt Nam về chế tài do vi



17
phạm cơ bản hợp đồng có những điểm tương đồng và khác biệt với Công ước Viên.
Hậu quả pháp lý nặng nề do vi phạm cơ bản hợp đồng có thể là hợp đồng bị tạm
ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện và bị hủy bỏ. Vì thế, trước khi bên bị vi phạm cơ
bản hợp đồng lựa chọn chế tài này, bên vi phạm cần được trao quyền khắc phục, sửa
chữa nhằm loại trừ tính cơ bản của vi phạm hợp đồng.
1.2.4. Về hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
- Là luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Luật kinh tế, phương pháp tiếp cận
của đề tài là dùng các phương pháp nghiên cứu truyền thống, phù hợp với phương
pháp nghiên cứu luật học để xem xét và luận giải những vấn đề thuộc nội dung nghiên
cứu của Luận án. Đó là các phương pháp hệ thống hóa, thống kê, phân tích-tổng hợp
nhằm nêu bật những bất cập ngay trong quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng của
Công ước Viên và của pháp luật Việt Nam.
- Như tên gọi của luận án đã cho thấy, việc nghiên cứu vấn đề vi phạm cơ bản
hợp đồng theo Công ước Viên phải được đặt trong mối quan hệ với việc xem xét vấn
đề về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam nhằm đề xuất giải pháp sửa
đổi các quy định tỏ ra chưa phù hợp trong pháp luật Việt Nam về vấn đề này, do đó,
phương pháp tiếp cận quan trọng của luận án là dựa trên phương pháp luật học so
sánh. Phương pháp luật học so sánh sẽ giúp tìm ra những điểm tích cực, cả trong lý
thuyết và thực tiễn, những điểm bất cập của chính khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng
để từ đó xây dựng được định hướng sửa đổi pháp luật Việt Nam.
- Mặc dù Công ước Viên chỉ điều chỉnh hợp đồng MBHHQT và mục đích của
những quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên là nhấn mạnh
quyền của bên bán (hoặc bên mua) được áp dụng chế tài hủy hợp đồng khi bên mua
(hoặc bên bán) có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Tuy nhiên, trong pháp luật Việt Nam
lại khơng có đạo luật dành riêng cho hợp đồng MBHHQT. Do vậy, hướng tiếp cận của
đề bài nghiên cứu là phải lập luận để làm rõ những điểm tích cực trong các quy định
của Công ước Viên về vi phạm cơ bản hợp đồng làm cơ sở kiến nghị hoàn thiện quy

định về vi phạm cơ bản hợp đồng thương mại của Việt Nam bởi vi phạm cơ bản hợp
đồng không bị chi phối hay ảnh hưởng bởi loại hợp đồng.
1.2.5. Kết quả nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng, cơ chế điều chỉnh
pháp luật đối với vi phạm cơ bản hợp đồng.


18
- Làm rõ quy định và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi
phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Cơng ước Viên (có so sánh
với quy định pháp luật Việt Nam).
- Phân tích và làm rõ những bất cập trong các quy định pháp luật Việt Nam về vi
phạm cơ bản và bất cập trong việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn. Từ đó, đề
xuất định hướng và giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng và chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận án được hoàn thành trên cơ sở của phương
pháp luận nghiên cứu là chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Ngoài ra, để hoàn thiện luận án, các phương pháp nghiên cứu tổng hợp dưới đây
cũng được sử dụng như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp,
hệ thống hóa và phương pháp so sánh luật học, cụ thể:
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 3, 4
của luận án. Bằng việc thống kê, phân tích các vụ tranh chấp có liên quan đến vi phạm
cơ bản hợp đồng, tác giả tổng hợp thành 2 nhóm vấn đề liên quan đến vi phạm cơ bản
hợp đồng do cơ quan giải quyết tranh chấp xử lý trong các vụ tranh chấp về hợp đồng
MBHHQT có áp dụng Cơng ước Viên, đó là các yếu tố xác định tính cơ bản của vi
phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất
cả các chương của luận án. Cụ thể là được sử dụng để đi sâu vào tìm tịi, trình bày các
quan điểm về vi phạm cơ bản hợp đồng, cơ chế pháp luật điều chỉnh vi phạm cơ bản

hợp đồng (Chương 2); Làm rõ các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng
và chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và thực tiễn vận dụng quy
định này; Từ đó, phân tích những bất cập trong quy định có liên quan của pháp luật
Việt Nam và đề xuất định hướng, giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng (Chương 3, 4).
- Phương pháp hệ thống hóa: Được sử dụng xun suốt tồn bộ luận án nhằm
trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận án theo một trình tự, một bố cục hợp lý,
chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục
đích, yêu cầu đã được xác định cho luận án.
- Phương pháp so sánh luật học: Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt
trong toàn văn luận án. Cụ thể là được vận dụng trong việc tham khảo, so sánh quy


19
định về vi phạm cơ bản hợp đồng, về chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công
ước Viên và pháp luật Việt Nam, Công ước Viên với quy định về vi phạm cơ bản hợp
đồng của một số quốc gia và tổ chức quốc tế. Đặc biệt, Chương 3, 4 của luận án, tác
giả sử dụng phương pháp này để so sánh và kiến nghị định hướng hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng, về chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng cho
phù hợp với thực tế của đất nước trong điều kiện hội nhập hiện nay.


×