Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ vốn đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-----------***------------

NGUYỄN NHẬT KHANH

PHÁP LUẬT VỀ
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ ĐẦU TƢ VỐN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng Mại

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-----------***------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ ĐẦU TƢ VỐN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN NHẬT KHANH
KHÓA: 35 – MSSV: 1055010117
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. TRẦN MINH HIỆP



TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
TơilàNguyễnNhậtKhanh – sinhviênlớp 11-2 Thươngmạikhóa 35,
trườngĐạihọcLuật TP. HồChí Minh,niênkhóa 2010 –
2014,làtácgiảcủaKhóaluậntốtnghiệpCửnhânLuật –
ChunngànhLuậtThươngmạivớiđềtài“Phápluậtvềthuếthunhậpcánhânđốivớithunhậpt
ừđầutưvốn” (sauđâygọilà “Khóaluận”).
Tơixin cam đoantấtcảcácnội dung
đượctrìnhbàytrongKhóaluậnđềuđượctriểnkhaitheoquanđiểmcủacánhântơidướisựhướngd
ẫncủaThạcsỹTrần Minh Hiệp – GiảngviênkhoaLuậtThươngmại, trườngĐạihọcLuật TP.
HồChí Minh. TrongKhóaluậncósửdụng, tríchdẫnmộtsố ý kiến,
quanđiểmkhoahọccủamộtsốtácgiả.Cácthơng
tinnàyđềuđượctríchdẫnnguồncụthểvàchínhxác.Cácsốliệu, thơng
tinđượcsửdụngtrongKhóaluậnlàhồntồnkháchquanvàtrungthực.
Sinhviênthựchiện

NguyễnNhậtKhanh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữviếttắt

Viếtđầyđủ

CTCP

Cơngtycổphần


ĐTV

Đầutƣvốn

GTGT

Giátrịgiatăng

NSNN

NgânsáchNhànƣớc

TNCN

Thu nhậpcánhân

TNDN

Thu nhậpdoanhnghiệp

TNHH

Tráchnhiệmhữuhạn

TTCK

Thịtrƣờngchứngkhốn

TTĐB


Tiêuthụđặcbiệt


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1.Tính cấp thiết của đề tài. ...................................................................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu ........................................................................................... 1
3.Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 3
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
5.Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4
6.Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài ............................................................ 4
7.Bố cục của khóa luận ........................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP TỪ ĐẦU TƢ VỐN VÀ QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ ĐẦU TƢ
VỐN ............................................................................................................................ 6
1.1 Những vấn đề lý luận chung về thu nhập từ đầu tƣ vốn ............................. 6
1.1.1 Khái niệm thu nhập từ đầu tư vốn ............................................................. 6
1.1.2 Đặc điểm thu nhập từ đầu tư vốn ............................................................... 7
1.1.2.1 Thu nhập từ đầu tư vốn mang lại lợi ích hợp pháp cho chủ sở hữu thu nhập 7
1.1.2.2 Thu nhập từ đầu tư vốn là khoản thu nhập không thường xuyên ....... 8
1.1.2.3 Thu nhập từ đầu tư vốn chỉ phát sinh khi thỏa mãn những điều kiện nhất định
......................................................................................................................... 9
1.1.3 Cơ sở lý luận cho việc quy định thu nhập từ đầu tư vốn là đối tượng chịu thuế thu
nhập cá nhân ..................................................................................................... 10
1.1.3.1 Lịch sử pháp luật thuế thu nhập cá nhân trong việc quy định thu nhập từ đầu tư
vốn là đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân ................................................ 10
1.1.3.2 Sự cần thiết trong việc xác định thu nhập từ đầu tư vốn là đối tượng chịu thuế
thu nhập cá nhân ........................................................................................... 12
1.2 Quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tƣ vốn 14

1.2.1 Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn .... 14
1.2.2 Thu nhập từ đầu tư vốn chịu thuế thu nhập cá nhân ................................ 18
1.2.3 Thu nhập từ đầu tư vốn được miễn thuế thu nhập cá nhân ...................... 21
1.2.4 Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn ......... 24
1.2.4.1 Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn .......................... 24


1.2.4.2 Thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn ..... 25
1.2.5 Quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn ............... 27
1.2.5.1 Đăng ký thuế và cấp mã số thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư
vốn................................................................................................................. 27
1.2.5.2 Khai thuế, nộp thuế và khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập
từ đầu tư vốn ................................................................................................. 29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ....................................................................................... 31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ ĐẦU TƢ VỐN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ...................................................................................................................... 32
2.1 Quan điểm khác biệt về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tƣ vốn và
kiến nghị ............................................................................................................... 32
2.2 Hạn chế về mặt lập pháp của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ
đầu tƣ vốn và kiến nghị ...................................................................................... 37
2.3 Bất cập trong quy định về thu nhập từ cổ phiếu thƣởng và kiến nghị .... 38
2.4 Bất cập trong quy định về thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ và kiến
nghị……………………………………………………………………………...42
2.5 Bất cập trong việc bảo đảm nguyên tắc công bằng và kiến nghị .............. 43
2.6 Hạn chế trong quy định về thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ
đầu tƣ vốn và kiến nghị ...................................................................................... 47
2.7 Hạn chế trong quản lý thu nhập từ đầu tƣ vốn và kiến nghị .................... 49

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2…………………………………………………….52

KẾT LUẬN………………………………………………………………..….53


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.

Trong điều kiện nền kinh tế ở nước ta hiện nay, các hoạt động sản xuất kinh
doanh, đầu tư, cung ứng dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú. Môi trường đầu tư
ngày càng được mở rộng với đa dạng các loại hình như thị trường vốn – tiền tệ, thị
trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học cơng nghệ, thị trường
chứng khốn (TTCK), v.v đã tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư vốn (ĐTV) và dịch
vụ ngày càng phát triển, các hình thức ĐTV ngày càng đa dạng với nhiều cách thức
như: đầu tư vào chứng khoán; gửi tiết kiệm ngân hàng; cho vay; góp vốn đầu tư bằng
danh tiếng, bằng hiện vật, bằng quyền sử dụng đất, v.v đã mang lại nguồn thu nhập
đáng kể cho cá nhân đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy, việc áp thuế Thu nhập cá nhân
(TNCN) đối với hoạt động ĐTV là thực sự cần thiết, góp phần thực hiện mục đích điều
tiết của thuế TNCN là thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá
nhân cho ngân sách Nhà nước (NSNN). Đồng thời, Nhà nước sẽ nắm được thông tin về
thu nhập của các cá nhân trong công tác quản lý thuế, hạn chế tình trạng trốn thuế, gian
lận thuế, góp phần phịng chống tham nhũng và lãng phí.
Tuy nhiên, quy định của pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV vẫn còn
tồn tại nhiều hạn chế và bất cập, do đây là đối tượng chịu thuế mới trong pháp luật thuế
TNCN nên những quy định của pháp luật cũng như q trình thực thi trên thực tế cịn
gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để đảm bảo tính hợp lý trong các quy định cũng như tính
khả thi khi áp dụng các quy định của pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV
trên thực tế đòi hỏi cần phải nghiên cứu, đánh giá để đưa ra những kiến nghị giúp nhà
lập pháp có những sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật thuế TNCN cho phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát

từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với
thu nhập từ đầu tư vốn” để nghiên cứu và hồn thành Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân
Luật.
2. Tình hình nghiên cứu

Tính đến nay (tháng 4/2014), các đề tài liên quan đến pháp luật thuế TNCN đã
được nghiên cứu khá nhiều ở các phương diện khác nhau từ những vấn đề lý luận chung
mang tính tổng quát đến việc phân tích, đánh giá các chế định và quy định cụ thể. Qua
quá trình tìm hiểu, tác giả đã được tiếp cận các cơng trình nghiên cứu về pháp luật thuế
TNCN ở nhiều cấp độ khác nhau. Cụ thể:
Ở cấp cử nhân, tại trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, có đề tài “Luật thuế
TNCN và các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả áp dụng trên thực tế” của tác giả Trần
Thị Ánh Minh năm 2008, “Pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế TNCN”của tác
giả Lê Thị Thu Sang năm 2009, “Chế độ pháp lý về đăng ký, kê khai và nộp thuế


2

TNCN” của tác giả Nguyễn Thành Luân năm 2011, “Pháp luật về thuế TNCN đối với
tiền lương, tiền công” của tác giả Đoàn Thị Xuân năm 2011, “Pháp luật về thuế TNCN
đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Phấn năm 2011.
Ở cấp thạc sỹ, tại Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, có đề tài “Nguyên tắc công bằng
trong pháp luật thuế TNCN” của tác giả Phan Phương Nam năm 2006, “Những giải
pháp pháp lý nhằm ngăn chặn hiện tượng trốn thuế TNCN trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh” của tác giả Trịnh Thị Thu Thủy năm 2007, “Quy định về giảm trừ gia cảnh
trong luật thuế TNCN” của tác giả Đặng Thị Phụng năm 2008.
Bên cạnh đó, các đề tài nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp chí, các bài báo
chun ngành cũng có cái nhìn đa chiều về pháp luật thuế TNCN. Điển hình là các bài
đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp như “Bản chất của thuế TNCN” của Trần Đình
Thiên, Vũ Thành Tự An năm 2006, “Vận dụng nguyên tắc công bằng trong ban hành

thuế TNCN” của Nguyễn Thị Thủy, Phan Phương Nam năm 2007; các bài đăng trên tạp
chí Luật học như: “Thực trạng pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay và hướng
hoàn thiện” của Trần Vũ Hoài năm 2007, “Về giảm trừ gia cảnh trong luật thuế TNCN
nhìn từ góc độ bình đẳng giới” của Nguyễn Thị Lan năm 2008, “Những vấn đề đặt ra
khi thực thi luật thuế TNCN ở Việt Nam” của Lê Thị Thanh Thủy năm 2009; các bài
đăng trên tạp chí Thuế Nhà nước như: “Thuế TNCN đối với đầu tư cổ phiếu – 6 vấn đề
đặt ra” của Hoàng Văn Huỳnh năm 2010, “Nâng mức khởi điểm chịu thuế sẽ làm mất ý
nghĩa của thuế TNCN” của Nguyễn Thị Cúc năm 2011, “Chính sách thuế TNCN của
Việt Nam trong mối tương quan với thế giới” của Đức Phương năm 2011, “Quản lý
thuế TNCN quá phức tạp” của Trần Xuân Thắng năm 2011; các bài đăng trên tạp chí
Khoa học pháp lý như: “Những điểm mới trong luật thuế TNCN năm 2007” của Phan
Phương Nam năm 2007, “Các quy định về thuế TNCN từ cổ tức trong luật thuế TNCN
năm 2007 – Nhìn từ ngun tắc cơng bằng trong luật thuế” của Lê Vũ Nam năm 2012.
Mỗi đề tài nghiên cứu đều có những giá trị khoa học và thực tiễn nhất định, đáp
ứng được nhu cầu cấp bách trong việc hoàn thiện và phát triển pháp luật thuế
TNCN.Tuy nhiên, chưa có bất cứ đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu đối với thu nhập từ
ĐTV. Trong điều kiện các thị trường vốn ngày càng mở rộng và phát triển, các hoạt
động ĐTV ngày càng đa dạng, việc nghiên cứu pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập
từ ĐTV sẽ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn nhất định. Nội dung chính của khóa luận sẽ
làm rõ các quy định của pháp luật thực định về thu nhập từ ĐTV đồng thời đề ra kiến
nghị nhằm giải quyết những bất cập hiện tại và hoàn thiện các quy định của pháp luật
thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV trên cơ sở tiếp thu, học hỏi và phát huy những
cơng trình nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích nghiên cứu


3

Thơng qua việc nghiên cứu trong phạm vi khóa luận này, tác giả mong muốn làm
rõ các nội dung sau đây:

Một là, làm rõ cơ sở lý luận về thu nhập từ ĐTV, tìm hiểu các quy định trong luật
thuế TNCN và các văn bản có liên quan để phân tích những quy định của pháp luật thực
định đối với thu nhập từ ĐTV như thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, thuế suất,
đăng ký, kê khai, quyết toán thuế v.v; đồng thời chỉ ra những khó khăn và hạn chế của
việc áp dụng pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV trên thực tế.
Hai là, qua việc phân tích, đánh giá những bất cập, tác giả đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV, tạo
cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách thuế một cách có hiệu quả, góp phần điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, tăng nguồn thu cho NSNN, tạo môi trường kinh doanh và cạnh
tranh lành mạnh, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của
các đối tượng nộp thuế, tăng cường phát triển kinh tế quốc gia và hội nhập kinh tế quốc
tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tác giả sẽ tập trung phân tích, đánh giá
những vấn đề lý luận chung về thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV, các quy định có
liên quan đến thu nhập từ ĐTV của Luật thuế TNCN năm 2007, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều luật thuế TNCN năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh
đó, khóa luận cũng liên hệ với các quy định có liên quan trong các đạo luật khác như
Luật Quản lý thuế năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế
năm 2012, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010 v.v để làm rõ các quy định của pháp luật
đối với thu nhập từ ĐTV.
Ngồi ra, khóa luận cịn nghiên cứu quy định về pháp luật thuế TNCN đối với thu
nhập từ ĐTV của một số nước trên thế giới như Pháp, Mỹ, Hàn Quốc, Canada, Nhật
Bản để rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện các quy định về pháp luật
thuế TNCN ở Việt Nam. Đề tài cũng tham khảo các quan điểm khoa học có liên quan
đến pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV của các học giả được đề cập trong
các đề tài nghiên cứu, các bài báo, bài viết tạp chí. Sử dụng các số liệu thực tiễn để làm
cơ sở cho những nội dung được trình bày trong khóa luận.

Khi nghiên cứu các quy định về quản lý thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV, tác
giả cũng chỉ nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đăng ký và cấp mã số thuế, khai thuế,
nộp thuế, và khai quyết tốn thuế, khơng nghiên cứu các nội dung liên quan đến thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế, v.v.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu


4

Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin
cùng quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật thuế TNCN được tác giả sử dụng
làm cơ sở cho việc nghiên cứu.Bên cạnh đó, khóa luận cịn sử dụng kết hợp các phương
pháp như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh pháp
luật, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử.
Trong nội dung chương I, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, phương
pháp lịch sử, phương pháp so sánh pháp luật để khái quát lịch sử hình thành, làm rõ cơ
sở lý luận và phân tích các nội dung cơ bản của pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập
từ ĐTV như đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, thuế suất, phương pháp tính thuế,
các quy định về đăng ký, kê khai, khấu trừ và hoàn thuế.
Ở chương II, tác giả sẽ sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp thống kê và
tổng kết thực tiễn để trình bày các hạn chế về mặt lý luận và thực tiễn khi áp dụng các
quy định của pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV. Phương pháp so sánh
pháp luật được dùng để so sánh các quy định của pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập
từ ĐTV ở Việt Nam với thông lệ quốc tế nhằm học hỏi kinh nghiệm trong pháp luật
thuế của các nước và đưa ra giải pháp hoàn thiện.
Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt nội dung của mỗi
chương và đưa ra kết luận chung cho tồn khóa luận.
6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài

Những nội dung nghiên cứu được trình bày trong khóa luận về pháp luật thuế

TNCN đối với thu nhập từ ĐTV sẽ đóng góp những giá trị khoa học nhất định cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Cụ thể:
Về mặt lý luận, khóa luận sẽ làm rõ cơ sở lý luận về thu nhập từ đầu vốn, phân tích
các quy định của pháp luật thuế TNCN đối với khoản thu nhập này. Khóa luận sẽ là tài
liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV,
đồng thời cung cấp các thông tin và kiến nghị để các nhà làm luật sử dụng làm tài liệu
tham khảo để ban hành các quy định pháp luật sao cho phù hợp với thực tế áp dụng.
Về mặt thực tiễn, đề tài sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc trên thực tế trong
thời gian qua khi thực thi pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV. Các giải pháp
được đề cập trong khóa luận sẽ giúp cho việc áp dụng các quy định của pháp luật thuế
TNCN đối với thu nhập từ ĐTV được tiến hành một cách thuận lợi và dễ dàng, đơn giản
hóa thủ tục cho người nộp thuế, giúp cơ quan thuế quản lý tốt thu nhập của cá nhân nhà
đầu tư và góp phần mang lại nguồn thu cho NSNN.
7. Bố cục của khóa luận

Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của
khóa luận được chia thành hai chương:


5

Chương 1: Lý luận chung về thu nhập từ đầu tư vốn và quy định của pháp luật thuế
thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn.
Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối
với thu nhập từ đầu tư vốn và kiến nghị hoàn thiện.


6

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP TỪ ĐẦU TƢ VỐN VÀ QUY

ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP
TỪ ĐẦU TƢ VỐN
1.1 Những vấn đề lý luận chung về thu nhập từ đầu tư vốn
1.1.1 Khái niệm thu nhập từ đầu tƣ vốn

Việc làm rõ khái niệm thu nhập từ ĐTV là một nhiệm vụ cơ bản cần thực hiện để
làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu của tồn bộ khóa luận. Trong lĩnh vực ngôn
ngữ cũng như trong quy định của pháp luật hiện hành chưa có một định nghĩa cụ thể về
thu nhập từ ĐTV. Để có thể định nghĩa một cách cơ bản khái niệm này, trước hết ta cần
phải làm rõ nội hàm của các bộ phận cấu thành nên khái niệm, bao gồm các khái niệm
thành phần: thu nhập, đầu tư và vốn.
“Thu nhập” được định nghĩa là tổng các giá trị tài sản và của cải được biểu hiện
dưới hình thức tiền tệ mà một cá nhân nào đó nhận được từ các nguồn lao động, tài sản
hay đầu tư thơng qua q trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) 1.“Thu nhập” còn được hiểu
là cơ hội tiêu dùng và tiết kiệm mà một đối tượng có được trong một khung thời gian cụ
thể2.Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về thu nhập nhưng tựu chung lại thu nhập
là khái niệm được xác định bởi các yếu tố sau:Thứ nhất, bản chất của thu nhập là một
khoản lợi ích mà người có thu nhập nhận được. Lợi ích này có thể tồn tại dưới dạng các
giá trị vật chất như tiền, vàng, cổ phiếu, tài sản hoặc các quyền lợi vật chất như quyền
chọn mua, quyền chọn bán chứng khốn, quyền sử dụng các dịch vụ v.v.Thứ hai,có một
khoảng thời gian xác định để xác định thu nhập. Khoảng thời gian này có thể tính theo
từng lần phát sinh thu nhập hoặc tính theo giờ, ngày, tuần, tháng, quý, năm. Các thời
điểm này chính là các mốc thời gian để xác định thu nhập.Thứ ba,thu nhập luôn gắn liền
với một chủ thể nhất định trong xã hội. Chủ thể này chính là chủ sở hữu thu nhập. Một
chủ thể có thể nhận được thu nhập thơng qua nhiều kênh khác nhau như: thu nhập từ
tiền lương, tiền công, thu nhập từ ĐTV, thu nhập từ kinh doanh v.v. Thơng qua q
trình hoạt động, các thủ thể trong xã hội mong muốn nhận lại được một lợi ích đó chính
là thu nhập.
Bộ phận thứ hai cần làm rõ là khái niệm về “đầu tư”, tùy vào phạm vi nghiên cứu

mà hình thành nên các khái niệm khác nhau về đầu tư.Ở góc độ ngơn ngữ, “Đầu tưlà bỏ
nhân lực, vật lực, tài lực vào cơng việc gì, trên cơ sở tính tốn hiệu quả kinh tế xã
hội3”.“Đầu tư” cịn được hiểu là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
1

Nguyễn Như Phát (2007), “Góp ý kiến dự thảo luật thuế thu nhập cá nhân”, Nhà nước và pháp luật, số 07/2007, tr.14-17.
Trung tâm Thông tin – tư liệu, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, “Vai trò của lương và thu nhập như là động
lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững”, Thông tin chuyên đề số 8/2012, tr.10.
3
Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.301.
2


7

hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai mà
kết quả này thường phải lớn hơn các chi phí về các nguồn lực đã bỏ ra4. Ở khía cạnh
quy định của pháp luật đầu tư, “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản
hữu hình hoặc vơ hình để hình thành tài sản, tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy
định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan5”.
Bộ phận thứ ba là khái niệm“vốn”.“Vốnlà tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản
xuất kinh doanh nhằm sinh lợi6”. Vốn là biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ
ra để đầu tư. Các nguồn lực có thể là của cải vật chất, là tài nguyên thiên nhiên, là sức
lao động, là các tài sản vật chất khác.Có nhiều tiêu chí để phân loại vốn: Ở góc độ pháp
luật, vốn tồn tại dưới dạng vốn pháp định, vốn điều lệ; Theo tiêu chí hình thành nguồn
vốn có vốn đầu tư ban đầu, vốn bổ sung, vốn đi vay, vốn liên doanh; Theo góc độ chu
chuyển của vốn, vốn được chia thành vốn cố định và vốn lưu động v.v.
Từ các khái niệm thành phần nêu trên, có thể hiểu thu nhập từ ĐTV là tổng các
lợi ích vật chất mà các chủ thể nhận đƣợc thông qua hoạt động chuyển giao một
khoản vốn tiền tệ cho chủ thể khác sử dụng để thực hiện các hoạt động sản xuất,

kinh doanh.
1.1.2 Đặc điểm thu nhập từ đầu tƣ vốn

1.1.2.1 Thu nhập từ đầu tư vốn mang lại lợi ích hợp pháp cho chủ sở hữu thu
nhập
Trong đời sống xã hội, với sự phát triển của nền kinh tế, các khoản thu nhập do cá
nhân tạo ra ngày càng đa dạng hơn. Các khoản thu nhập này được hình thành từ các
quan hệ xã hội của cá nhân như quan hệ lao động, quan hệ thừa kế, quan hệ kinh doanh,
quan hệ chuyển nhượng, quan hệ tín dụng, quan hệ đầu tư, v.v nhưng dù xuất phát từ
nguồn nào thì các khoản thu nhập đều có một đặc điểm chung là mang lại lợi ích cho
chủ sở hữu thu nhập. Lợi ích này được biểu hiện dưới dạng giá trị vật chất hoặc các
quyền lợi vật chất. Nó có thể là một số tiền nhận được từ lao động (như tiền lương, tiền
công), từ hoạt động kinh doanh, từ chuyển nhượng tài sản, từ nhận thừa kế, tặng cho;
cũng có thể là quyền lợi vật chất như quyền được chăm sóc sức khỏe, vui chơi, giải trí,
thể thao, thẩm mỹ, quyền sử dụng các dịch vụ do bên trả thu nhập cung cấp.
Là một trong các loại thu nhập nên thu nhập từ ĐTV cũng mang đặc điểm chung
này. Trong nền kinh tế hiện nay, thị trường vốn – tiền tệ ngày càng được mở rộng và
phát triển, kéo theo đó là sự đa dạng của các hoạt động ĐTV như cho vay, gửi tiền, góp
vốn vào các doanh nghiệp v.v. Mục đích mà các chủ thể ĐTV hướng đến là nhận được
thu nhập, tuy nhiên cần lưu ý, thu nhập này phải là các khoản thu nhập hợp pháp. Khi
4

GS.TS Phạm Ngọc Kiểm, “Bàn về nội dung một số khái niệm liên quan đến vốn đầu tư phát triển” tại:
www.gso.gov.vn/Modules/Doc_Download.aspx%3FDocID%3D2835+&cd=1&hl=vi&ct=clnk&gl=vn.
5
Khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
6
Viện Ngôn ngữ học (2006), tlđd, tr.1126.



8

nhận được thu nhập, chủ sở hữu sử dụng các khoản thu nhập này để đáp ứng cho nhu
cầu sinh hoạt của bản thân và gia đình hoặc sử dụng thu nhập nhận được để tái đầu tư,
tất cả những hoạt động này đều mang lại những lợi ích nhất định cho chủ sở hữu thu
nhập, nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của họ. Nghiên cứu đặc điểm này có
ý nghĩa trong việc xác định diện điều tiết của thuế TNCN. Giống như hoạt động kinh
doanh, làm công ăn lương, chuyển nhượng vốn v.v, khi tiến hành các hoạt động ĐTV,
các chủ thể đầu tư sẽ nhận được thu nhập, do đó, để tránh bỏ sót nguồn thu và đảm bảo
công bằng trong việc điều tiết thuế nên thu nhập từ ĐTV cũng được đưa vào diện chịu
thuế TNCN.
1.1.2.2 Thu nhập từ đầu tư vốn là khoản thu nhập khơng thường xun
Trên thực tế có nhiều cách phân loại thu nhập tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Nếu căn cứ vào tính đều đặn hay khơng đều đặn của việc phát sinh thu nhập ta có thu
nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên7. Thu nhập thường xun là những
thu nhập có tính đều đặn, lặp đi lặp lại theo một chu kỳ nhất định. Các khoản thu nhập
thường xuyên giữ vai trò quan trọng đối với sự tồn tại của cá nhân, là nguồn thu nhập
chính để cá nhân duy trì cuộc sống của mình và những người phụ thuộc. Ngược lại, thu
nhập khơng thường xuyên là những thu nhập không đều đặn và ổn định, phát sinh một
cách ngẫu nhiên, nhất thời. Khác với các khoản thu nhập thường xuyên, các khoản thu
nhập khơng thường xun khơng nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cá
nhân có thu nhập.
Như đã đề cập ở mục 1.1.1, thu nhập từ ĐTV là tổng các lợi ích vật chất mà các
chủ thể nhận được thơng qua hoạt động ĐTV. Lợi ích mà các chủ thể hướng tới khi tiến
hành các hoạt động đầu tư đó là thu nhập, thu nhập này có thể tồn tại dưới các dạng
khác nhau như: tiền lãi nhận được từ việc cho vay dưới dạng hợp đồng vay hoặc thỏa
thuận vay, cổ tức nhận được từ việc góp vốn mua cổ phần, lợi tức nhận được từ việc
góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), thu nhập nhận được từ lãi trái phiếu,
tín phiếu, v.v. Hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau về tính thường xuyên của
thu nhập từ ĐTV. Theo ThS Trần Vũ Hải, thu nhập từ ĐTV là khoản thu nhập thường

xuyên vì đây là khoản thu nhập có được theo định kì (thường là một năm) 8. Theo quan
điểm của đa số học giả khác thì cho rằng thunhập từ ĐTV là thu nhập không thường
xuyên. Tác giả cũng đồng ý với quan điểm thứ hai, nên xếp thu nhập từ ĐTV vào khoản
thu nhập khơng thường xun vì đây là các khoản thu nhập không ổn định, chỉ phát sinh
khi có những điều kiện nhất định.
Pháp luật thuế TNCN có sự quy định khác nhau đối với các khoản thu nhập thường
xuyên và thu nhập không thường xuyên trong việc quy định về thu nhập tính thuế, kỳ
7

PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh (2002), Thuế TNCN và định hướng vận dụng ở Việt Nam, Nxb Tài chính, tr.10.
Trần Vũ Hải (2007), “Thực trạng pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay và phương hướng hoàn thiện”, Luật học, số
10/2007, tr.33.
8


9

tính thuế cũng như áp dụng biểu thuế suất, ưu đãi về thuế. Với tính chất là một khoản
thu nhập không thường xuyên, thu nhập từ ĐTV sẽ không được tính giảm trừ gia cảnh
khi xác định thu nhập tính thuế. Mặt khác, để đảm bảo đơn giản cho việc tính thuế, pháp
luật thuế TNCN quy định kỳ tính thuế đối với thu nhập từ ĐTV là theo từng lần phát
sinh thu nhập9 và được áp dụng biểu thuế suất tồn phần khi tính thuế10. Đặc điểm này
của thu nhập từ ĐTV sẽ ảnh hưởng đến cách thức điều tiết cũng như phương pháp đánh
thuế mà thuế TNCN áp dụng đối với thu nhập này, nội dung cụ thể sẽ được trình bày
trong mục 1.2 về quy định của pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV.
1.1.2.3 Thu nhập từ đầu tư vốn chỉ phát sinh khi thỏa mãn những điều kiện
nhất định
Khác với thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ kinh doanh là các khoản
thu nhập thường xuyên và cố định. Trong một số trường hợp, thu nhập từĐTV chỉ phát
sinh khi thỏa mãn những điều kiện nhất định:

Đối với thu nhập là lợi tức từ việc góp vốn vào cơng ty TNHH, cơng ty chỉ được
chia lợi nhuận cho các thành viên khi cơng ty kinh doanh có lãi, đã hồn thành nghĩa vụ
thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; đồng thời vẫn phải bảo
đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản đến hạn trả khác sau khi chia lợi
nhuận11.
Đối với thu nhập từ cổ tức khi góp vốn vào cơng ty cổ phần (CTCP), cổ đông chỉ
được nhận cổ tức khi thỏa mãn các điều kiện sau: Đối với cổ tức trả cho cổ phần ưu đãi
được thực hiện theo các điều kiện áp dụng riêng cho mỗi loại cổ phần ưu đãi. Đối với cổ
tức trả cho cổ phần phổ thông được xác định căn cứ vào số lợi nhuận ròng đã thực hiện
và khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của cơng ty. CTCP chỉ
được trả cổ tức cho cổ đông khi công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài
chính khác theo quy định của pháp luật; trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước
đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty; ngay sau khi trả hết số cổ tức đã
định, cơng ty vẫn phải bảo đảm thanh tốn đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến
hạn. Cổ tức có thể được chi trả bằng tiền mặt, bằng cổ phần của công ty hoặc bằng tài
sản khác quy định tại Điều lệ công ty.Nếu chi trả bằng tiền mặt thì phải được thực hiện
bằng đồng Việt Nam và có thể được thanh tốn bằng séc hoặc lệnh trả tiền gửi bằng bưu
điện đến địa chỉ thường trú của cổ đơng.Cổ tức có thể được thanh tốn bằng chuyển
khoản qua ngân hàng khi cơng ty đã có đủ chi tiết về ngân hàng của cổ đơng để có thể
chuyển trực tiếp được vào tài khoản ngân hàng của cổ đơng 12.Qua đó, có thể thấy điều
kiện để tiến hành trả cổ tức là CTCP phải hoạt động hiệu quả. Khác với lãi suất trái
9

Điều 6 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.
Điều 10 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.
11
Điều 61 Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
12
Khoản 1, 2 Điều 93 Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
10



10

phiếu là một khoản thu nhập cố định được tổ chức phát hành cam kết thanh toán cho các
nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu theo định kỳ và không phụ thuộc vào kết quả sản xuất,
kinh doanh của tổ chức phát hành, cổ tức luôn phụ thuộc vào kết quả sản xuất, kinh
doanh của CTCP và được chia từ lợi nhuận (thu nhập) rịng của năm tài chính gần nhất.
Điều đó cũng có nghĩa là, CTCP khơng được đi vay tiền hoặc lấy các nguồn vốn khác
ngoài lợi nhuận sau thuế của năm tài chính để trả cổ tức13.
Trường hợp nhận cổ tức bằng cổ phiếu, cá nhân chưa phải nộp thuế TNCN khi
nhận cổ phiếu. Khi chuyển nhượng số cổ phiếu này, cá nhân phải nộp thuế TNCN đối
với thu nhập từ ĐTV và thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán 14. Như vậy, trong
trường hợp này, cá nhân chưa phải khai và nộp thuế từ ĐTV khi nhận cổ phiếu.Nghĩa
vụ thuế TNCN của cá nhân chỉ phát sinh khi chuyển nhượng số cố phiếu này,lúc này cá
nhân sẽ tiến hành khai và nộp thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn và
thu nhập từ ĐTV.
Từ sự phân tích trên, có thể nhận thấy trong một số trường hợp, thu nhập từ ĐTV
chỉ phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện luật định. Chính đặc điểm này ảnh hưởng đến
tính chất thường xuyên trong việc nhận thu nhập cũng như cách thức pháp luật thuế
TNCN áp dụng để điều chỉnh thu nhập này.
1.1.3 Cơ sở lý luận cho việc quy định thu nhập từ đầu tƣ vốn là đối tƣợng chịu thuế
thu nhập cá nhân

1.1.3.1 Lịch sử pháp luật thuếthu nhập cá nhân trong việc quy định thu nhập
từ đầu tư vốn là đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển. Theo nhiều ghi nhận
cho thấy thuế TNCN xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới tại Anh vào năm 1798 như một
hình thức thu tạm thời và được chính thức áp dụng vào năm 1842. Nước Anh là nước
đại công nghiệp phát triển sớm và cực thịnh. Vào thời điểm đó, nền kinh tế phát triển đã

tạo nên nguồn thu nhập kếch xù cho các nhà tư bản nên việc nhận thức về thuế TNCN
cũng sớm được hình thành. Tiếp theo sau là các nước phát triển khác cũng cho ra đời
thuế TNCN như Nhật Bản năm 1887, Mỹ năm 1913, Pháp năm 1914, Trung Quốc năm
1955, Hàn Quốc năm 1974 v.v.15
Ở Việt Nam, sau khi chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường,
dưới tác động của chính sách mở cửa và những cải cách kinh tế, một bộ phận dân cư có
thu nhập cao hơn thu nhập bình quân của cả nước và số lượng ngày càng tăng dẫn đến
có sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt trong xã hội. Thực tế này đặt ra yêu cầu cần phải ban
13

Lê Vũ Nam (2012), “Các quy định về thuế TNCN từ cổ tức trong luật thuế TNCN năm 2007 – Nhìn từ ngun tắc cơng
bằng trong luật thuế”, Khoa học pháp lý, số 06 (73), tr.27.
14
Điểm d khoản 2 Điều 11 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.
15
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình luật thuế, Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Tp. Hồ Chí
Minh, tr.301.


11

hành một sắc thuế nhằm điều tiết một phần thu nhập của người có thu nhập cao và góp
phần đảm bảo công bằng xã hội. Xuất phát từ lý do đó, Thuế TNCN ở nước ta đã được
Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành lần đầu tiên dưới hình thức Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao vào ngày 27/12/1990 và chính thức có hiệu lực ngày
01/4/1991. Từ khi được ban hành cho đến khi được thay thế bởi Luật thuế TNCN, Pháp
lệnh này đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần và lần sửa đổi cuối cùng là vào năm 2004.
Do mục đích ban hành là chỉ nhằm điều tiết thu nhập đối với những cá nhân có thu nhập
cao nên khi mới hình thành pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam có phạm vi điều chỉnh
hẹp hơn thuế TNCN ở những quốc gia khác. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có

thu nhập cao trước đây chỉ áp dụng đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền cơng
và các khoản thu nhập khác mà không đề cập đến thu nhập từ ĐTV.
Như vậy, trước khi Luật thuế TNCN được ban hành, các văn bản pháp luật về thuế
TNCN không quy định thu nhập từ ĐTV là đối tượng chịu thuế TNCN. Bởi lẽ, trong
giai đoạn này, thị trường vốn chưa thực sự phát triển, thu nhập của cá nhân trong nước,
cá nhân nước ngoài tại Việt Nam từ hoạt động đầu tư là không phổ biến.
Đến ngày 21/11/2007, Luật thuế TNCN được Quốc hội khóa XII thơng qua và bắt
đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009, đã chính thức xác định thu nhập từ ĐTV là đối
tượng chịu thuế TNCN. Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thối kinh tế thế giới vào những tháng đầu năm 2009 làm cho các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, xuất khẩu, đầu tư, giải quyết việc làm, thu ngân sách… của nước ta gặp
nhiều khó khăn và giảm sút nên Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 32/2009/QH12
cho phép miễn thuế đối với các cá nhân có thu nhập từ ĐTV và một số khoản thu nhập
khácđến cuối tháng 12 năm 2009.
Tóm lại, trước khi luật thuế TNCN được ban hành thì thu nhập từ ĐTV không là
đối tượng chịu thuế TNCN và cá nhân có thu nhập từ ĐTV cũng chỉ chính thức thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế TNCN kể từ ngày 01/01/2010.
1.1.3.2 Sự cần thiết trong việc xác định thu nhập từ đầu tư vốn là đối tượng
chịu thuế thu nhập cá nhân
Xã hội ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng tăng và cũng ngày
càng đa dạng hơn. Bên cạnh những thu nhập phổ biến, truyền thống như thu nhập từ lao
động (tiền lương, tiền công), từ hoạt động kinh doanh thì các thu nhập khơng thường
xun như thu nhập từ ĐTV, thu nhập từ chuyển nhượng vốn, thu nhập từ chuyển
nhượng bất động sản, thu nhập từ bản quyền v.v đang ngày càng chiếm ưu thế trong cơ
cấu thu nhập. Xã hội phát triển đòi hỏi pháp luật phải thay đổi mới bảo đảm mục đích
điều chỉnh, việc luật thuế TNCN mở rộng diện điều tiết đưa thu nhập từ ĐTV vào diện
chịu thuế TNCN là hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội, qua đó mang
lại những lợi ích thiết thực đối với Nhà nước và xã hội. Cụ thể:



12

Đối với Nhà nƣớc, góp phần tăng thu NSNN, kiểm sốt thu nhập và điều tiết
vĩ mơ nền kinh tế.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của bất kỳ quốc gia nào, NSNN ln chiếm
một vai trị đặc biệt quan trọng. NSNN cung cấp các nguồn lực tài chính đảm bảo cho
Nhà nước đó vận hành và thực hiện các chức năng xã hội, kinh tế, an ninh quốc phịng
của quốc gia đó16. Trong các nguồn thu vào ngân sách, nguồn thu từ thuế chiếm vai trò
chủ đạo. Vai trò tạo nguồn thu NSNN được xem là vai trò khởi thủy của thuế. Là một
trong các sắc thuế nên thuế TNCN cũng có vai trị tạo nguồn thu cho NSNN như các sắc
thuế khác. Theo thống kê, số thu thuế TNCN năm 2011 đạt 38.469 tỷ đồng, năm 2012
ước đạt 44.970 tỷ đồng và 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 27.270 tỷ đồng 17. Khi luật
thuế TNCN quy định thu nhập từ ĐTV là đối tượng chịu thuế thì cũng khơng nằm ngồi
vai trị này, thuế thu nhập từ ĐTV của cá nhân cũng góp phần nhất định vào tổng thu
NSNN, bảo đảm khơng bỏ sót nguồn thu và khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thị
trường tài chính ngày càng vững mạnh thì số thuế thu được từ đối tượng này sẽ ngày
càng tăng. Trong tổng nguồn thu từ thuế TNCN, số thuế thu nhập từ ĐTV chiếm một tỷ
trọng đáng kể, trong 3 năm từ 2009 – 2011 số thu thuế từ ĐTVlà 1.946,8 tỷ đồng (năm
2009: 4,8 tỷ đồng, năm 2010: 642 tỷ đồng; năm 2011: 1.300 tỷ đồng)18.
Ngồi vai trị tạo nguồn thu cho NSNN, thuế TNCN cũng được biết đến bởi vai trị
điều tiết vĩ mơ nền kinh tế. Thơng qua một số các quy định như quy định về đối tượng
nộp thuế, đối tượng chịu thuế, thuế suất, miễn, giảm thuế và ưu đãi về thuế; vai trị điều
tiết vĩ mơ nền kinh tế của thuế TNCN được thực hiện. Chẳng hạn dạng thuế suất chủ
yếu trong thuế TNCN là loại thuế suất lũy tiến từng phần, tức là mức thuế suất tăng lên
tương ứng với phần tăng lên của thu nhập chịu thuế. Điều này có nghĩa là cá nhân có
thu nhập cao sẽ phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với mức thuế suất cao hơn, thông qua
quy định này Nhà nước sẽ điều tiết thu nhập của các cá nhân trong xã hội. Hay khi nền
kinh tế bị suy thối, Nhà nước có thể quy định mức thuế suất đối với hoạt động ĐTV
thấp hơn so với mức bình thường hoặc quy định miễn thuế để kích thích đầu tư, ổn định
thị trường và phục hồi nền kinh tế.

Bên cạnh vai trò tạo nguồn thu cho NSNN, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, khi quy
định thu nhập từ ĐTV là đối tượng chịu thuế TNCN còn giúp cơ quan thuế có cơ chế
kiểm tra, thanh tra, giám sát tốt hơn thu nhập của cá nhân. Việc bổ sung đối tượng này
là đối tượng chịu thuế sẽ góp phần bao quát các thu nhập của một cá nhân, khi đó thơng

16

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), tlđd, tr.23.
Xem: “Quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2011, 2012 và 6 tháng đầu năm 2013”, tại:
/>796.
18
Xem: Ths. Hà Thị Hương Lan, “Luật thuế thu nhập cá nhân, kết quả 3 năm, bất cập và giải pháp” tại:
www.ift.edu.vn/Home/NewDetails.aspx?id=680&lang=vn.
17


13

qua các quy định chặt chẽ về đăng ký, kê khai, nộp thuế có thể phát hiện những trường
hợp khai sai, gian lận thuế hay trốn thuế để kịp thời xử lý các trường hợp vi phạm.
Đối với xã hội, góp phần bảo đảm cơng bằng xã hội, nâng cao phúc lợi và tạo
tâm lý thỏa đáng cho các đối tƣợng nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế đối với
Nhà nƣớc
Thu nhập từ ĐTV chỉ trở thành đối tượng chịu thuế TNCN khi Luật thuế TNCN ra
đời. Trước đây, thu nhập này không bị điều tiết bởi thuế TNCN vì đây là thu nhập
khơng thường xun và ổn định, đồng thời nhằm mục đích khuyến khích sự phát triển
của thị trường vốn trong giai đoạn đầu cịn nhiều khó khăn. Đến nay, khi thu nhập từ
ĐTV đang ngày càng chiếm ưu thế trong cơ cấu thu nhập, thị trường vốn cũng vượt qua
những khó khăn trong giai đoạn đầu mới hình thành và đang phát triển ngày càng mạnh
mẽ thì việc điều tiết thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV là điều hợp lý, góp phần bảo

đảm cơng bằng xã hội. Giống như các khoản thu nhập khác như thu nhập từ tiền lương,
tiền công, từ hoạt động kinh doanh v.v; thu nhập từ ĐTV cũng có đặc điểm chung là
mang lại lợi ích cho chủ sở hữu thu nhập nên Nhà nước sẽ bắt buộc các cá nhân có thu
nhập trích một phần thu nhập của họ vào NSNN. Khi Nhà nước điều tiết vào thu nhập
từ ĐTV sẽ thể hiện được nguyên tắc công bằng của pháp luật thuế nói chung và pháp
luật thuế TNCN nói riêng. Thông qua việc xác định trách nhiệm và nghĩa vụ thuế của
các chủ thể có thu nhập, thuế TNCN sẽ rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo trong xã hội. Bên cạnh đó, Nhà nước sẽ sử dụng số tiền thuế thu được đề đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơng trình phúc lợi xã hội ở các vùng khó khăn, vùng sâu,
vùng xa, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân và thực hiện
các chương trình an sinh xã hội. Đồng thời, khi quy định thu nhập từ ĐTV là đối tượng
chịu thuế sẽ tạo cho đối tượng nộp thuế TNCN từ các nguồn thu nhập khác khơng có
tâm lý “so bì”, “tị nạnh” mà sẽ cảm thấy thỏa đáng khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
Không những mang lại những lợi ích thiết thực như trên đã phân tích, việc luật
thuế TNCN quy định thu nhập từ ĐTV là đối tượng chịu thuế TNCN cịn góp phần đưa
pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật thuế TNCN nói riêng đến gần với thông lệ
quốc tế. Bởi theo pháp luật của đa số các nước thì thu nhập từ cổ tức của cá nhân đều
thuộc đối tượng chịu thuế TNCN như Pháp, Mỹ, Nhật Bản v.v.
Tóm lại, mục 1.1 cung cấp những vấn đề mang tính lý luận về thu nhập từ ĐTV,
tạo tiền đề cần thiết cho việc nghiên cứu các quy định của pháp luật thuế TNCN đối với
thu nhập từ ĐTV trong mục 1.2.


14

1.2 Quy định của pháp luật thuếthu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn
1.2.1 Đối tƣợng nộp thuếthu nhập cá nhân đối với thu nhập từ đầu tƣ vốn

Đối tượng nộp thuế là các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định 19.Nghĩa vụ
này được quy định một cách khái quát trong Hiến pháp20 và được cụ thể hóa trong các

đạo luật thuế. Trong mỗi sắc thuế đều có quy định về đối tượng nộp thuế, quy định này
trả lời cho câu hỏi chủ thể nào, thực hiện hành vi gì thì có nghĩa vụ đăng ký, kê khai,
nộp thuế. Chủ thể nào có nghĩa vụ nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
sẽ chịu các chế tài theo quy định của pháp luật, ở mức độ nhẹ có thể bị xử phạt vi phạm
hành chính, ở mức độ nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Quy định đối tượng nộp thuế của thuế TNCN trả lời cho câu hỏi cá nhân nào, có
hành vi gì thì có nghĩa vụ đăng ký, kê khai, nộp thuế TNCN. Theo khoản 1 Điều 2 Luật
thuế TNCN thì đối tượng nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát
sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân khơng cư trú có thu nhập phát sinh
ngồi lãnh thổ Việt Nam. Khái niệm cá nhân là đối tượng nộp thuế TNCN được hiểu
theo nghĩa rộng bao gồm cá nhân, hộ kinh doanh, tổ hợp tác hay hộ gia đình21. Từ khái
niệm này có thể đưa ra khái niệm về đối tượng nộp thuế của thuế TNCN đối với thu
nhập từ ĐTV là cá nhân cư trú có thu nhập từ ĐTV phát sinh trong và ngoài lãnh thổ
Việt Nam và cá nhân khơng cư trú có thu nhập từ ĐTV phát sinh trong lãnh thổ Việt
Nam.Cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập từ ĐTV có thể là cá nhân có quốc tịch Việt
Nam kể cả cá nhân được cử đi công tác, lao động, học tập ở nước ngồi nhưng có thu
nhập chịu thuế hoặc cá nhân là người khơng có quốc tịch Việt nam nhưng có thu nhập
chịu thuế, bao gồm: người nước ngồi làm việc tại Việt Nam, người nước ngồi khơng
hiện diện tại Việt Nam nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam 22.
Qua khái niệm trên có thể thấy rằng, đối tượng nộp thuế TNCN từ ĐTV bao gồm
cá nhân cư trú và cá nhân khơng cư trú có hoạt động ĐTV có phát sinh thu nhập. Tuy
nhiên, tùy vào tình trạng cư trú mà phạm vi xác định thu nhập từ ĐTV là khác nhau. Cụ
thể, đối với cá nhân cư trú phạm vi xác định thu nhập từ ĐTV là thu nhập phát sinh
trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt nơi chi trả và nhận thu nhập; đối với
cá nhân không cư trú phạm vi xác định thu nhập từ ĐTV là thu nhập phát sinh trong
lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt nơi chi trả và nhận thu nhập. Như vậy, vấn đề quan
trọng là khi xác định đối tượng nộp thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV là phải xác
định được cá nhân có thu nhập là cá nhân cư trú hay không cư trú tại Việt Nam, đây là
nguyên tắc đánh thuế theo nơi cư trú hiện được áp dụng phổ biến ở các nước.


19

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), tlđd, tr.50.
Điều 47 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định”.
21
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), tlđd, tr.304.
22
Khoản 4 Điều 1 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.
20


15

Về cá nhân cư trú, luật thuế TNCN của mỗi quốc gia có một cách thức khác nhau
để xác định cá nhân cư trú hay không cư trú tùy thuộc vào chính sách và trình độ quản
lý của mỗi quốc gia.Một số tiêu chí được sử dụng để xác định như thời gian cư trú, có
nhà ở hoặc chỗ ở cố định, có hoạt động nghề nghiệp, có trung tâm lợi ích kinh tế tại
nước sở tại.Trong đó, tiêu thức thời gian được đa số các nước sử dụng như một trong
các tiêu thức quan trọng để xác định một cá nhân là đối tượng cư trú hay không cư trú.
Ví dụ: Theo pháp luật thuế TNCN của Pháp, cá nhân được coi là đối tượng cư trú tại
Pháp khi thỏa mãn một trong ba tiêu thức: Có hộ gia đình tại Pháp hoặc có thời gian
sống chủ yếu tại Pháp (từ 183 ngày trở lên) hoặc có hoạt động nghề nghiệp tại Pháp
hoặc có trung tâm lợi ích kinh tế tại Pháp. Các cá nhân không thỏa mãn một trong các
tiêu thức trên là đối tượng không cư trú. Theo pháp luật thuế TNCN Nhật Bản, đối
tượng nộp thuế được chia làm 3 loại: Đối tượng cư trú thường xuyên, đối tượng cư trú
không thường xuyên, đối tượng không cư trú. Trong đó, đối tượng cư trú thường xuyên
là người có nhà ở thường trú ở Nhật Bản hoặc cư trú ở Nhật Bản liên tục trong thời gian
trên 5 năm; đối tượng cư trú không thường xuyên là người khơng có ý định cư trú lâu
dài ở Nhật Bản và chỉ ở Nhật Bản trong thời gian dưới 5 năm; đối tượng khơng cư trú là
người khơng có nhà ở thường trú tại Nhật Bản hoặc cư trú tại Nhật Bản trong thời gian

dưới 1 năm. Theo pháp luật thuế TNCN Hàn Quốc, đối tượng cư trú là người có nhà ở
hoặc cư trú tại Hàn Quốc từ 1 năm trở lên, đối tượng không cư trú là người khơng có
nhà ở tại Hàn Quốc hoặc có thời gian cư trú tại Hàn Quốc dưới 1 năm. Tại Thái Lan, đối
tượng cư trú là cá nhân cư trú hoặc có mặt tại Thái Lan trong một khoảng thời gian hay
nhiều khoảng thời gian gộp lại từ 180 ngày trở lên trong năm dương lịch; tại Malaysia là
thực tế có mặt tại Malaysia từ 182 ngày trở lên trong năm dương lịch.23
Theo pháp luật thuế TNCN Việt Nam, cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong
các điều kiện sau24:
Thứ nhất, điều kiệnvề thời gian cư trú, cụ thể có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở
lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có
mặt tại Việt Nam. Cá nhân có mặt tại Việt Nam là sự hiện diện của cá nhân đó trên lãnh
thổ Việt Nam. Trong đó ngày đến và ngày đi được tính là một ngày. Ngày đến và ngày
đi được căn cứ vào chứng thực của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc
giấy thông hành) của cá nhân khi đến và khi rời Việt Nam.
Thứ hai, điều kiện về nơi ở thường xuyên. Một cá nhân được xem là có nơi ở
thường xuyên tại Việt Nam khi có nơi ở thường trú theo quy định của pháp luật về cư
trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời
hạn của các hợp đồng thuê từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế. Theo đó, nơi ở
thường xun của công dân Việt Nam là nơi cá nhân sinh sống thường xuyên, ổn định
23

PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh (2002), Thuế TNCN và định hướng vận dụng ở Việt Nam, Nxb Tài chính, tr.45-86.
Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.

24


16

khơng có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú theo quy định của

pháp luật về cư trú. Nơi ở thường xuyên của công dân nước ngoài là nơi ở thường trú
ghi trong Thẻ thường trú hoặc nơi ở tạm trú khi đăng ký cấp Thẻ tạm trú do cơ quan có
thẩm quyền thuộc Bộ Công an cấp. Trường hợp cá nhân chưa hoặc khơng có nơi ở
thường xun nhưng có tổng số ngày thuê nhà để ở theo các hợp đồng thuê từ 183 ngày
trở lên trong năm tính thuế cũng được xác định là cá nhân cư trú, kể cả trường hợp thuê
nhà ở nhiều nơi. Nhà thuê để ở bao gồm cả trường hợp ở khách sạn, ở nhà khách, nhà
nghỉ, nhà trọ, ở nơi làm việc, ở trụ sở cơ quan,... không phân biệt cá nhân tự thuê hay
người sử dụng lao động thuê cho người lao động. Trường hợp cá nhân có nơi ở thường
xuyên tại Việt Nam nhưng thực tế có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày trong năm tính
thuế mà cá nhân khơng chứng minh được là cá nhân cư trú của nước nào thì cá nhân đó
là cá nhân cư trú tại Việt Nam. Việc chứng minh là đối tượng cư trú của nước khác
được căn cứ vào Giấy chứng nhận cư trú. Trường hợp cá nhân thuộc nước hoặc vùng
lãnh thổ đã ký kết Hiệp định thuế với Việt Nam khơng có quy định cấp Giấy chứng
nhận cư trú thì cá nhân cung cấp bản chụp Hộ chiếu để chứng minh thời gian cư trú.
Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng các điều kiện để trở thành cá nhân
cư trú. Tuy nhiên, do tiêu chí để xác định đối tượng cư trú trong pháp luật thuế TNCN
của các nước là khác nhau dẫn đến trường hợp một cá nhân đồng thời là đối tượng cư
trú của hai hay nhiều nước. Để giải quyết vấn đề này, các nước thường dựa vào các quy
định trong các hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Đối với thuế đánh vào thu nhập và tài
sản giữa Việt Nam và Pháp, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của hai nước ký kết thì
việc xác định đối tượng cư trú được quy định như sau25: (i) Cá nhân sẽ được coi là đối
tượng cư trú của nước mà tại đó cá nhân có nhà ở thường trú; nếu cá nhân có nhà ở
thường trú ở cả hai nước, thì sẽ được coi là đối tượng cư trú của nước mà cá nhân có các
quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các quyền lợi chủ yếu), (ii) Nếu
như không thể xác định được nước mà ở đó cá nhân có trung tâm các quyền lợi chủ yếu,
hoặc nếu cá nhân khơng có nhà ở thường trú ở cả hai nước, thì cá nhân đó được coi là
đối tượng cư trú của nước mà cá nhân đó thường sống, (iii) Nếu cá nhân thường sống ở
cả hai nước hay không sống thường xun ở nước nào, thì cá nhân đó được coi là đối
tượng cư trú của nước mà cá nhân mang quốc tịch, (iv) Nếu cá nhân có quốc tịch của cả
hai nước hoặc khơng có quốc tịch của cả hai nước, thì các nhà chức trách có thẩm quyền

của các nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề này bằng một thỏa thuận chung. Trong Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn tránh các nghĩa vụ tài chính liên
quan tới thuế thu nhập và thặng dư vốn giữa Chính phủ Vương quốc Anh và Bắc Ailen
và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai

25

Khoản 2 Điều 4 Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hịa Pháp
về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn và lậu thuế đối với thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản.


17

nước thì việc xác định đối tượng cư trú được quy định như sau26: (i) Một cá nhân được
coi là một đối tượng cư trú của nước ký kết nếu người đó có một ngơi nhà ở thường trú
tại nước đó. Nếu cá nhân có nhà ở thường trú ở cả hai nước ký kết, người đó được coi là
một đối tượng cư trú của nước ký kết có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn
(trung tâm của các quyền lợi chủ yếu), (ii) Nếu nước ký kết mà cá nhân có trung tâm
của tiền lãi chủ yếu không thể được xác định, hoặc nếu cá nhân khơng có nhà ở thường
trú ở một trong hai nước, người đó sẽ được coi như là một đối tượng cư trú của nước mà
người đó thường có nơi cư trú thường xuyên, (iii) Nếu cá nhân có nơi ở thường xun ở
cả hai nước hay khơng có ở cả hai nước, người đó sẽ được xem là đối tượng cư trú của
nước mà người đó là cơng dân, (iv) Nếu cá nhân là công dân của cả hai nước ký kết
hoặc không của nước nào cả, cơ quan có thẩm quyền của hai nước sẽ giải quyết vấn đề
này bằng thỏa thuận song phương với nhau.
Như vậy, không phải mọi trường hợp đều chỉ dựa vào quy định của pháp luật thuế
TNCN để xác định đối tượng cư trú mà trong một số trường hợp còn phải dựa vào các
quy định trong những điều ước quốc tế có liên quan.
Tóm lại, việc xác định chính xác một cá nhân có là đối tượng cư trú hay khơng có
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nghĩa vụ thuế TNCN đối với thu nhập từ ĐTV

của cá nhân đó. Bởi lẽ, phạm vi xác định thu nhập chịu thuế, phương pháp tính thuế, căn
cứ tính thuế, ưu đãi về thuế của cá nhân cư trú có sự khác biệt so với cá nhân không cư
trú. Mặt khác, pháp luật các nước quy định khác nhau về mức thuế suất thuế TNCN đối
với thu nhập từ ĐTV, nếu khơng có quy định rõ ràng trong việc xác định cá nhân cư trú
thì cá nhân nộp thuế có thể lợi dụng tình trạng cư trú để nộp thuế ở nước có mức thuế
suất thấp dẫn đến tình trạng thất thu thuế ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách.
1.2.2 Thu nhập từ đầu tƣ vốn chịu thuếthu nhập cá nhân

Đối tượng chịu thuế là một trong những nội dung cơ bản của một đạo luật thuế.
Đối tượng chịu thuế là hàng hóa, dịch vụ, tài sản, thu nhập hoặc những lợi ích vật chất
khác mà sắc thuế tác động đến để phát sinh nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế 27.
Từ khái niệm trên có thể định nghĩa thu nhập chịu thuế TNCN là những khoản thu nhập
mà thuế TNCN điều chỉnh làm phát sinh nghĩa vụ thuế của cá nhân có thu nhập. Việc
quy định thu nhập chịu thuế có vai trị quan trọng trọng việc xác định chủ thể nào là đối
tượng nộp thuế, chủ thể nào không phải là đối tượng nộp thuế. Một khi cá nhân có thu
nhập chịu thuế thì phát sinh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Mỗi sắc thuế có một cách
quy định đối tượng chịu thuế khác nhau phụ thuộc vào phạm vi của đối tượng chịu thuế
là rộng hay hẹp. Ví dụ: Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), đối tượng chịu thuế là
một nhóm nhỏ các hàng hóa, dịch vụ nên được quy định theo phương pháp liệt kê.
26

Khoản 2 Điều 4 Hiệp định giữa Chính phủ Vương quốc Anh và Bắc Ailen và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm
tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn tránh các nghĩa vụ tài chính liên quan tới thuế thu nhập và thặng dư vốn.
27
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), tlđd, tr.49.


18

Ngược lại, thuế giá trị gia tăng (GTGT) có đối tượng chịu thuế rộng nên quy định đối

tượng chịu thuế theo phương pháp loại trừ, tức là chỉ liệt kê những hàng hóa, dịch vụ
khơng thuộc diện chịu thuế GTGT. Đối với thuế TNCN, không phải khoản thu nhập nào
cũng là thu nhập chịu thuế. Bởi lẽ, để điều tiết thu nhập của cá nhân, Nhà nước phải tính
đến tính hợp lý và bảo đảm duy trì khả năng hình thành thu nhập, tránh làm triệt tiêu
quan hệ tạo thu nhập và đảm bảo cân đối các lợi ích hình thành trong xã hội. Do đó, chỉ
có một số loại thu nhập của cá nhân đã hình thành có tính ổn định, có khả năng tạo ra sự
bất bình đẳng mới trở thành thu nhập chịu thuế, là cơ sở để đánh thuế TNCN. Vì vậy,
thuế TNCN quy định thu nhập chịu thuế theo phương pháp liệt kê bao gồm danh mục
thu nhập chịu thuế được giới hạn và là những khoản thu nhập tạo ra sự khác biệt trong
quá trình phân phối lợi ích trong xã hội.
Tùy vào các mơ hình đánh thuế khác nhau mà thu nhập chịu thuế trong kỳ tính
thuế được xác định là từng loại thu nhập hay tổng hợp các loại thu nhập của một cá
nhân. Về lý thuyết, tồn tại ba mơ hình đánh thuế TNCN: Một là, đánh thuế theo từng
nguồn hình thành thu nhập; Hai là,đánh thuế trên tổng thu nhập; Ba là, đánh thuế hỗn
hợp28. Nếu sử dụng mơ hình đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập thì thu
nhập chịu thuế là từng loại thu nhập hình thành theo từng nguồn khác nhau và mỗi loại
thu nhập sẽ chịu thuế theo các mức thuế suất khác nhau, tùy vào bản chất của loại thu
nhập đó. Nếu sử dụng mơ hình đánh thuế trên tổng thu nhập thì thu nhập chịu thuế là
tổng hợp các loại thu nhập của một cá nhân hình thành theo các nguồn khác nhau trong
kỳ tính thuế và áp dụng một biểu thuế chung cho các loại thu nhập này. Nếu sử dụng mơ
hình hỗn hợp thì ban đầu thu nhập chịu thuế được xác định là từng loại thu nhập và áp
dụng thuế suất riêng cho từng loại thu nhập, nhưng sau đó thu nhập chịu thuế được xác
định là tổng hợp các loại thu nhập và đánh thuế trùm lên tổng thu nhập một lần nữa với
một mức thuế suất khác. Mỗi mơ hình đánh thuế đều có ưu và nhược điểm riêng. Tuy
nhiên, dù sử dụng mơ hình đánh thuế nào thì thu nhập chịu thuế về nguyên tắc được xác
định là thu nhập rịng của cá nhân trong kỳ tính thuế. Để xác định số thu nhập ròng phải
tuân thủ nguyên tắc: được trừ các chi phí cần thiết liên quan đến việc tạo ra thu nhập
trong kỳ tính thuế29.
Luật thuế TNCN ở Việt Nam sử dụng mơ hình đánh thuế theo từng nguồn hình
thành thu nhập (trừ trường hợp cá nhân vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập

từ tiền lương, tiền cơng thì đánh thuế trên tổng thu nhập từ kinh doanh và tiền lương,
tiền cơng30) nên với từng nguồn thu nhập có cách xác định thu nhập chịu thuế và chịu
mức thuế suất khác nhau. Mơ hình đánh thuế này có ưu điểm là đơn giản và phản ánh
28

PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh (2002), tlđd, tr. 19.
PGS.TS Lê Văn Ái, TS Đỗ Đức Minh (2002), tlđd, tr. 144.
30
Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP quy định: “Thu nhập tính thuế đối với cá nhân vừa có thu nhập chịu thuế
từ kinh doanh, vừa có thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công là tổng thu nhập chịu thuế từ kinh doanh cộng thu nhập
chịu thuế từ tiền lương, tiền công trừ các khoản quy định tại Điểm a, b và c Khoản 1 Điều này”.
29


19

đúng định hướng điều tiết của Nhà nước đối với từng loại thu nhập, tuy nhiên cách đánh
thuế này không bình đẳng do cùng đặc tính chủ thể mà mỗi loại thu nhập sẽ bị điều tiết
khác nhau.Là một trong các nguồn thu nhập chịu thuế TNCN, thu nhập từ ĐTV cũng
mang những đặc trưng này.
Pháp luật thuế TNCN quy định thu nhập chịu thuế từ ĐTV là các khoản thu nhập
nhận được dưới các hình thức sau31:
Tiền lãi nhận được từ việc cho các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân
kinh doanh, nhóm cá nhân kinh doanh vay theo hợp đồng vay hoặc thỏa thuận vay.Theo
quy định của pháp luật, cho vaylà hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc
cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong
một thời gian nhất định theo thỏa thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi32. Cho
vay được xem là một hình thức đầu từ vốn, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên
vay, tài sản này có thể là tiền, hàng hóa hay các loại tài sản khác. Khi đến hạn thanh
toán, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay cả vốn lẫn lãi. Tiền lãi mà cá nhân nhận

được từ hoạt động cho vay được xem là khoản thu nhập có được từ hoạt động ĐTV và
phải chịu sự điều tiết của Luật thuế TNCN.
Cổ tức nhận được từ việc góp vốn mua cổ phần. Có thể nhận thấy sự khác nhau
giữa Luật thuế TNCN năm 2007 và Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15 tháng 8
năm 2013 trong việc quy định về loại thu nhập này, Luật thuế TNCN sử dụng thuật ngữ
“Lợi tức cổ phần”33, cịn Thơng tư số 111/2013/TT-BTC lại sử dụng thuật ngữ “Cổ
tức”34. Tuy nhiên, xét về bản chất, khi đề cập đến việc chia “lợi tức cổ phần” hay chia
“cổ tức” đều hàm ý đến việc CTCP chia lợi nhuận cho các cổ đông là người nắm giữ cổ
phần theo tỷ lệ vốn góp của họ trong CTCP nên việc sử dụng thuật ngữ “Lợi tức cổ
phần” cũng đồng nghĩa với thuật ngữ “Cổ tức”. Dưới góc độ kinh tế, “Cổ tức là tiền lời
chia cho cổ đông trên mỗi cổ phiếu thường, căn cứ vào kết quả thu nhập từ hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty.Cổ tức của cổ phiếu thường được trả sau khi đã trả cổ
tức cố định cho cổ phiếu ưu đãi và sau khi trừ đi quỹ tích lũy35”.Theo quy định của
pháp luật hiện hành, Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định “Cổ tức là khoản lợi nhuận
ròng được trả cho mỗi cổ phần bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác từ nguồn lợi
nhuận còn lại của công ty sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài chính36”. Khi góp vốn
vào CTCP dưới hình thức mua cổ phần tại thời điểm thành lập công ty hoặc khi CTCP
chào bán cổ phần bổ sung trong quá trình hoạt động hay nhận chuyển nhượng cổ phần
từ tổ chức, cá nhân khác; nhà đầu tư đã thực hiện một hành vi đầu tư, qua đó nhằm
31

Khoản 3 Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007, Khoản 3 Điều 3 Nghị định số
65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013, Khoản 3 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.
32
Khoản 16 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010.
33
Điểm b khoản 3 Điều 3 Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007.
34
Điểm b khoản 3 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013.
35

Lý Hoàng Ánh, Đoàn Thanh Hà (2005), Thị trường chứng khoán, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 60.
36
Khoản 9 Điều 4 Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.


×