Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Định tội danh đối với hành vi đánh bạc theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

MÃ QUẾ KHANH

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI ĐÁNH BẠC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI ĐÁNH BẠC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự & Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Tường Vy
Học viên: Mã Quế Khanh
Lớp: Cao học luật, Khóa 2- Sóc Trăng

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ luật


học “Định tội danh đối với hành vi đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam” là
hồn tồn trung thực và khơng trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kì
cơng trình nào khác. Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Lê Tường Vy.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Mã Quế Khanh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS
CTKGG
HĐXX
TANDTC
THAHS
UBND
VKSND

: Bộ luật hình sự
: Bộ luật tố tụng hình sự
: Cải tạo khơng giam giữ tối cao
: Hội đồng xét xử
: Tòa án nhân dân
: Thi hành án hình sự
: Ủy ban nhân dân
: Viện kiểm sát nhân dân



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI CỦA CHỦ ĐỀ, CHỦ CÁ
ĐỘ BÓNG ĐÁ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......................................... 6
1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danh đối với hành
vi của chủ đề, chủ cá độ bóng đá ......................................................................... 6
1.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh ...................... 9
CHƯƠNG 2. ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI CỦA NHỮNG NGƯỜI
ĐỒNG PHẠM TRONG MUA BÁN LƠ ĐỀ, CÁ ĐỘ BĨNG ĐÁ ..................... 24
2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam ................................................ 24
2.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh .................... 24
2.3. Kiến nghị hoàn thiện ................................................................................... 34
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật hình sự là một trong những ngành luật ra đời sớm nhất trong hệ thống
pháp luật thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng. Ngay từ khi Nhà nước
ta mới được thành lập cho đến nay, luật hình sự vẫn luôn nhận được sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước và nhân dân bởi pháp luật hình sự là một trong những công cụ
quan trọng và hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng
bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
tổ chức; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng

ngừa và chống tội phạm. Đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc là một trong những tệ
nạn xã hội, xâm hại đến trật tự, nếp sống văn minh của xã hội, làm cho nhiều người
tan gia, bại sản, phát sinh mâu thuẫn gia đình... Người bị thua bạc dễ sa vào trạng
thái mất tự chủ, bỏ bê trong việc chăm lo cuộc sống gia đình; có trường hợp quẩn
bách đã dẫn đến tự sát... Đồng thời, tệ nạn cờ bạc là một trong những nguyên nhân
làm phát sinh các tội phạm khác như: Giết người, cướp tài sản, lừa đảo, trộm cắp...
Chính vì những tác hại nghiêm trọng trên, nên ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta
luôn coi trọng vấn đề bảo vệ trật tự công cộng, trong đó đã nghiêm cấm hành vi
đánh bạc trái phép. So với các tội phạm khác thì tội phạm đánh bạc là một trong
những tội được quy định từ rất sớm. Tại Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/4/1948 của
Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đã quy định tội phạm về đánh bạc.
Tại Điều 1 và Điều 2 Sắc lệnh quy định: “Tất cả các trò chơi cờ, bạc dù có tính cách
may rủi hay có thể dùng trí khơn để tính trước mà được thua bằng tiền, đều coi là tội
đánh bạc và bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm và phạt bạc từ 10.000đ đến 100.000đ”
Qua từng thời kỳ cách mạng, đường lối xử lý đối với người phạm tội đánh
bạc cũng thay đổi, nhưng các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc cơ bản vẫn giữ
nguyên. Bộ luật hình sự 1985 quy định tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc trong cùng một điều luật (Điều 200), đến Bộ luật hình sự 1999 tội đánh bạc
được quy định thành 01 điều luật riêng (Điều 248), tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
quy định tại Điều 249 để cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Và hiện nay, Tội đánh bạc
được quy định tại Điều 321 BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) (sau đây
gọi tắt là BLHS năm 2015).


2
Trong những năm qua, tình hình tội phạm về đánh bạc trên phạm vi cả nước
nói chung và tỉnh ta nói riêng ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp; quy mơ,
mức độ ngày càng lớn, tính chất, thủ đoạn của tội phạm ngày càng tinh vi. Công tác
điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tố tụng đối với tội phạm đánh bạc nói riêng

đã đạt được nhiều kết quả tích cực, qua đó đã xử lý nghiêm minh, kịp thời các đối
tượng phạm tội, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo trật tự an tồn xã hội, tạo
mơi trường ổn định cho đầu tư phát triển kinh tế của địa phương.
Tuy nhiên, quá trình giải quyết các vụ án đánh bạc trong thời gian qua vẫn
còn một số hạn chế như: Các cơ quan tố tụng chưa có quan điểm thống nhất và
chính xác về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc đối với một hình thức đánh bạc
khá phổ biến nhất là đánh bạc dưới hình thức số đề, cá độ bóng đá nên đã dẫn đến
khơng ít trường hợp khởi tố khơng đúng sau đó phải đình chỉ hoặc bị hủy án; việc
xét xử các bị cáo về tội đánh bạc đã bộc lộ sự bất cập trong việc xác định tội danh
giữa các Tịa án. Cùng tính chất của hành vi, nhưng có Tịa xử bị cáo về tội đánh
bạc, nhưng có Tịa lại xử về tội tổ chức đánh bạc. Chính vì lẽ đó, tác giả đã lựa chọn
đề tài “Định tội danh đối với hành vi đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam” nhằm
tạo sự thống nhất về nhận thức trong việc xác định tội danh đối với nhóm hành vi
phạm tội này trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tội đánh bạc và
được đề cập đến nhiều trong các cơng trình khoa học, các giáo trình, sách tham
khảo, bài viết, bình luận trên các phương tiện thơng tin. Điển hình như các cơng
trình sau:
1) Dưới góc độ giáo trình, sách tham khảo: Trường Đại học Luật Tp.HCM,
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam-Phần Các Tội phạm, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật
gia Việt Nam,2012; GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, chương XXV - Các tội xâm phạm
an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng, trong sách "Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam" của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,2000;
"Giáo trình luật hình sự Việt Nam" (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003; "Bình luận khoa
học Bộ luật hình sự 1999" (Phần các tội phạm) của PGS. TS Phùng Thế Vắc,
PGS.TS.Trần Văn Luyện,
Thạc sĩ Phạm Thanh Bình, TS.Nguyễn Đức Mai, Thạc sĩ Nguyễn Sĩ Đại,
Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001;" Bình luận khoa



3
học Bộ luật hình sự", Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Thạc sĩ
Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002; "Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự", PGS.TS Trần Minh Hưởng chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội, 2009; v.v...
2) Dưới góc độ các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa
học: Đề tài KX.04.14 năm 1992 của Tổng cục Cảnh sát - Bộ công an với nội dung "
Đổi mới chính sách xã hội nhằm khắc phục tệ nạn xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường"; đề tài cấp Bộ của Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật năm 2000 với
nội dung "Những luận cứ khoa học cho các giải pháp phòng chống các tệ nạn xã
hội ở nước ta"; Luận án tiến sĩ Phan Đình Khánh - Học viện chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh năm 2001 "Tăng cường đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội bằng pháp
luật ở Việt Nam hiện nay"; Luận văn Thạc sĩ của tác giả Cao Thị Oanh - Đại học
Luật Hà Nội với đề tài "Đấu tranh phòng chống các tội cờ bạc trên địa bàn thành
phố Hà Nội năm 2002".
3) Dưới góc độ các bài viết: "Những bất cập và một vài kiến nghị hoàn thiện
đối với hướng dẫn áp dụng tội đánh bạc" của tác giả Thạc sĩ Thái Chí Bình, Tịa án
nhân dân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang (); "Những điểm mới
của tội đánh bạc theo Luật số 37/2009/QH12 về Sửa đổi và bổ sung một số điều của
Bộ luật hình sự" của tác giả Thạc sĩ Bùi Ngọc Hà - Trường Đại học Cảnh sát nhân
dân ();v.v...
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu đã nên trên chỉ xem xét tội đánh bạc
với ý nghĩa một tội phạm để bình luận các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt,
cũng như phân tích việc định tội danh hoặc chỉ xem xét tội phạm này dưới góc độ
tội phạm học và phịng ngừa cả nhóm tội phạm mà chưa có cơng trình nào nghiên
cứu độc lập, có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ dưới góc độ pháp lý hình sự và
thực tiễn xét xử về định tội danh đối với hành vi đánh bạc mà tập trung vào hành vi
mua bán lơ đề, cá độ bóng đá.
 Đánh giá tình hình nghiên cứu

 Các cơng trình khoa học trên đã chỉ ra được một số hạn chế trong quy định
của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về Tội đánh bạc. Tuy nhiên chưa
nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng việc định tội danh
đối với hành vi đánh bạc theo quy định của BLHS năm 2015. Đặc biệt chưa có cơng
trình khoa học nào nghiên cứu hoạt động định tội danh đối với hành vi đánh bạc
dưới hình thức mua bán lơ đề, cá độ bóng đá.
 Chính vì vậy, định hướng nghiên cứu của luận văn chính là hoạt động định tội


4
danh đối với hành vi đánh bạc trong thực tiễn mà cụ thể là hành vi mua bán lô đề, cá độ
bóng đá theo luật hình sự Việt Nam
3.Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản
và phân tích thực tiễn xét xử hành vi mua bán lô đề, cá độ bóng đá theo luật hình sự
Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác định
tội, xử lý để đề xuất những kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện
hành về hành vi mua bán lơ đề, cá độ bóng đá.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối với hoạt động định tội danh đối với hành vi đánh bạc trong thực tiễn mà tác
giả đã nghiên cứu thông qua các vụ án cụ thể cho thấy rằng điểm khó khăn, vướng mắc
nhất đó là hành vi mua bán lơ đề, cá độ bóng đá Vì vậy, trong phạm vi đề tài luận văn
này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu thực tiễn xét xử hành vi mua bán lơ đề, cá độ
bóng đá theo luật hình sự Việt Nam
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đánh bạc là các trị chơi mang tính được – thua bằng tiền hoặc hiện vật, được
thực hiện một cách trái phép. Hành vi đánh bạc có thể được thể hiện dưới các hình

thức sau1:
- Thực hiện một trong các hành vi như: mua các ơ số lơ, số đề, xóc đĩa, tá lả,
tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, ba cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác, có
tình chất được - thua bằng tiền, hiện vật;
- Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
- Cá cược “cá độ” bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi
đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;
- Bán số đề…
Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu hẹp và dung lượng khơng cho phép
nghiên cứu tất cả các hình thức đánh bạc nên luận văn tập trung nghiên cứu hoạt
động định tội danh đối với hành vi mua bán lô đề, cá độ bóng đá theo luật hình sự
Việt Nam trên phạm vi cả nước.
1

Theo Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 12/07/2010 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật
tự, an toàn xã hội.


5
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; những thành tựu của các khoa học: Triết học, tội
phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học, những luận điểm khoa học trong các
cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết trên các tạp chí trong nước.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tịa án về hành
vi mua bán lơ đề, cá độ bóng đá.
4.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: Lịch sử, lơgíc,
hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật...
5.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa hành vi mua
bán lơ đề, cá độ bóng đá và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
trong thực tiễn xét xử.
Những giải pháp đề cập trong đề tài luận văn giúp các cơ quan có thẩm quyền
xem xét, nghiên cứu áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh và
phịng ngừa hành vi mua bán lơ đề, cá độ bóng đá.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công
tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội
phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ
pháp luật...
6. Kết cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục , Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Định tội danh đối với hành vi của chủ đề, chủ cá độ bóng đá.
Chương 2: Định tội danh đối với hành vi của những người đồng phạm
trong mua bán lơ đề, cá độ bóng đá


6
CHƯƠNG 1
ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI CỦA CHỦ ĐỀ,
CHỦ CÁ ĐỘ BĨNG ĐÁ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danh đối với
hành vi của chủ đề, chủ cá độ bóng đá

Tội phạm là hiện tượng tiêu cực trong xã hội, tội phạm xuất hiện cùng với sự
ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối
kháng. Vì vậy, để bảo vệ đặc quyền của của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy
định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với những người nào thực hiện các hành vi đó. Tội đánh bạc là tội phạm
phổ biến, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn minh của nhân dân, làm tha hóa đạo đức
của một bộ phận dân cư, gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình và
là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội, tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, đấu tranh phòng
chống, tiến tới đẩy lùi tội phạm đánh bạc ra khỏi đời sống xã hội đã và đang đặt ra
những nhiệm vụ cấp bách cho toàn hệ thống chính trị của nước ta.
Qua nghiên cứu quy định của pháp luật đối với quy định của Điều 321, Điều
322 BLHS năm 2015 nhận thấy: Về bản chất tội đánh bạc là hành vi của một người
bỏ ra một khoản tiền hay giá trị hiện vật để đánh bạc bằng bất cứ hình thức nào với
mục đích được thu bằng tiền hay hiện vật...; Hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
là hành vi của người đứng ra tổ chức, tạo điều kiện cho người khác hoặc chính họ
đánh bạc. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể là người chủ lơ đề, chủ độ bóng đá thì
chúng ta cần làm rõ hành vi đó phải bị áp dụng điều khoản nào cho đúng. Đối với
hành vi của của người chủ lơ, đề hay người chủ độ bóng đá thì việc cơ quan tiến
hành tố tụng truy tố họ về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc đúng hay khơng?
Theo pháp luật hình sự, “đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực
hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà
khơng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong
giấy phép được cấp.2 Tổ chức đánh bạc là hành vi rủ rê, lôi kéo người khác tham
gia vào hoạt động đánh bạc trái phép.3
2

Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một
số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của BLHS.
3

Trường Đại học Luật Tp.HCM (2012), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam-Phần Các Tội phạm, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật Gia Việt Nam, tr.286


7
Về bản chất tội đánh bạc được hiểu là hành vi một người bỏ ra một khoản
tiền hay hiện vật để đánh bạc dưới bất kỳ hình thức gì như chơi bài lá, chơi sóc
đĩa, chọi gà ăn tiền…Mặt chủ quan của tội phạm tìm kiếm vận may bằng hình
thức đánh bạc đỏ đen mà họ là người trực tiếp nhận được hậu quả của hành vi
đánh bạc đó, có thể họ được có thể thua. Cịn hành vi tổ chức đánh hoặc gá bạc là
hành vi của người đứng ra tổ chức, tạo điều kiện cho người khác và cũng có thể cả
người đó cùng đánh bạc ví dụ như mở chiếu bạc, lập xới chọi gà ăn tiền… Xét về
mặt chủ quan của tội phạm thì chủ lơ, đề là người trực tiếp tham gia đánh bạc,
thuộc trường hợp một người đánh bạc với nhiều người. Người chủ lơ cũng chính
là người tổ chức lên bảng lơ để chơi với các con bạc khác. Bản chất hành vi của
người chủ đề là có dấu hiệu pháp lý của cả hai tội đánh bạc (Điều 321 BLHS) và
Tội tổ chức đánh bạc (Điều 322 BLHS). Đây là vấn đề thực tiễn còn chưa thống
nhất trong việc định tội danh theo các quy định của BLHS nên cần có sự hướng
dẫn cụ thể.
Ngay cả các khái niệm trong pháp luật hành chính và trong quan hệ pháp luật
hình sự cũng còn nhiều điểm khác nhau. Hành vi tổ chức đánh bạc trong quan hệ
pháp luật hành chính được các văn bản pháp luật hành chính quy định tại Nghị định
167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng
cháy và chữa cháy; phịng chống bạo lực gia đình tại Điều 26 hành vi đánh bạc trái
phép có quy định:
4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những
hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:
a) Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép;
b) Dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc;

c) Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép;
d) Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép.
5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong
những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:
a) Làm chủ lô, đề;
b) Tổ chức sản xuất, phát hành bản đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề;
c) Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;


8
d) Tổ chức hoạt động cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui
chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.4
Như vậy, theo quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì hành vi làm chủ
lô, đề thuộc hành vi tổ chức đánh bạc.
Tuy nhiên, theo Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 12/07/2010 quy định xử phạt
hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội (văn bản này đã hết hiệu
lực), hành vi đánh bạc có thể được thể hiện dưới các hình thức sau5:
- Thực hiện một trong các hành vi như: mua các ô số lô, số đề, xóc đĩa, tá lả,
tổ tơm, tú lơ khơ, tam cúc, ba cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác, có
tình chất được - thua bằng tiền, hiện vật;
- Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
- Cá cược “cá độ” bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi
đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;
- Bán số đề…
Như vậy, theo Nghị định 73/2010, hành vi “bán số đề” lại được xem là hành vi
đánh bạc. Mặc dù Nghị định 73/2010 đã hết hiệu lực, nhưng những quy định nêu trên
cũng đã cho thấy sự không nhất quán của Nhà nước khi quy định và cách hiểu về
hành vi làm chủ lô đề, bán số đề được xem là hành vi đánh bạc hay tổ chức đánh bạc.
u cầu của thực tiễn tư pháp ln địi hỏi phải có sự thống nhất về mặt khái
niệm của các hành vi trong pháp luật hành chính và trong pháp luật hình sự vì luật

hành chính và luật hình sự đều quy định về hành vi vi phạm pháp luật và cách xử lý
đối với chúng và chỉ khác ở mức độ nguy hiểm của hành vi. Khơng thể có khái
niệm hành vi tổ chức đánh bạc trong quan hệ pháp luật hành chính lại khác với khái
niệm hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong quan hệ pháp luật hình sự. Từ
nhận xét trên, ta có thể khẳng định rằng không thể mượn cách thức diễn đạt theo
khái niệm của văn bản pháp luật hành chính hiện hành vì nó chỉ có tính liệt kê,
khơng mang tính khái qt một cách khoa học, thậm chí khơng có sự phân biệt rõ
ràng giữa các hành vi để áp dụng trong pháp luật hình sự. Chính vì vậy đã tạo nên
nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình định tội danh và không thống nhất trong
áp dụng pháp luật hình sự đối với hành vi của chủ lơ đề, cá độ bóng đá.

4

Chính phủ (2013), Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an
ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy, chống bạo lực gia đình, Hà Nội.
5
Chính phủ (2010), Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 12/07/2010 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an
ninh và trật tự, an toàn xã hội.


9
1.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh
Chính vì những vướng mắc trong các quy định nêu trên, trong thực tiễn xét xử
hiện nay còn áp dụng chưa thống nhất tội danh đối với hành vi của chủ đề, chủ cá độ
bóng đá. Có địa phương áp dụng Tội đánh bạc nhưng cũng có địa phương áp dụng
Tội tổ chức đánh bạc và cũng có địa phương áp dụng cả hai Tội tổ chức đánh bạc và
Tội đánh bạc đối với hành vi của chủ đề, chủ cá độ bóng đá. Sự khơng thống nhất
trong thực tiễn xét xử sẽ được tác giả minh chứng qua các vụ án cụ thể như sau:
 Vụ án thứ nhất ( Phụ lục số 01)
NỘI DUNG VỤ ÁN:

Ngày 03 tháng 4 năm 2017 Công an huyện Tr bắt quả tang vụ đánh bạc dưới
hình thức đánh “Ba cây” ăn tiền tại nhà ở của Trần Văn D ở thơn Thọ Lộc, xã Đồng
L, huyện Tr, Thanh Hóa. Q trình kiểm tra điện thoại của các con bạc phát hiện
trong điện thoại di động Nokia 105 màu xanh của Trần Văn C, điện thoại Viettel
màu đỏ đen của Thiều Viết Q cùng ở thôn Thọ Lộc, xã Đồng Lợi, huyện Tr có tin
nhắn đánh bạc dưới hình thức ghi số lơ đề. Q trình đấu tranh Q và Cấp khai nhận
dùng điện thoại di động của mình nhắn tin các số lô, đề để đánh bạc với Đỗ Viết T ở
thôn Thị T, xã Đồng T, huyện Tr.
Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tr tiến hành khám xét
khẩn cấp chỗ ở, đồ vật và bắt khẩn cấp đối với Đỗ Viết T về hành vi thu gom số lô,
đề của các con bạc. Thu giữ: 01 điện thoại di động Iphone4 màu trắng, 01 điện thoại
di động Iphone4 màu đen; 01 điện thoại Nokia 220 màu đen; 01 điện thoại Samsung
S7392 màu trắng đều đã qua sử dụng; 01 tờ giấy A4, 01 sổ tay H Tiến màu hồng ghi
chữ và số. T khai nhận: T bán số lô đề cho Q, Cấp, Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị M xã
Đồng Thắng; nhận bảng của các thư ký Lê Thị H, Nguyễn Thị T đều ở xã Đồng Tiến,
Lê Tiến L ở xã Đồng Thắng huyện Tr, sau đó tập hợp thành bảng và chuyển một
phần bảng cho Nguyễn Thị Th ở xã Đ, huyện Đ để hưởng hoa hồng.
Hình thức đánh bạc của các đối tượng, cụ thể như sau: Các con bạc lấy hai số
bất kỳ từ 00 đến 99 sau đó đánh bạc với chủ lô, đề hoặc thư ký. Nếu đánh đề thì so
sánh với hai số cuối của giải đặc biệt xổ xố kiến thiết Miền Bắc, nếu đánh lô thì so
sánh với hai số cuối của tất cả các giải từ giải đặc biệt đến giải bảy. Trúng số đề là
trùng với hai số cuối của giải đặc biệt, số lô là hai số cuối của tất cả các giải. Con
bạc nào có nhu cầu ghi số lơ, đề sẽ đến gặp thư ký ghi số lô, đề và đọc những số lô,
đề cho thư ký ghi chép lại vào 01 tờ giấy (phôi đề) hoặc các con bạc nhắn tin qua tin
nhắn điện thoại, sau khi nhận được tin nhắn của các con bạc các chủ đề hoặc thư ký


10
nhắn tin lại là OK nghĩa là đồng ý. Người đánh đề ghi tương ứng với 1.000đ nếu
trúng thì được hưởng gấp 70 lần. Số lô được ghi bằng điểm, mỗi điểm lơ được tính

bằng 23.000đ, nếu trúng người đánh được hưởng 80.000đ trên một điểm lô. Các con
bạc mua số lơ, đề của ai thì thanh T trực tiếp với người đó. Thư ký sẽ trực tiếp cân
đối thắng thua với chủ lơ, đề, thừa thì chủ đề hưởng, thiếu thì chủ đề pH bù. Thư ký
tập hợp thành bảng rồi chuyển cho chủ đề qua điện thoại bằng hình thức nhắn tin
hoặc gọi điện thoại trực tiếp để đọc những số lô, đề. Ngày 03/4/2017 số đề trúng là:
43; số lô trúng là: 02, 03, 07, 10, 13, 19, 20, 25, 28, 38, 43, 50, 56, 81, 89.
Vào các buổi chiều hàng ngày chủ lô, đề ở nhà gọi điện thoại cho các thư ký
để ghi các số lô, đề để gom thành bảng; hoặc các thư ký nhắn tin qua tin nhắn điện
thoại; hoặc nộp bảng trực tiếp cho chủ lô, đề. Các chủ đề sau khi tính T có thể
chuyển bảng hoặc để lại ơm. Sau khi có kết quả xổ xố kiến thiết Miền Bắc chủ đề
và thư ký sẽ tính thắng thua. Tiền thắng thua sẽ được thanh T vào ngày hôm sau.
Nếu chủ lô, đề thắng sẽ gặp thư ký lấy tiền, nếu thua thì thư ký gặp chủ lơ, đề lấy
tiền đồng thời trả tiền triết khấu phần trăm hoa hồng. Tùy từng thỏa thuận mà có thể
được hưởng 25%-27% đối với số đề, 1.000đ - 1.200đ đối với một số lô.
Do có hành vi nêu trên, tại Bản án số 09/2018/HSST ngày 06/02/2018 của
Tòa án nhân dân huyện Tr đã quyết định: Lê Thị N, Ngô Thị N, Đỗ Viết T, Lê Thị H,
Nguyễn Thị T, Trần Thị Đ, Đỗ Thị C, Lê Văn Ch, Lê Văn Đ phạm tội “Đánh bạc”.
 Nhận xét đánh giá
Như vậy, trong bản án trên, Tòa án đã nhận định Đỗ Viết T chỉ thực hiện một
hành vi phạm tội là hành vi “đánh bạc” với nhiều người thơng qua các thư kí đề
(người ghi phơi đề).
Tuy nhiên, Tịa án đã có thiếu sót trong việc xác định hành vi thu gom số lô,
đề của các con bạc. Mặc dù T có thực hiện hành vi đánh bạc với nhiều người, nhưng
T cũng đã tổ chức một mạng lưới các thư kí đề, tổ chức mạng lưới bán số lô số đềđây là một dạng hành vi tổ chức đánh bạc.
Theo tác giả, trong vụ án trên, Tịa án cần phân tích, đánh giá cả hai dạng
hành vi phạm tội của bị cáo T: Thứ nhất, bị cáo T có hành vi tổ chức đánh bạc
thông qua việc tổ chức một mạng lưới các thư kí đề, tổ chức mạng lưới bán số lơ số
đề để nhiều con bạc có thể thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức lơ đề. Thứ
hai, bị cáo T cũng chính là người có hành vi đánh bạc với nhiều người, bị cáo T là
người “cầm cái”, người “thầu đề”, trực tiếp hoặc qua các thư kí đề để thực hiện

hành vi cá cược, được thua bằng tiền với những người ghi lô đề, hành vi này được


11
xem là hành vi đánh bạc với nhiều người. Do đó, Tịa án cần áp dụng cả hai tội
phạm là Tội đánh bạc (Điều 321 BLHS) và Tội tổ chức đánh bạc (Điều 322 BLHS)
đối với bị cáo T tương ứng với hai hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
 Vụ án thứ hai ( Phụ lục số 02)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Vào lúc 16 giờ 15 phút ngày 25/9/2017, tại nhà số K259B đường C, tổ 90
phường X, quận K, thành phố Đà Nẵng, Công an phường X bắt quả tang Phạm Thị
Bích N đang bán số đề cho Lê Thị M đánh 02 đài Thừa Thiên – Huế và Phú Yên:
đánh số 752 (17 lô) – 26 (là 26.000đ), đánh số 52 (đầu đuôi) – 26 (là 26.000đ), đánh
số 345 (độc đắc) – 13 (là 13.000đ), với số tiền là 65.000đ và bán số đề cho Nguyễn
Thị H đánh 02 đài Thừa Thiên – Huế và Phú Yên: đánh số 46, 69 (đầu đuôi) – 39
(là 39.000đ), đánh số 987 (độc đắc) – 39 (là 39.000đ), với số tiền là 78.000đ.
*Tiến hành khám xét nhà của Phạm Thị Bích N thu giữ:
 02 cuốn tịch đề.
 02 tờ giấy ghi đề, 01 cây b t bi.
 01 máy tính hiệu Casio DF-120BM màu xám.
 Số tiền 1.183.000đ là số tiền Phạm Thị Bích N có được từ việc bán số đề.
 Số tiền để trong túi xách màu đen 16.070.000đ. Trong đó, 12.000.000đ là
tiền đám hỏi của Trần Thị Bích P con gái bà N đưa mẹ giữ dùm, 4.070.000đ là tiền
của cá nhân N.
Kết quả điều tra Phạm Thị Bích N khai nhận: Từ đầu năm 2017 đến ngày bị
bắt 25/9/2017, hàng ngày vào khoảng 15 giờ 30 phút đến 18 giờ N bán số đề cho
khách tại nhà. N nhận bán số đề cho chủ cái (không biết tên, địa chỉ) để được hưởng
lợi 7% trên tổng số tiền ghi trên tịch đề, để khuyến khích người mua đề N tự cộng
thêm 30% cho người mua đề; cuối giờ xổ số của các tỉnh miền Bắc vào 18 giờ 15
phút hằng ngày và miền Trung vào 17 giờ 15 phút hằng ngày, chủ cái cho người

đến thu tiền và lấy tịch đề do N bán được.
Trong ngày 24/9/2017, N đã bán số đề cho 23 lượt người (không rõ họ tên,
địa chỉ) được tổng số tiền 2.690.000đ. N tự cộng thêm 30% cho người mua đề nên
số tiền ghi trên tịch đề là 3.555.000đ, số tiền thực nhận của người chơi đề là
2.690.000đ và số tiền người chơi trúng thưởng là: 15.485.000đ. N thu lợi bất chính
là: 248.850đ.
Ngày 25/9/2017, N đã bán số đề cho 18 lượt người (trong đó: có 16 lượt
người(khơng rõ họ tên, địa chỉ), Lê Thị M và Nguyễn Thị H) được tổng số tiền


12
1.506.000đ. N tự cộng thêm 30% cho người mua đề nên số tiền ghi trên tịch đề là
1.982.500đ, số tiền thực nhận của người chơi đề là 1.506.000đ. Trong đó, bán số đề
cho Lê Thị M với số tiền 65.000đ, số tiền thực nhận của Lê Thị M là 50.000đ và
bán số đề cho Nguyễn Thị H với số tiền 78.000đ, số tiền thực nhận của Nguyễn Thị
H là 60.000đ. N thu lợi bất chính là: 138.775đ. Do khi bị bắt chưa có kết quả xổ số
nên khơng xác định được số tiền thắng đề.
Như vậy, trong hai ngày 24 và 25 tháng 9 năm 2017, Phạm Thị Bích N đã tổ
chức đánh bạc cho 41 lượt người chơi với tổng số tiền tổ chức đánh bạc là
19.040.000đ + 1.982.500đ = 21.022.500đ (Hai mươi mốt triệu không trăm hai mươi
hai nghìn năm trăm đồng). N thu lợi bất chính là: 248.850đ + 138.775đ = 387.625đ
(Ba trăm tám mươi bảy nghìn sáu trăm hai mươi lăm đồng).
Tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 15/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân
quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Phạm Thị Bích N về tội Tổ chức
đánh bạc theo khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự 1999
Bản án Số 21/2018/HS-ST ngày 13/3/2018 của TAND quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng tuyên bố bị cáo Phạm Thị Bích N phạm tội Tổ chức đánh bạc .
 Nhận xét đánh giá
Như vậy, trong vụ án trên, Tòa án đã xác định bị cáo N thực hiện hành vi tổ
chức đánh bạc trong khoảng thời gian hai ngày 24 và 25 tháng 9 năm 2017, tại

K259B đường C, tổ 90 phường X, quận K, thành phố Đà Nẵng, Phạm Thị Bích N
có hành vi tổ chức đánh bạc bằng hình thức ghi số đề cho 41 lượt người chơi với số
tiền đánh bạc là: 21.022.500đ; tổng số tiền thu lợi bất chính là: 387.625đ. Hành vi
phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến trật tự cơng
cộng. Từ việc đánh bạc có thể dẫn đến nhiều hành vi trái pháp luật khác, mà hành vi
tổ chức đánh bạc bằng hình thức ghi số đề là tạo điều kiện cho việc đánh bạc.
Tuy nhiên, trong vụ án trên, Tòa án chưa đánh giá về hành vi đánh bạc của bị
cáo N. Bởi bị cáo N cũng có hành vi đánh bạc với nhiều người với số tiền đánh bạc
được xác định là 21.022.500đ. Trong trường hợp này, tòa án cần đánh giá rõ về
hành vi đánh bạc của bị cáo bên cạnh hành vi tổ chức đánh bạc và lập luận, nêu căn
cứ pháp lý để xử lý bị cáo về Tội tổ chức đánh bạc mà không xử lý bị cáo về Tội
đánh bạc.
Theo tác giả, trong vụ án trên, Tịa án cần phân tích, đánh giá cả hai dạng
hành vi phạm tội của bị cáo N: Thứ nhất, bị cáo N có hành vi tổ chức đánh bạc
thông qua việc tổ chức bán số lô số đề để nhiều con bạc có thể thực hiện hành vi


13
đánh bạc dưới hình thức lơ đề. Thứ hai, bị cáo N cũng chính là người có hành vi
đánh bạc với nhiều người, bị cáo N là người “cầm cái”, người “thầu đề”, trực tiếp
thực hiện hành vi cá cược, được thua bằng tiền với những người ghi lô đề, hành vi
này được xem là hành vi đánh bạc với nhiều người. Do đó, Tịa án cần áp dụng cả
hai tội phạm là Tội đánh bạc (Điều 321 BLHS) và Tội tổ chức đánh bạc (Điều 322
BLHS) đối với bị cáo N tương ứng với hai hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
Vụ án thứ ba (Phụ lục 03)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyễn Thị Bé B, sinh năm 1972 ở ấp Phú Ph III, xã Bình Ph, huyện Càng L,
bắt đầu ghi số đề (đầu, đuôi) vào khoảng tháng 01 năm 2017 đến ngày 21/6/2017.
Mỗi ngày ghi số bán cho các con bạc thấp nhất là 1.000.000 đồng, cao nhất là
15.000.000 đồng. Hình thức ghi số là các con bạc đến nhà gặp Bé B đưa tờ phơi đã

ghi sẵn các con số, số tiền, đài cần mua đưa, nói cho Bé B ghi lại hoặc gởi tin nhắn
hay điện thoại vào máy di động của Bé B với số thuê bao 0166 2 194 639 hoặc số
0899 070 488 để mua số. Sau khi nhận tin nhắn ghi số, Bé B trả lời tin nhắn “OK”
tức là đồng ý ghi số hoặc ghi âm lại và ghi vào tờ phơi đối với những cuộc gọi đến.
Sau đó, Bé B tổng hợp lại các con số đã bán trong ngày vào tờ giấy để đối chiếu với
kết quả xổ số kiến thiết và tính tiền với các con bạc. Bé B giữ lại các phơi, tin nhắn
và các cuộc gọi mua số để trực tiếp ăn thua với các con bạc. Khi có kết quả xổ số
nếu con bạc có con số trúng thì đến gặp Bé B hoặc hẹn ở một địa điểm nào đó để
nhận tiền trúng. Tỷ lệ ăn thua như sau: nếu đánh hai con số thì 1.000 đồng ăn
70.000 đồng, nếu đánh ba con số thì 1.000 đồng ăn 600.000 đồng và đánh có 4 chữ
số thì 1.000 đồng thắng 5.000.000 đồng.
Vào khoảng 15 giờ ngày 21 tháng 6 năm 2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an huyện Càng L kết hợp với Cơng an xã Bình Ph tiến hành đến nhà của
Nguyễn Thị Bé B kiểm tra, bắt quả tang Bé B đang tổ chức ghi biên số đề cho Hồ
Văn Minh Kh, sinh năm 1983, ngụ ấp Long Tr, xã Bình Ph, huyện Càng L, tỉnh Trà
Vinh. Cơng an huyện Càng L tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Cơ quan điều tra Công an huyện Càng L, tiến hành cộng phơi và kiểm tra
điện thoại thu giữ của Nguyễn Thị Bé B khi bắt quả tang, đồng thời đối chiếu với
kết quả xổ số có sự chứng kiến của Nguyễn Thị Bé B, xác định:
* Ngày 18/6/2017, Nguyễn Thị Bé B ghi số đề ở ba đài miền Nam là Tiền
Giang, Kiên Giang, Đà Lạt và đài xổ số miền Bắc với tổng số tiền cộng phơi là
4.143.000 đồng. Đối chiếu với kết quả xổ số thì số tiền con bạc trúng thưởng là


14
2.210.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc trong ngày 18/6/2017 là 6.353.000
đồng. Cụ thể các con bạc như sau:
- Lê Văn Mười M, sinh năm 1987, ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện Càng
L, tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 1.850.000 đồng. Đối chiếu với kết quả trúng
thưởng là 1.300.000 đồng.

- Bùi Văn Ch, sinh năm 1960 ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện Càng L,
tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 1.276.000 đồng. Đối chiếu với kết quả trúng
thưởng là 700.000 đồng.
- Ngồi ra, cịn nhiều con bạc khác nhưng Bé B không rõ nhân thân và địa chỉ
cụ thể đến mua số với số tiền mua số là 1.017.000 đồng. Đối chiếu với kết quả trúng
thưởng là 210.000 đồng.
* Ngày 19/6/2017, Nguyễn Thị Bé B ghi số đề ở ba đài miền Nam là thành
phố Hồ Chí Minh, Cà Mau, Đồng Tháp và đài xổ số miền Bắc với tổng số tiền cộng
phơi là 6.418.000 đồng. Đối chiếu với kết quả xổ số thì số tiền con bạc trúng thưởng
là 4.450.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc trong ngày 19/6/2017 là
10.868.000 đồng. Cụ thể Bé B bán cho các con bạc như sau:
- Lê Văn Mười M, sinh năm 1987, ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện Càng
L, tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 3.643.000 đồng. Đối chiếu với kết quả trúng
thưởng là 950.000 đồng.
- Bùi Văn Ch, sinh năm 1960 ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện Càng L,
tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 1.714.000 đồng. Đối chiếu với kết quả trúng
thưởng là 3.150.000 đồng.
- Ngồi ra, cịn nhiều con bạc khác khơng rõ nhân thân và địa chỉ cụ thể đến
mua số với số tiền mua số là 1.061.000 đồng. Đối chiếu với kết quả trúng thưởng là
350.000 đồng.
* Ngày 20/6/2017, Nguyễn Thị Bé B ghi số đề ở ba đài miền Nam là Vũng
Tàu, Bến Tre, Bạc Liêu và đài xổ số miền Bắc với tổng số tiền cộng phơi là
13.953.500 đồng. Đối chiếu với kết quả xổ số thì số tiền con bạc trúng thưởng là
11.250.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc trong ngày 20/6/2017 là
25.203.500 đồng. Cụ thể Bé B bán cho các con bạc như sau:
- Lê Văn Mười M, sinh năm 1987, ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện Càng
L, tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 1.248.000 đồng. Đối chiếu với kết quả trúng
thưởng là 2.850.000 đồng.



15
- Bùi Văn Ch, sinh năm 1960 ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện Càng L,
tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 1.456.000 đồng.
- Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1948, ngụ ấp Phú H 1, xã Bình Ph, huyện Càng L,
tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 1.842.000 đồng. Đối chiếu với kết quả trúng
thưởng là 1.190.000 đồng.
- Hồ Văn Minh Kh, sinh năm 1983, ngụ ấp Long Tr, xã Bình Ph, huyện Càng
L, tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 1.260.000 đồng.
- H không rõ nhân thân và địa chỉ cụ thể mua số với số tiền là 7.596.500
đồng. Đối chiếu với kết quả trúng thưởng là 7.210.000 đồng.
- Sáu không rõ nhân thân và địa chỉ cụ thể mua số với số tiền là 81.000 đồng
- Ngồi ra, cịn nhiều con bạc khác nhưng Bé B không rõ nhân thân và địa chỉ
cụ thể bán với số tiền mua số là 470.000 đồng.
* Ngày 21/6/2017, Nguyễn Thị Bé B ghi số đề ở ba đài Đồng Nai, Cần Thơ
và Sóc Trăng, với tổng số tiền cộng phơi là 3.828.000 đồng. Do thời điểm bắt quả
tang trước khi có kết quả mở thưởng như vậy tổng số tiền đánh bạc trong ngày
21/6/2017 là 3.828.000 đồng. Cụ thể Bé B bán cho các con bạc như sau:
- Lê Văn Mười M, sinh năm 1987, ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện Càng
L, tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 312.000 đồng.
- Nguyễn Văn Bé S, sinh năm 1970 ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện
Càng L, tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 726.000 đồng.
- Bùi Văn Ch, sinh năm 1960 ngụ ấp Phú Ph 3, xã Bình Ph, huyện Càng L,
tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 930.000 đồng.
- Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1948, ngụ ấp Phú H 1, xã Bình Ph, huyện Càng L,
tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 1.260.000 đồng.
- Hồ Văn Minh Kh, sinh năm 1983, ngụ ấp Long Tr, xã Bình Ph, huyện Càng
L, tỉnh Trà Vinh mua số với số tiền là 600.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2017/HSST, ngày 25/12/2017 của Tòa
án nhân dân huyện Càng L đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Bé B phạm tội “Đánh bạc và tổ chức đánh bạc”

 Nhận xét, đánh giá
Như vậy, theo nhận định của Tòa án, bị cáo B đã nhận thức rõ hành vi thầu
đề ăn thua bằng tiền bị pháp luật cấm, nhưng vì hám lợi, lười lao động, bị cáo đã đi
vào con đường phạm tội đứng ra thầu đề để cho nhiều người mua số đề dưới nhiều
hình thức ăn thua bằng tiền, đây là hành vi mà pháp luật cấm. hành vi phạm tội của


16
bị cáo đã xâm phạm đến an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng mà pháp luật hình sự
bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo cịn có thể kéo theo các tê nạn xã hội khác, làm
cho kinh tế gia đình kiệt huệ. Chính vì vậy, Tịa án sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội
“Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 và khoản 1
Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1999.
Điều này đã cho thấy sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật của các
Tòa án, vụ án thứ hai (đã trình bày ở trên) và vụ án thứ ba này có nội dung, tình tiết
giống nhau nhưng các Tòa án đã định tội danh khác nhau đối với các bị cáo: bị cáo
N thực hiện hành vi bán lô đề bị xử lý về Tội tổ chức đánh bạc nhưng bị cáo B thực
hiện hành vi bán lô đề lại bị xử lý về hai tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”
Ngoài ra, trong vụ án trên, Tịa án đã khơng đánh giá về từng hành vi phạm
tội của bị cáo, hành vi nào là hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc,
hành vi nào là hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức đánh bạc. Đồng
thời, Tòa án cũng cần phải giải thích trong bản án lý do áp dụng cả hai tội phạm này
đối với bị cáo.
Vụ án thứ tư (Phụ lục số 04.)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Ngày 03/4/2016, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Thanh Hóa phối hợp
với Cơng an tỉnh Thanh Hóa bắt và khám xét khẩn cấp đối với Nguyễn Thành T;
Nguyễn Hữu Q; Nguyễn Văn V, Nguyễn Thế H, Nguyễn Chiến T, Nguyễn Văn N
về hành vi đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá qua mạng internet được, thua
bằng tiền. Sau khi bắt khẩn cấp các đối tượng trên thì Đỗ Dương P, Lê Hồng A, Lê

Văn H, Ngơ Quốc T, Đỗ Thanh Q, Nguyễn Vĩnh L đã đến Cơng an thành phố
Thanh Hóa xin đầu thú.
Tại cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận: Do có mối quan hệ từ trước và
biết Thanh hay chơi cá độ thể thao qua mạng Internet, nên vào khoảng tháng
11/2015 Nguyễn Thành T đặt vấn đề với Thanh (theo T khai khoảng 50 tuổi, ở Hà
Nội chưa xác định được nhân thân, lai lịch) lấy 01 tài khoản cá độ thể Thao có ký
hiệu Ht05v5, giữa T và Thanh thống N giá quy đổi 1USD = 7.000đ; tài khoản
Thanh giao cho T có mật khẩu là abc123, trị giá 100.000USD tương đương
700.000.000đ (Bảy trăm triệu đồng) tiền ảo. Sau khi nhận tài khoản từ Thanh, T về
đổi thành mật khẩu mới là Ntl@.123, đường link là www.agent.7700077. com và
chia thành nhiều tài khoản nhỏ rồi giao cho Nguyễn Văn N có nhiệm vụ giao lại cho
các đại lý và con bạc cấp dưới để Tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá


17
qua mạng internet, và N cũng là người trực tiếp Thanh toán thắng, thua với các con
bạc cấp dưới.
Khoảng tháng 02/2016 Nguyễn Thế H sinh năm 1983 ở 174B Đội Cung,
phường Đơng Thọ, thành phố Thanh Hóa có giao dịch với một người tên Hoàng, Đống
Đa, thành phố Hà Nội (chưa xác định được địa chỉ cụ thể) để lấy 02 tài khoản có ký
hiệu đăng nhập là “ht7cq1” và “ht7c7b” đường link là www.agent.7700077.com. Sau
khi lấy tài khoản của Hoàng, H giao lại cho Nguyễn Hữu Q tài khoản “ht7cq1” có trị
giá 100.000USD tương đương 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) tiền ảo để Q chuyển lại
cho các đại lý và con bạc cấp dưới đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá qua mạng
Internet. Mục đích H ăn tiền hoa hồng (tiền COM). Ngoài lấy tài khoản từ H, Nguyễn
Hữu Q cịn lấy một tài khoản có tên đăng nhập là Msds01 của một người chỉ biết tên là
Huy ở phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa. Q và Huy thỏa thuận giá quy đổi
1USD = 8.000đ; tài khoản có giá trị 10.000USD tương đương 800.000.000đ (Tám trăm
triệu đồng) tiền ảo. Sau khi lấy 02 tài khoản của H và Huy, Q cho Lê Hồng A và Ngơ
Quốc T chung 10% tổng giá trị tiền đánh bạc bằng cách theo dõi qua Sub:

Msds01sub88 và Ht7cq1sub88 trong tổng Msds01 rồi chia thành nhiều tài khoản nhỏ
giao lại cho các đại lý và con bạc cấp dưới để trực tiếp đánh bạc bằng hình thức cá độ
thể Thao qua mạng internet, mục đích để ăn chênh lệch tiền quy đổi giá đơ, việc Thanh
tốn tiền thắng thua với các con bạc do Q trực tiếp thực hiện. Mặt khác vào khoảng
tháng 02/2016 Q cịn dùng điện thoại để cá độ bóng đá hình thức đánh bóng chết
(nghĩa là nhận kèo cá độ bóng đá với tỷ lệ chấp, tỷ lệ đặt cược cố định cho đến khi kết
thúc trận đấu) thông qua hình thức tin nhắn với: Nguyễn Chiến Thắng và Trịnh Bá T.
* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HS-ST ngày 25/01/2018 của
Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa đã quyết định:
- Căn cứ Khoản 1 Điều 249; Điểm b khoản 2 Điều 248; điểm p khoản 1,
khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20; Điều 53; điểm a khoản 1 Điều
50; Điều 33 BLHS (đối với bị cáo Nguyễn Thành T).
- Căn cứ Khoản 1 Điều 249; Điểm p Khoản 1, 2 Điều 46; Điều 33 BLHS (đối
với bị cáo H và bị cáo N); Điều 20; Điều 53 BLHS (đối với các bị N);
- Căn cứ Điểm b, c Khoản 2 Điều 248; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p
khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33; điểm a khoản 1 Điều 50;
khoản 2 Điều 51 BLHS ( đối với bị cáo Nguyễn Đăng Kh);


18
- Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 248; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản
1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 BLHS; ( đối với các bị cáo Hữu Q,
T; P; H; Quốc T; Q T và Hoàng A).
- Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 248; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1
Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 BLHS; ( đối với bị cáo V).
- Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 248; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản
1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; khoản 1, 2 Điều 60 BLHS (đối với bị cáo Đỗ
Thanh Q);
- Căn cứ Khoản 1 Điều 248; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều
46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 BLHS; khoản 2 Điều 46 BLHS (đối với bị cáo Lê

Tiến Đ);
- Căn cứ Khoản 1 Điều 248; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2
Điều 46; Điều 20; Điều 53; khoản 1,2 Điều 60 BLHS; (đối với các bị cáo Mai Thế A);
- Căn cứ Khoản 1 Điều 248; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản
2 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 BLHS; điểm a khoản 1 Điều 50; khoản 2
Điều 51; khoản 5 Điều 60 BLHS đối với bị cáo M và bị cáo T (điểm q khoản 1 Điều
46 BLHS đối với riêng bị cáo T).
- Căn cứ Khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều
53; Điều 33 BLHS (đối với bị cáo L);
- Căn cứ Khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản
1 Điều 48; Điều 20; Điều 53; Điều 31 BLHS (đối với bị cáo H).
- Căn cứ Khoản 1 Điều 248; điểm p, h khoản 1, 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53;
Điều 30 BLHS (đối với bị cáo Thắng).
Tuyên bố: - Bị cáo cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”
và tội “Đánh bạc”;
- Bị cáo Nguyễn Thế H và bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tổ chức
đánh bạc”;
- Các bị cáo Nguyễn Hữu Q; Nguyễn Văn T; Đỗ Dương P; Nguyễn Đăng Kh;
Nguyễn Xuân P; Đỗ Thanh Q; Ngơ Quốc T; Trần Quốc T; Lê Hồng A; Nguyễn
Văn V; Lê Tuấn Đ; Mai Thế A; Nguyễn Vĩnh L; Lê Văn H; Nguyễn Đức M; Trịnh
Bá T và Nguyễn Chiến T phạm tội “Đánh bạc”;
- Nhận xét đánh giá:
- Tuy nhiên, trong vụ án trên, Tòa án đã không đánh giá về từng hành vi
phạm tội của bị cáo, hành vi nào là hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của tội đánh


19
bạc, hành vi nào là hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức đánh bạc.
Đồng thời, Tịa án cũng cần phải giải thích trong bản án lý do áp dụng cả hai tội
phạm này đối với bị cáo T mà chỉ áp dụng tội tổ chức đánh bạc đối với bị cáo H và

bị cáo N.
Tòa án chưa giải thích:Vì sao H và N chỉ phạm một tội mà bị cáo T phạm hai
tội. Bởi trong vụ án trên, bị cáo H, N và T cùng thực hiện đường dây tổ chức đánh
bạc và thực hiện hành vi đánh bạc với nhiều người, nhưng việc định tội danh lại
khác nhau giữa các bị cáo, có bị cáo phạm một tội nhưng cũng có bị cáo phạm hai
tội mà Tòa án chưa nêu rõ lý do và căn cứ pháp lý áp dụng đối với các bị cáo.
Nhận xét chung:
Qua nghiên cứu thực trạng giải quyết các vụ án nêu trên nhận thấy hành vi
khách quan của các bị cáo trong các vụ án là giống nhau, thế nhưng việc xác định
tội danh để truy tố, xét xử đối với bị cáo lại có sự khác nhau. Chính vì những vướng
mắc trong các quy định của pháp luật, trong thực tiễn xét xử hiện nay còn áp dụng
chưa thống nhất tội danh đối với hành vi của chủ đề, chủ cá độ bóng đá. Có địa
phương áp dụng Tội đánh bạc nhưng cũng có địa phương áp dụng Tội tổ chức đánh
bạc và cũng có địa phương áp dụng cả hai Tội tổ chức đánh bạc và Tội đánh bạc đối
với hành vi của chủ đề, chủ cá độ bóng đá. Xét về mặt chủ quan của tội phạm thì
chủ lơ, đề là người trực tiếp tham gia đánh bạc, thuộc trường hợp một người đánh
bạc với nhiều người. Người chủ lơ cũng chính là người tổ chức lên bảng lô để chơi
với các con bạc khác. Bản chất hành vi của người chủ đề là có dấu hiệu pháp lý của
cả hai tội đánh bạc (Điều 321 BLHS) và Tội tổ chức đánh bạc (Điều 322 BLHS).
Đây là vấn đề thực tiễn còn chưa thống nhất trong việc định tội danh theo các quy
định của BLHS nên cần có sự hướng dẫn cụ thể.
1.3. Kiến nghị hoàn thiện
Hiện nay, căn cứ pháp lý được áp dụng để xử lý tội “Đánh bạc” và “Tổ chức
đánh bạc” là Điều 321, 322 Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết 01/2010 ngày
22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 1999. Tại các quy định trên
khơng có quy định cụ thể phải xử lý hành vi của chủ đề cũng như hành vi của người
ghi đề về tội gì.6 Chính vì vậy, hiện nay về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng còn tồn
tại nhiều quan điểm khác nhau về việc định tội danh đối với hành vi của người chủ
6


/>

20
lơ đề, cá độ bóng đá. Các cơ quan tư pháp trung ưng cần ban hành văn bản liên tịch
để thống nhất định tội danh đối với dạng hành vi phạm tội này.
Hành vi của người chủ lô đề, cá độ bóng đá thể hiện qua việc đánh bạc dưới
hình thức số đề mà chủ đề là người khởi xưởng, chuẩn bị các công cụ, phương tiện
để phục vụ cho việc đánh bạc như: Máy fax, máy tính..., đồng thời để có số lượng
con đề tham gia đánh bạc nhiều, ngoài việc chủ đề trực tiếp ghi đề với các con bạc,
chủ đề cịn thu gom các tịch đề thơng qua các đối tượng ghi đề mang về giao lại;
người ghi đề được hưởng hoa hồng do thỏa thuận giữa chủ đề và người ghi đề. Khi
có kết quả xổ số, kết quả đá bóng nếu các con đề trúng thì chủ đề sẽ dùng tiền của
mình chung chi cho các con đề (có thể chủ đề trực tiếp thực hiện hoặc thơng qua
người ghi đề). Ngồi ra, trong q trình thực hiện tội phạm, chủ đề cịn có hành vi
rủ rê lôi kéo những người ghi đề từ các con đề sau đó giao lại cho chủ đề. Đó là
hành vi có dấu hiệu tổ chức đánh bạc. Thực tế cho thấy về hành vi này hiện này có
những quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất, cho rằng hành vi của người ghi số đề nếu đủ căn cứ để
xử lý TNHS thì phải bị xử lý về tội tổ chức đánh bạc (theo Điều 249 BLHS năm
1999, Điều 322 BLHS năm 2015) mới đúng tội và phù hợp với hành vi khách quan
của tội này, vì bản chất không phải là một người đánh bạc với nhiều người để truy tố,
xét xử về tội đánh bạc.7
Quan điểm thứ hai cho rằng cả chủ đề và người chơi đề đều là những người
đánh bạc bởi lẽ người chơi đề họ dùng tiền để đánh đề và ăn thua trực tiếp với chủ đề;
ngược lại người chủ đề cũng ăn thua trực tiếp với người chơi đề.8 Trường hợp này cũng
tương tự như trường hợp người xóc dĩa, xóc bầu cua, người cầm cái đánh bài lá, nếu đủ
yếu tố cấu thành tội thì họ phạm tội đánh bạc chứ không phải tội tổ chức đánh bạc.
Tại điểm 5.2 khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TANDTC quy định:

“5.2. Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc
a) Trường hợp có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì
số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá
độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải
bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người)
7

Lê Văn Sua, Tội Đánh bạc - những vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện, />8
/>

×