Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về công tác hoà giải cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.37 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN ANH TUẤN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP
TỈNH ĐỐI VỚI TỔ CHỨC GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Văn Nhiêm
Học viên: Trần Anh Tuấn
Lớp: Cao học Luật Khóa K24

Thành phố Hồ Chí Minh, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng tất cả nội dung trong Luận văn này hồn tồn được hình


thành và phát triển từ những quan điểm cá nhân của tôi, dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm – Giảng viên Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh.
Trong Luận văn có trích dẫn, sử dụng một số ý kiến, quan điểm khoa học của
một số tác giả. Sự trích dẫn này được thể hiện cụ thể trong Danh mục tài liệu tham
khảo và tuân thủ các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tơi xin chịu trách
nhiệm về tính trung thực, khách quan của các dữ liệu, số liệu và các thơng tin được
trình bày trong Luận văn.

Người cam đoan

Trần Anh Tuấn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Luật GĐTP 2012

: Luật giám định tư pháp năm 2012

TAND

: Tòa án nhân dân

TS

: Tiến sĩ

GS


: Giáo sư

UBND

: Ủy ban nhân dân

GĐTP

: Giám định tư pháp


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1.

Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2

3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ......................................................... 4

4.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 5

5.


Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5

6.

Các điểm mới, các đóng góp của luận văn ................................................... 6

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH ĐỐI VỚI TỔ CHỨC GIÁM
ĐỊNH TƯ PHÁP ........................................................................................................ 7
1.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm của tổ chức giám định tư pháp ......... 7
1.1.1. Khái niệm tổ chức giám định tư pháp ....................................................... 7
1.1.2. Phân loại tổ chức giám định tư pháp ....................................................... 13
1.1.3. Đặc điểm của tổ chức giám định tư pháp ................................................ 18
1.2. Sự cần thiết quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ
chức giám định tư pháp ...................................................................................... 21
1.2.1. Tổ chức giám định tư pháp ở địa phương ngày càng có vai trị quan trọng
đối với hiệu quả của hoạt động tố tụng .............................................................. 21
1.2.2. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan hành chính có nhiệm vụ quản lý nhà
nước tại địa phương ........................................................................................... 22
1.3. Nội dung quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ
chức giám định tư pháp ...................................................................................... 23
1.3.1. Thành lập tổ chức giám định tư pháp ...................................................... 23
1.3.2. Quản lý nhà nước về người giám định tư pháp ....................................... 25
1.3.3. Bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động, cơ sở vật chất và các điều kiện
cần thiết khác cho tổ chức giám định tư pháp công lập ở địa phương .............. 32


1.3.4. Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức pháp luật cho
giám định viên tư pháp ...................................................................................... 33

1.3.5. Đánh giá, kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm về giám định tư pháp................................................................................ 33
1.3.6. Phối hợp, báo cáo về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp ở địa phương
cho Bộ Tư pháp và Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan. .................................. 37
1.3.7. Vai trò của Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp ................. 38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN CẤP TỈNH ĐỐI VỚI TỔ CHỨC GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ................................................................. 42
2.1. Thực trạng về thành lập tổ chức giám định tư pháp và kiến nghị hoàn
thiện 42
2.2. Thực trạng về bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp và kiến
nghị hoàn thiện. ................................................................................................... 48
2.3. Thực trạng về bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động, cơ sở vật
chất, các điều kiện cần thiết khác cho tổ chức giám định tư pháp và kiến
nghị hoàn thiện .................................................................................................... 52
2.4. Thực trạng về tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức
pháp luật cho giám định viên tư pháp và kiến nghị hoàn thiện ...................... 56
2.5. Thực trạng về đánh giá, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo về giám định tư pháp và kiến nghị hoàn thiện ........................................... 57
2.5.1. Đối với công tác đánh giá hiệu quả thi hành ........................................... 57
2.5.2. Đối với công tác kiểm tra, thanh tra ........................................................ 59
2.5.3. Đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo .......................................... 62
2.6. Thực trạng về phối hợp, báo cáo về tổ chức, hoạt động giám định tư
pháp ở địa phương cho Bộ Tư pháp, Bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan và
kiến nghị hồn thiện ............................................................................................ 64


2.7. Thực trạng về vai trò của Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên môn của

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định
tư pháp .................................................................................................................. 66
2.7.1. Vai trò của Sở Tư pháp ............................................................................ 66
2.7.2. Vai trò của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ...... 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 74


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giám định tư pháp là hoạt động thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp hình thành xuất
phát từ nhu cầu của xã hội. Trong những năm qua các hoạt động giám định tư pháp
đã đưa ra rất nhiều kết quả giám định trải đều trên các lĩnh vực đời sống, qua đó đã
góp phần quan trọng trong hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm và giải quyết
các yêu cầu cấp bách của xã hội. Với nhu cầu xã hội ngày càng lớn, tất yếu dẫn đến
việc cần chun mơn hóa và hình thành nên các Tổ chức giám định tư pháp để tập
hợp và đưa hoạt động giám định tư pháp vào khuôn khổ. Tổ chức giám định tư pháp
xuất hiện do nhu cầu phát triển của xã hội, phục vụ cho các hoạt động tố tụng nên
không thể thiếu trong bất kỳ xã hội nào. Thông qua những kết luận của mình hoạt
động giám định đã tác động trực tiếp và đóng vai trị quan trọng vào việc giúp cơ
quan điều tra; truy tố; xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật một cách
cơng bằng, khách quan, chính xác.
Tầm quan trọng của tổ chức giám định tư pháp đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm thể hiện qua việc, từ năm 1997, Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII xác định: “Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt
động giám định tư pháp. Củng cố các cơ quan giám định tư pháp để hỗ trợ cho
công tác điều tra, truy tố, xét xử”. Tiếp đó, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2001 của Bộ Chính trị nêu: “Từng bước hồn thiện các tổ chức giám định tư
pháp. Sớm hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 chỉ rõ: “Hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần
đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt
động tố tụng. Thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định
khơng lớn, khơng thường xun”.
Với quan điểm nhất quán về vai trò quan trọng của hoạt động giám định tư
pháp nêu trên, ngày 20 tháng 06 năm 2012 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII thơng qua Luật giám định tư pháp có hiệu lực kể từ ngày
01 tháng 01 năm 2013. Đây là lần đầu tiên xác lập hành lang pháp lí nhằm hiện thực
hóa việc cho phép xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp với việc cho phép thành
lập Văn phòng giám định tư pháp cùng tồn tại và hoạt động với các tổ chức giám


2

định tư pháp cơng lập. Bên cạnh đó, đã quy định cụ thể về tổ chức giám định tư
pháp theo vụ việc. Đây có thể coi là một bước tiến lớn về nhận thức cũng như sự
thay đổi tư duy lập pháp về hoạt động giám định tư pháp.
Tuy nhiên, với việc đây là Luật đầu tiên được ban hành để quy định về lĩnh
vực giám định tư pháp dù mang nhiều yếu tố tích cực và tiến bộ nhưng khơng thể
tránh khỏi vẫn cịn nhiều điểm bất cập, vướng mắc, khó áp dụng thực hiện trên thực
tế. Trong đó, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động giám định tư pháp còn nhiều
bất cập, chồng chéo chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý. Đặc biệt, Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh với vai trò là cơ quan quản lý trực tiếp các tổ chức giám định
tư pháp vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế và chưa thể hiện hết vai trị quản lý của
mình, đặc biệt là về chất lượng giám định viên, việc vận hành, tổ chức hoạt động
của các tổ chức giám định tư pháp do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý từ đó dẫn
đến việc ảnh hưởng đến kết quả giám định nói riêng và hoạt động giám định tư
pháp ở địa phương nói chung. Với tính chất quan trọng giám định tư pháp nằm

trong nhóm bổ trợ tư pháp nên việc quản lý nhà nước đối với hoạt động giám định
tư pháp cần được chú trọng để đảm bảo hiệu quả trong quản lý nhà nước nói chung
và của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nói riêng đối với hoạt động giám định tư pháp.
Nhằm hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, đảm bảo quyền con người và một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Qua hơn 6 năm có hiệu lực thi hành trên thực tế Luật GĐTP 2012 đã bộc lộ
những hạn chế trong quá trình áp dụng và sự bất cập trong quá trình điều hành quản
lý các tổ chức giám định tư pháp. Do đó, cần có sự sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện
cơ sở pháp lý cần thiết đáp ứng yêu cầu của hoạt động giám định tư pháp.
Chính vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức Giám định tư pháp” làm đề tài luận văn Thạc sĩ
Luật học tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lĩnh vực giám định tư pháp tuy không phải là một lĩnh vực mới tuy nhiên hiện
nay đã và đang ngày càng nhận được sự quan tâm và nghiên cứu của các nhà khoa
học pháp lý dưới nhiều góc độ khác nhau thông qua các bài báo, tham luận, đề tài
nghiên cứu... Đối với nội dung quản lý nhà nước đối với tổ chức giám định tư pháp,
có thể kể đến bài báo “Nâng cao hiệu quả nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về


3

giám định tư pháp của Bộ Tư pháp”, Nguyễn Thị Thụy (2014), Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Bộ Tư pháp, 2014 số 11, tr.10-17; cơng trình nghiên cứu: “Quản lý nhà
nước về giám định tư pháp (từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh)”, Hồ Thị Quyên
(2010), Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, việc
nghiên cứu của cơng trình nêu trên chỉ giới hạn chủ yếu theo nội dung quản lý nhà
nước đối với tổ chức giám định tư pháp với đối tượng chính là thực tiễn tại Thành
phố Hồ Chí Minh theo Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Tiếp theo có thể kể đến cơng trình nghiên cứu: “Quản lý nhà

nước đối với tổ chức giám định tư pháp công lập”, Phạm Trân Nhật Thảo (2016),
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả Phạm
Trân Nhật Thảo đã tập trung nghiên cứu và phân tích về cơng tác quản lý nhà nước
đối với tổ chức giám định tư pháp công lập theo Luật GĐTP 2012 và nghị định số
85/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/9/2013 hướng dẫn chi tiết và biện pháp thi
hành Luật giám định tư pháp. Tuy nhiên tác giả chỉ mới tập trung vào các tổ chức
giám định tư pháp công lập mà chưa đề cập đến các loại hình tổ chức giám định tư
pháp khác như tổ chức giám định tư pháp ngồi cơng lập, tổ chức giám định tư pháp
theo vụ việc.
Bên cạnh đó, cịn có những cơng trình nghiên cứu chun sâu về giám định tư
pháp trong hoạt động tố tụng đặc biệt là lĩnh vực tố tụng hình sự, những bất cập,
vướng mắc liên quan đến vấn đề đồng bộ và thống nhất các quy định của pháp luật
về giám định tư pháp trong tố tụng hình sự cũng được đề cập để đưa ra các giải
pháp phù hợp nhằm tháo gỡ các bất cập đó, có thể kể đến là: Đối với cơng trình
nghiên cứu khoa học cấp bộ, nội dung về giám định tư pháp cũng được quan tâm,
nghiên cứu sâu sắc, có thể kể đến là: “Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Trần Mạnh Đạt (2010), Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ
Tư pháp. Đối với Luận án Tiến sĩ có “Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Nguyễn Thị Loan (2015), Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội Hà
Nội.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các Tạp chí Khoa học pháp
lý, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học và nhiều cơng
trình nghiên cứu khác đã phân tích sâu về các mặt trong hoạt động giám định tư
pháp. Các bài viết đã phần nào lột tả được quá trình hình thành và phát triển của
hoạt động giám định tư pháp song hành với quá trình xây dựng, ban hành cơ chế


4

quản lý nhà nước đối với hoạt động giám định tư pháp, những khó khăn, vướng mắc

trong q trình hoạt động của cơng tác giám định tư pháp. Từ đó bước đầu đưa ra
những kiến nghị để khắc phục.
Liên quan đến các lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, có một số bài viết, nghiên
cứu của các chuyên gia trong nước, chuyên gia nước ngoài và một số tài liệu hội
thảo, hội nghị quốc tế mà tác giả có điều kiện tiếp cận, cũng như có được qua q
trình nghiên cứu các đề tài, các bài viết của các tác giả nêu trên trong đó đáng chú ý
là: Hội thảo về giám định tư pháp - Tài liệu tham khảo, lưu hành nội bộ - NXB Tư
pháp, 2003; bài viết ThS. Tạ Đình Tun, “Mơ hình tổ chức giám định tư pháp ở
một số quốc gia trên thế giới”, truy cập
ngày 02/11/2019, những tài liệu này đề cập đến các nội dung chủ yếu như khái quát
hoạt động giám định tư pháp của Đức, Pháp, Nhật Bản, Thụy Điển, Trung Quốc,
Hoa Kỳ, Cộng hòa Singapore, Vương Quốc Anh, Nga…, giới thiệu kinh nghiệm
thành lập các tổ chức giám định tư pháp của một số nước.
Từ những cơng trình nghiên cứu trên là những tài liệu góp phần lớn để giúp
tác giả có thêm nhiều thơng tin, kiến thức quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu
và hoàn thiện luận văn. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu hầu hết chưa đề cập trực
tiếp đến vai trò quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức
giám định tư pháp, chưa có sự phân tích cụ thể để chỉ ra các hạn chế, khó khăn,
vướng mắc trong cơng tác quản lý từ đó có hướng đề xuất, kiến nghị hồn thiện.
Theo sự tìm hiểu của tác giả, chưa có một đề tài nghiên cứu chuyên về quản lý nhà
nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức giám định tư pháp theo Luật
GĐTP và các bản hướng dẫn thi hành.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích chính của đề tài là nghiên cứu chuyên sâu các quy định về quản lý
nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức giám định tư pháp. Luận
văn nghiên cứu các cơ sở lý luận; phân tích thực trạng các quy định về quản lý tổ
chức giám định tư pháp kết hợp so sánh các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước đối với các tổ chức giám định tư pháp qua các giai đoạn từ đó phát hiện các
hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà



5

nước đối với tổ chức giám định tư pháp với đối tượng nghiên cứu chính là Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về quản lý
nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức giám định tư pháp.
Thứ hai, chủ yếu tập trung vào quy định của Luật GĐTP 2012, Nghị định
85/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/07/2013 quy định chi tiết và biện pháp thi
hành Luật GĐTP 2012. Ngoài ra có liên hệ đến Pháp lệnhGiám định tư pháp năm
2004 và một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong đề tài này, tác giả đã sử dụng nhiều
phương pháp để làm rõ các vấn đề về quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh đối với tổ chức giám định tư pháp, cụ thể:
- Phương pháp phân tích, bình luận: Phương pháp này được tác giả sử dụng
trong Chương 1 và Chương 2 để phân tích các khái niệm, đặc điểm, vai trị và quy
định về quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức giám định
tư pháp; các quy định của pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Trên cơ sở này, tác giả sử dụng phương pháp bình luận để nhận xét, đánh giá về đặc
điểm cũng như sự cần thiết phải chú trọng đến công tác quản lý nhà nước đặc biệt là
vai trò của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với hoạt động giám định tư pháp, đồng
thời nhận xét tính hợp lý, hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được tác giả sử dụng để so sánh sự
khác biệt giữa các loại hình tổ chức giám định tư pháp; đặc điểm của các loại hình
tổ chức giám định tư pháp. Ngồi ra, phương pháp này cịn được tác giả sử dụng để
so sánh về sự thay đổi, khác nhau của các văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành liên quan đến hoạt động giám định tư pháp qua các thời kỳ. Từ đó, có cơ sở đề
xuất các kiến nghị hoàn thiện trong Chương 2.

- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được tác giả sử dụng nhằm đưa ra
các số liệu chứng minh vai trò quan trọng của công tác quản lý nhà nước của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh đối với các tổ chức giám định tư pháp, nhằm chỉ ra sự cần
thiết phải hoàn thiện các quy định trong công tác quản lý hoạt động của các tổ chức


6

giám định tư pháp để đảm bảo sự chính xác, trung thực, khách quan trong hoạt động
tố tụng tại Việt Nam.
- Phương pháp lịch sử: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 1
khi tác giả trình bày về khái niệm giám định, tư pháp, tổ chức giám định tư pháp
qua từng thời kỳ, từ đó chỉ ra khái niệm giám định tư pháp và tổ chức giám định tư
pháp.
- Phương pháp quy nạp, tổng hợp: Trên cơ sở các phân tích, bình luận, đánh
giá pháp luật, tác giả sẽ đưa ra các nhận định cụ thể về sự cần thiết phải đảm bảo sự
quản lý nhà nước trong hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp đặc biệt là vai
trò của cơ quan trực tiếp tại địa phương là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đồng thời,
cuối mỗi chương, tác giả cũng sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt và đưa ra
kết luận nội dung của từng chương và của cả Luận văn.
6. Các điểm mới, các đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận, tác giả đã đưa ra các phân tích về giám định tư pháp, tổ chức
giám định tư pháp và đặc điểm của các tổ chức giám định tư pháp. Trên cơ sở các
đặc điểm của hoạt động giám định tư pháp nói chung và các tổ chức giám định tư
pháp nói riêng luận văn đã thể hiện sự cần thiết phải đảm bảo vai trò quản lý nhà
nước trong hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn đã phân tích và chỉ ra
những hạn chế trong quy định của Luật GĐTP 2012 và Nghị định 85/2013/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 29/07/2013 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật GĐTP
2012 trong việc quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh đối với các tổ chức giám định

tư pháp được trình bày theo sự phân loại về các tổ chức giám định tư pháp. Bên
cạnh đó, các phân tích đã góp phần chỉ ra những thực trạng, từ đó có những kiến
nghị hồn thiện Luật GĐTP 2012 đặc biệt trong giai đoạn Luật GĐTP 2012 đang
trong quá trình tổng kết thi hành và lấy ý kiến để sửa đổi, bổ sung. Tác giả cũng
mong kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu để các sinh viên chuyên ngành luật tham
khảo, nghiên cứu và học tập.


7

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH ĐỐI VỚI TỔ CHỨC GIÁM
ĐỊNH TƯ PHÁP
1.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm của tổ chức giám định tư pháp
1.1.1.

Khái niệm tổ chức giám định tư pháp

“Tổ chức giám định tư pháp” là một khái niệm trung tâm trong q trình
nghiên cứu đề tài. Do đó, việc phân tích và làm rõ khái niệm này đóng vai trị quan
trọng, là tiền đề lý luận cơ bản để tác giả tìm hiểu các quy định của pháp luật thực
định. Theo đó, tác giả tiến hành phân tích các khái niệm “tổ chức”, “giám định tư
pháp” để đi đến tổng quan khái niệm “tổ chức giám định tư pháp”.
* Khái niệm tổ chức
Về phương diện ngôn ngữ, tuỳ theo ngữ cảnh, tính chất, yêu cầu, mục đích…
khác nhau mà tổ chức có thể sử dụng với các chức năng khác nhau như là danh từ
(từ dùng để chỉ cho các đối tượng như cơ quan, đơn vị, công ty, pháp nhân, hội
đồng), động từ (hành động xây dựng và thực thi một nhiệm vụ, kế hoạch đã được đề
ra) hoặc tính từ (dùng để chỉ tính chất của một hoạt động mang tính hệ thống, trình
tự, đồng bộ, …).

Về phương diện khoa học, tùy vào cơ sở nền tảng lý luận và mục đích nghiên
cứu khác nhau, các ngành khoa học đều khái quát hóa thuật ngữ “tổ chức” theo
nhiều cách khác nhau như Triết học nhìn nhận “Tổ chức, nói rộng là cơ cấu tồn tại
của sự vật. Sự vật khơng thể tồn tại mà khơng có một hình thức liên kết nhất định
các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”1.
Trong khi đó, một số ngành khoa học có giao thoa về đối tượng, phạm vi nghiên
cứu như khoa học quản trị công, luật học, khoa học về tổ chức và quản lý tuy có
những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau và khác với triết học nhưng cũng có một
số điểm chung một cách khái quát hóa về thuật ngữ này. Theo lý thuyết về quản trị
công, nhà nghiên cứu Chester I. Barnard đã viết trong tác phẩm nghiên cứu của
mình một cách khái quát rằng “tổ chức là một hệ thống những hoạt động hay nỗ lực
của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý thức”2, theo quan
1

Mấy vấn đề về cán bộ và về tổ chức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, NXB Sự thật, Hà Nội, 1973, tr.28.

2

Chester Barnard and the Systems Approach to Nurturing Organization.


8

điểm của ngành khoa học này, thuật ngữ tổ chức phải đáp ứng điều kiện về chủ thể
(có từ hai người trở lên) và nguyên tắc hoạt động của nó (các hoạt động của chủ thể
được kết hợp với nhau một cách có ý thức).
Dưới góc độ nghiên cứu về tổ chức là một trong các chủ thể tham gia vào các
quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, Luật học nói chung hay khoa học luật dân
sự nói riêng lại dùng thuật ngữ tổ chức để phân biệt với cá nhân (con người), theo
đó “tổ chức” được chi tiết hóa bằng thuật ngữ “pháp nhân” với bốn điều kiện về mặt

chủ thể là được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập
với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.Khoa học tổ chức và quản lý định
nghĩa tổ chức có nhiều điểm tương đồng với ngành quản trị công và Luật học khi
xác định tổ chức là một yếu tố thuộc về con người và của con người trong xã hội;
theo đó, “Tổ chức là khái niệm dùng để chỉ một tập hợp gồm từ hai người trở lên
cùng làm việc với nhau theo những cách thức nhất định nhằm đạt tới những mục
tiêu chung nào đó”3.
Như vậy, hiểu một cách khái quát, khái niệm về “tổ chức” là tập hợp một số
người lại với nhau, cùng hình thành, tồn tại và phát triển theo những nguyên tắc
hoặc quy tắc được quy định nhằm thực hiện mục tiêu chung đã được xác định.
* Khái niệm giám định tư pháp
Hiểu và nhận thức được khái niệm giám định tư pháp là một vấn đề lý luận cơ
bản có ý nghĩa quan trọng trong việc hồn thiện thể chế, xây dựng mơ hình tổ chức,
cơ chế quản lý phù hợp, nhằm bảo đảm phát huy được vai trò của giám định tư pháp
trong hoạt động tố tụng đặc biệt trong thực tiễn hoạt động tư pháp hiện nay nhằm
đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội thay đổi từng ngày từng giờ. Có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm giám định tư pháp.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do GS. Hoàng Phê chủ biên,
thuật ngữ “tư pháp” được hiểu là “việc xét xử các hành vi phạm pháp và các vụ kiện
tụng trong nhân dân”4. Còn theo Đại từ điển Tiếng Việt do GS.TS. Nguyễn Như Ý
(chủ biên) - Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh phát hành định

3

Nguyễn Hữu Hải (2010), Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước, Học viện hành chính, Hà Nội, tr.40.

4

Viện Ngơn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học,tr.1071.



9

nghĩa “tư pháp” là “việc xét xử theo pháp luật”5. Cịn với nghĩa pháp lí chung nhất
thì thuật ngữ “tư pháp” được quan niệm là “như là một ý tưởng về một nền cơng lí,
địi hỏi việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong xã hội phải đúng pháp luật,
phù hợp với lẽ cơng bằng, bảo đảm lịng tin của nhân dân và xã hội vào pháp luật,
góp phần duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự an tồn pháp lí cho cá nhân, sự ổn
định và phát triển của xã hội” cùng với đó theo ngữ nghĩa Hán Việt thì “tư pháp” là
“trơng coi, bảo vệ pháp luật”6.
Theo quan điểm của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung và tập thể tác giả: “Tư pháp
là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử
và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật
khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”7. Theo
tiếng La-tinh cổ, “tư pháp” – Justitia, cịn theo tiếng Anh – Justition, có nghĩa là
“cơng lý”, “pháp chế”, tức là thuật ngữ bao hàm toàn bộ các cơ quan tòa án và hoạt
động thực hiện quyền xét xử của chúng8.
Ngoài ra, theo TS. Đinh Văn Ân, TS. Võ Trí Thành và tập thể tác giả, quan
niệm “tư pháp” được hiểu theo ba khía cạnh: “Về khía cạnh pháp lý, được quan
niệm như là một ý tưởng cao đẹp về một nền công lý, giải quyết các tranh chấp
trong xã hội đúng với pháp luật, hợp lẽ công bằng; các biểu hiện của một giá trị về
lịng tin của nhân dân vào pháp luật. Về khía cạnh thể chế Nhà nước, tư pháp được
sử dụng để chỉ một quyền lực trong ba quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành
pháp, và quyền tư pháp. Trong việc xác định ba quyền, quyền tư pháp được xem là
đồng nghĩa với quyền xét xử, một hoạt động duy nhất chỉ do Tịa án thực hiện. Và
theo khía cạnh khoa học tổ chức, tư pháp được sử dụng để nói về tổ chức tư pháp,
một tập hợp của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức, nhiều chức danh liên hệ đến công tác
xét xử”9.


5

Nguyễn Như Ý (2013) (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, tr.1704.

Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa – NXB Tư pháp,
tr. 828.
6

7

Nguyễn Đăng Dung (2005), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.11.

Lê Cảm (2003), “Cơ chế kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước
pháp quyền”, Tạp chí khoa học pháp luật (01).
8

Đinh Văn Ân, Võ Trí Thành (2002), Thể chế - cải cách thể chế và phát triển: Lý luận và thực tiễn ở nước
ngoài và Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội, tr.276.
9


10

Như vậy, “tư pháp” có thể được hiểu là cơng việc mang quyền lực nhà nước
của các tổ chức nhà nước được trao quyền lực nhất định để phân xử hoặc phán xét
tính đúng đắn, hợp pháp của các chủ thể về một vấn đề.
Thuật ngữ “giám định” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh là “Expertus”, có nghĩa
là “kinh nghiệm”, “hiểu biết”10. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “giám định” là “kiểm
tra bằng phương pháp nghiệp vụ để có kết luận cụ thể”11. Theo từ điển bách khoa
Việt Nam, “giám định” là “kiểm tra và kết luận về một hiện tượng hoặc một vấn đề

mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định. Cơng việc giám định có thể do một
giám định viên tư pháp hoặc một nhóm người có kiến thức, trình độ về lĩnh vực cần
giám định và được cơ quan chuyên môn chỉ định”12. Theo từ điển tiếng việt thì
“giám định” là “việc xem xét và kết luận về một sự vật, hiện tượng mà cơ quan nhà
nước cần tìm hiểu và xác định”13.
Như vậy, “giám định” hiểu một cách khái quát là hoạt động khoa học, sử
dụng những kiến thức chuyên môn, phương tiện kỹ thuật, phương pháp nghiệp vụ
để nghiên cứu, xem xét, so sánh một hiện tượng, một sự vật từ đó đưa ra kết luận
nhằm giải quyết vấn đề nào đó một cách chính xác trên cơ sở khoa học.
Quan niệm về giám định tư pháp ở nước ta được đề cập đến trong một số văn
bản pháp luật, cụ thể:
Một trong những văn bản pháp lý đầu tiên đó chính là tại Nghị định số
117/HĐBT ngày 21/07/1988 của Hội đồng Bộ trưởng ở Điều 1 và Thông tư số
78/TT-GĐ ngày 26/01/1989 của Bộ Tư pháp ở mục I quy định: “Giám định tư pháp
là sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn
để kết luận những vấn đề có liên quan đến các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và
gia đình, các tranh chấp lao động theo quyết định trưng cầu của cơ quan cơng an,
viện kiểm sát nhân dân, tịa án nhân dân (gọi chung là cơ quan tiến hành tố tụng)
nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.”.
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1991), Một số cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ
chức giám định tư pháp, tr.6.
10

11

Hội đồng Quốc gia (2002), Từ điển bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2002, tr.110.

12

Nguyễn Như Ý (2010) (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học quốc gia Tp.HCM.


Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng & Trung tâm từ điển tin học, tr.389 và
tr.1071.
13


11

Tuy nhiên, khái niệm nêu trên mới chỉ xác định phạm vi giám định tư pháp cụ
thể và bó hẹp trong các vấn đề có liên quan đến các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân
và gia đình, các tranh chấp lao động và xác định được chủ thể trưng cầu giám định
là cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân (gọi chung là cơ quan
tiến hành tố tụng) đồng thời cũng xác định mục đích của hoạt động giám định tư
pháp mà chưa xác định được chủ thể của hoạt động giám định tư pháp.
Điều 1 Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004 quy định “Giám định tư pháp
là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ
để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành
chính, vụ việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ án) do người giám định tư pháp thực
hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm
phục vụ cho việc giải quyết các vụ án”.
Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004 là văn bản pháp lý có ý nghĩa quan
trọng, đặt nền móng cho sự đổi mới về khái niệm giám định tư pháp. Theo đó, Pháp
lệnh đã thể hiện sự đổi mới tư duy pháp lý về giám định tư pháp, nhận thức về giám
định tư pháp đã đầy đủ hơn, đã xác định rõ chủ thể của hoạt động giám định tư
pháp, chủ thể trưng cầu giám định tư pháp và mục đích của hoạt động giám định tư
pháp. Tuy nhiên, khái niệm trên vẫn cịn có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, chủ thể trưng cầu giám định còn bị hạn chế chỉ là các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà các chủ thể khác khơng có quyền giám
định.
Thứ hai, việc sử dụng thuật ngữ “người giám định tư pháp” trong khái niệm

trên dẫn đến cách hiểu về chủ thể thực hiện giám định chỉ là cá nhân, theo đó, khi
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được trưng cầu cá nhân là
người thực hiện giám định chứ không trưng cầu đối với tổ chức. Từ đó, đã làm phát
sinh những bất cập trong quá trình triển khai thực hiện giám định tư pháp.
Nhận thấy những bất cập đó đến ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị
quyết số 49/NQ-TW để đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy
Tịa án và cơng tác xét xử làm trung tâm, lấy tranh tụng và mở rộng dân chủ trong
hoạt động tố tụng là khâu đột phá, nên giám định tư pháp phải trở thành công cụ,
phương tiện hữu hiệu, thiết thực cho các bên tố tụng sử dụng, phục vụ đắc lực cho


12

việc tranh tụng của mình nhằm hướng tới việc đảm bảo tính chính xác, đúng đắn
trong hoạt động tư pháp.
Trên cơ sở Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 20/06/2012 Quốc hội khóa XIII đã
chính thức thơng qua Luật GĐTP 2012 chính thức có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2013. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 2 Luật GĐTP 2012 khái niệm về giám định
tư pháp là “việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương
pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên
quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ
việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của
Luật này.”.
Khái niệm này đã bổ sung thêm chủ thể được yêu cầu giám định. Đó là ngồi
các chủ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cịn có thêm
“người yêu cầu giám định”; cụ thể, tại Khoản 3 Điều 2 Luật GĐTP 2012 quy định
Người yêu cầu giám định là “người có quyền tự mình u cầu giám định sau khi đã
đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trung cầu giám định mà
khơng được chấp nhận. Người có quyền tự mình u cầu giám định bao gồm đương

sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp
của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”.
Qua những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm “giám định tư pháp” là việc
người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ
thuật, nghiệp vụ để kết luận về một sự việc, một hiện tượng, một sự kiện xảy ra theo
trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu
của người yêu cầu giám định nhằm giúp cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính và những kết luận
đó phải đáp ứng điều kiện của pháp luật về giám định tư pháp và pháp luật tố tụng.
* Khái niệm tổ chức giám định tư pháp
Từ phân tích về thuật ngữ “tổ chức” và “giám định tư pháp” như trên, theo
tác giả, “tổ chức giám định tư pháp” là một tập hợp hai hay nhiều người được
thành lập và đầu tư về cơ sở vật chất để thực hiện theo yêu cầu của cơ quan tiến


13

hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám
định để kết luận về một sự việc, một hiện tượng xảy ra bằng việc sử dụng kiến thức,
phương tiện, phương pháp, kỹ thuật nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy khi nghiên cứu về công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý
nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nói riêng đối với tổ chức giám định tư pháp,
nội dung cần phân tích, làm rõ đầu tiên là khái niệm như thế nào là tổ chức giám
định tư pháp, bởi lẽ đây chính là đối tượng của cơng tác quản lý, hay nói cách khác
nội dung thực hiện và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước phụ thuộc rất nhiều
vào đối tượng này. Với việc phân tích, bình luận và tổng hợp tác giả đã nêu ra được
khái niệm tổ chức giám định tư pháp đây là cơ sở nền tảng để định hướng nghiên
cứu đề tài ở những phần tiếp theo.

1.1.2.

Phân loại tổ chức giám định tư pháp

Để phân loại các tổ chức giám định tư pháp, trước hết cần nghiên cứu về quan
điểm của pháp luật đối với việc phân loại qua các giai đoạn hình thành và phát triển,
mở rộng, thu hẹp hay thay đổi loại hình của tổ chức này.
* Giai đoạn trước thời điểm Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004
Trước Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004, chế định về tổ chức giám định
tư pháp chưa được quy định trong văn bản Luật mà chỉ được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật dưới luật là Nghị định số 117-HĐBT ngày 21/07/1988 của
Hội đồng bộ trưởng về giám định tư pháp và Thông tư 78/TT-QĐ ngày 26/01/1989
của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện Nghị định 117-HĐBT ngày 21/07/1988 của
Hội đồng bộ trưởng về giám định tư pháp. Theo các văn bản pháp lý này, hầu như
việc phân loại tổ chức giám định tư pháp chưa được thể hiện rõ ràng do việc giám
định chủ yếu phụ thuộc vào các giám định viên thuộc các cơ quan chuyên trách và
thực hiện việc giám định khi có trưng cầu giám định từ các cơ quan có thẩm quyền.
Trong giai đoạn này, tổ chức giám định tư pháp được thành lập ở cấp Trung ương
và cấp tỉnh. Ở cấp Trung ương, tổ chức giám định pháp y được thành lập ở Bộ Y tế,
Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng; tổ chức giám định pháp y tâm thần được thành lập ở
Bộ Y tế; tổ chức giám định kỹ thuật hình sự được thành lập ở Bộ Nội vụ; tổ chức
giám định kế tốn tài chính được thành lập ở Bộ Tài chính; tổ chức giám định tác
phẩm văn học được thành lập ở Bộ Văn hóa; tổ chức giám định trong lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật được thành lập ở Ủy ban khoa học kỹ thuật Nhà nước và Bộ chuyên


14

ngành. Ở cấp tỉnh (tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương) được thành lập
Tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần giám định kế toán tài chính và các

chuyên ngành khác14.
Bên cạnh các tổ chức giám định như trên, pháp luật còn quy định về người
giám định tư pháp theo vụ việc đối với các ngành khơng có tổ chức giám định tư
pháp. Theo đó, khi có quyết định trưng cầu giám định tư pháp về những vụ việc có
liên quan thì thủ trưởng của ngành có liên quan sẽ cử người làm giám định.
Như vậy, trong giai đoạn này, pháp luật nước ta phân loại tổ chức giám định
tư pháp căn cứ chính là theo cấp hành chính bao gồm cấp Trung ương và cấp tỉnh
bên cạnh tiêu chí lĩnh vực chun mơn của ngành. Đồng thời, tổ chức giám định chỉ
bao gồm tổ chức giám định tư pháp công lập do các cơ quan Nhà nước thành lập,
phục vụ chính yếu cho nhu cầu của cơng tác tư pháp mà chưa có quy định về tổ
chức giám định tư pháp ngồi cơng lập và tổ chức giám định theo vụ việc; cũng
chưa quy định về việc thực hiện các dịch vụ giám định ngoài nhà nước của các tổ
chức này.
* Giai đoạn từ thời điểm Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004 có hiệu lực
đến trước Luật GĐTP 2012
Đến khi Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004 có hiệu lực đồng nghĩa với
việc “nâng tầm” chế định về tổ chức giám định tư pháp trong tư duy của nhà làm
luật bởi lẽ lần đầu tiên chế định này được văn bản tương đương Luật quy định. Theo
đó, các quy định có sự thay đổi trong cách thức phân loại tổ chức giám định tư pháp
bằng cách cụ thể hóa theo từng lĩnh vực là pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình
sự cụ thể là:
Đối với tổ chức giám định pháp y bao gồm: Viện Pháp y quốc gia; Trung tâm
Pháp y tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Viện Pháp y quân đội, Trung tâm
Pháp y thuộc Viện khoa học hình sự của Bộ Cơng an (Điều 16 Pháp lệnh Giám định
tư pháp năm 2004).

Xem thêm Nghị định số 117-HĐBT ngày 21/07/1988 của Hội đồng bộ trưởng về giám định tư pháp và
Thông tư 78/TT-QĐ ngày 26/01/1989 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện Nghị định 117-HĐBT ngày
21/07/1988 của Hội đồng bộ trưởng về giám định tư pháp.
14



15

Đối với tổ chức giám định pháp y tâm thần gồm: Ở cấp trung ương sẽ thành
lập viện pháp y tâm thần trung ương; ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
thì nếu có bệnh viện tâm thần cấp tỉnh thì thành lập trung tâm giám định pháp y tâm
thần trực thuộc bệnh viện đó, trong trường hợp khơng có bệnh viện tâm thần cấp
tỉnh thì Trung tâm Phịng chống các bệnh xã hội hoặc khoa tâm thần thuộc bệnh
viện đa khoa cấp tỉnh thực hiện giám định pháp y tâm thần khi được trưng cầu; đối
với Bộ Quốc phòng sẽ do Bệnh viện thuộc Bộ Quốc phòng và Bệnh viện cấp quân
khu có giám định viên pháp y tâm thần phụ trách (Điều 20 Pháp lệnh Giám định tư
pháp năm 2004).
Đối với tổ chức giám định kỹ thuật hình sự gồm: Viện khoa học hình sự thuộc
Bộ Cơng an; Phịng kỹ thuật hình sự thuộc Cơng an tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Tổ kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng (Điều 21 Pháp lệnh Giám định tư
pháp năm 2004).
Mặc dù chế định tổ chức giám định tư pháp đã được nâng tầm, tuy nhiên Pháp
lệnh Giám định tư pháp năm 2004 đã thu hẹp lĩnh vực hoạt động giám định tư pháp
khi chỉ thừa nhận các tổ chức giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm
thần và kỹ thuật hình sự mà loại bỏ tổ chức giám định tư pháp trong các lĩnh vực
khác như lĩnh vực văn hố, tài chính kế tốn, xây dựng, khoa học kỹ thuật. Do đó,
các tổ chức giám định tư pháp ở lĩnh vực văn hoá, tài chính kế tốn, xây dựng, khoa
học kỹ thuật đã được thành lập theo Nghị định số 117/HĐBT ngày 21/7/1988 của
Hội đồng Bộ trưởng về giám định tư pháp được giải thể theo quyết định của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ hoặc
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày Nghị định số
67/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ có hiệu lực thi hành; đồng thời với
việc giải thể tổ chức giám định tư pháp ở lĩnh vực văn hố, tài chính kế tốn, xây
dựng, khoa học kỹ thuật, các giám định viên trưởng của các tổ chức giám định tư

pháp đó cũng bị miễn nhiệm. Bên cạnh đó, một điểm lưu ý về chế định tổ chức
giám định tư pháp trong Pháp lệnh là mặc dù có thừa nhận về người giám định tư
pháp theo vụ việc nhưng vẫn tiếp tục không quy định tổ chức giám định theo vụ
việc mà xem giám định tư pháp theo vụ việc là một “công việc kiêm nhiệm” của đội
ngũ cán bộ, công chức chuyên môn trong các cơ quan, tổ chức theo ngành, lĩnh vực.
Như vậy, có thể nhận thấy Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004 đã thay đổi
từ phân loại tổ chức giám định theo cấp hành chính sang phân định dựa trên tiêu chí


16

chuyên môn của lĩnh vực giám định, điều này đồng nghĩa với việc nhà làm luật có
xem xét những chức năng, nhiệm vụ gắn với từng tổ chức giám định tư pháp. Việc
phân chia này khá rõ ràng và đóng vai trị định hình cho việc phân loại các tổ chức
giám định tư pháp cho các giai đoạn tiếp theo trong tương lai.
* Giai đoạn từ thời điểm Luật GĐTP 2012 có hiệu lực
Đến Luật GĐTP 2012 với việc kế thừa những điểm nổi bật từ Pháp lệnh Giám
định tư pháp năm 2004 và kết hợp với thay đổi về tư duy trong lĩnh vực giám định
tư pháp xuất phát nền tảng từ Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ban hành
ngày 02/06/2005 để đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục
tiêu chính là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đã có bước ngoặc lớn trong việc phân loại tổ chức giám
định tư pháp với việc xuất hiện của một loại hình tổ chức giám định tư pháp mới là
tổ chức giám định tư pháp ngồi cơng lập. Bên cạnh đó Luật GĐTP 2012 cịn bổ
sung thêm quy định về tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc. Đây là kết quả của
quá trình đấu tranh nhằm thay đổi và tăng cường tính khách quan trong hoạt động
giám định tư pháp khi bổ sung những tổ chức giám định tư pháp khơng mang tính
“truyền thống” sẽ hoạt động song song với những tổ chứcgiám định tư phápngồi
cơng lập. Qua đó, tạo mơi trường cạnh tranh lành mạnh, tăng sự giám sát lẫn nhau

trong hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp. Có thể phân loại tổ chức giám
định tư pháp theo Luật GĐTP 2012 cụ thể như sau:
Một là, tổ chức giám định tư pháp mang tính chất phụ thuộc và kiêm nhiệm,
hoạt động trong một thời gian nhất định, mang tính chất chu kỳ và thay đổi phụ
thuộc vào ý chí của cơ quan quản lý, đó là tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc
bởi lẽ loại tổ chức giám định tư pháp này được các Bộ ngành như Bộ Xây dựng, Bộ
Tài chính, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Khoa
học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Bộ, cơ quan ngang Bộ khác và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lựa chọn, lập
và công bố hằng năm. Mặc dù được thành lập để hoạt động theo từng vụ việc nhất
định, tuy nhiên tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc cũng phải đáp ứng được các
điều kiện như: Có tư cách pháp nhân; có hoạt động chun mơn phù hợp với nội
dung được trưng cầu, yêu cầu giám định và có điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ


17

sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện giám định tư pháp để đảm bảo tính thống
nhất về chủ thể có thể thực hiện hoạt động giám định tư pháp theo quy định.
Hai là, tổ chức giám định tư pháp mang tính chất độc lập (tương đối) và
chuyên nghiệp, hoạt động trong một thời gian lâu dài (tương đối), đó là tổ chức
giám định tư pháp cơng lập và tổ chức giám định tư pháp ngồi cơng lập, cụ thể:
Tổ chức giám định tư pháp công lập: Do Nhà nước lập ra, đầu tư về cơ sở vật
chất, hoạt động chủ yếu bằng nguồn ngân sách nhà nước và khoản thu khác (nếu
có). Các tổ chức giám định tư pháp cơng lập bao gồm hai nhóm: (i) nhóm các tổ
chức giám định tư pháp được thành lập theo Luật GĐTP 2012: Các tổ chức này
được thành lập và hoạt động trong ba lĩnh vực là lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần
và kỹ thuật hình sự, trực thuộc các Bộ là Bộ Y tế, Bộ Công an và Bộ Quốc phịng,
về cơ cấu tổ chức thì được tương đối giữ lại như giai đoạn Pháp lệnh Giám định tư

pháp năm 2004 (Điều 12 Luật GĐTP 2012) còn hiệu lực; (ii) nhóm các tổ chức
giám định tư pháp được thành lập theo quyết định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sau khi thống nhất ý kiến với Bộ
trưởng Bộ Tư pháp: Các tổ chức này được thành lập và hoạt động trong các lĩnh vực
khác không bao gồm lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự, trực
thuộc cơ quan đã ra quyết định thành lập tổ chức đó. Xét về bản chất của chủ thể
pháp lý, tổ chức giám định tư pháp công lập là đơn vị sự nghiệp công lập hoặc cơ
quan quản lý nhà nước. Tổ chức giám định tư pháp công lập chỉ có thể do Nhà nước
(các Bộ ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) thành lập.
Tổ chức giám định ngồi cơng lập với tên gọi Văn phịng giám định tư pháp:
Do cá nhân là giám định viên tư pháp xin phép thành lập và đăng ký hoạt động,
được đầu tư bằng nguồn kinh phí của cá nhân dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân
hoặc liên kết của nhiều cá nhân dưới hình thức cơng ty hợp danh. Các tổ chức này
chỉ được phép hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di
vật, bản quyền tác giả. Xét về bản chất của chủ thể pháp lý, tổ chức giám định tư
pháp ngồi cơng lập là doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy với việc quy định có hai loại tổ chức giám định tư pháp
cơng lập và ngồi cơng lập cùng với tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc đã cụ
thể hoá tư duy thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định
khơng lớn, khơng thường xun theo tinh thần của Nghị quyết số 49/NQ-TW. Việc


18

phân loại tổ chức giám định tư pháp như vậy là hết sức cần thiết để đảm bảo đáp
ứng yêu cầu giám định tư pháp theo nhu cầu thực tế đặt ra tránh việc đặt mọi gánh
nặng lên vai nhà nước trong việc tổ chức, vận hành hoạt động giám định tư pháp
trên tất cả các lĩnh vực ngay cả những lĩnh vực có nhu cầu giám định khơng lớn,
khơng thường xuyên. Việc phân loại theo Luật GĐTP 2012 đã thực sự phù hợp và
tối ưu hay chưa chúng ta sẽ cùng xem xét và tìm hiểu thêm trong chương II của

Luận văn.
Qua phân tích, đánh giá về quan điểm của quy định pháp luật nước ta về phân
loại tổ chức giám định tư pháp có sự thay đổi qua các thời kỳ khác nhau bởi lẽ tùy
từng giai đoạn mà Nhà nước cơng nhận đối với loại hình tổ chức giám định nào,
hoạt động trong lĩnh vực nào và có sự hồn thiện trong tư duy nhà làm luật thay đổi
từ phân loại tổ chức giám định theo cấp hành chính sang phân loại theo lĩnh vực
giám định của nhóm tổ chức, sau đó là sự phối hợp giữa các tiêu chí như tính cố
định trong q trình tổ chức, hoạt động kết hợp với cơ quan thành lập, nguồn lực
đầu tư của các tổ chức giám định tư pháp đó.
1.1.3.

Đặc điểm của tổ chức giám định tư pháp

Thứ nhất, mục tiêu hoạt động của tổ chức giám định tư pháp nhằm mục đích
bổ trợ cho hoạt động tư pháp nói chung và giám định tư pháp nói riêng.
Mục tiêu của tổ chức là những điều tổ chức cần đạt đến thơng qua hoạt động
của nó (q trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn) và không phải bất kỳ ai trong tổ
chức cũng đều là người có đủ khả năng xác lập được mục tiêu của tổ chức, chỉ có
những người có năng lực mới có khả năng xác lập được mục tiêu của tổ chức. Mục
tiêu có ý nghĩa vô cùng lớn đối với tổ chức giám định tư pháp bởi nó định hướng
cho hoạt động của bất kỳ tổ chức nào nói chung và tổ chức giám định nói riêng.
Cùng với các hoạt động khác như hoạt động luật sư, hoạt động tư vấn pháp luật,
hoạt động công chứng, hoạt động bán đấu giá tài sản, hoạt động trọng tài thương
mại, hoạt động giám định tư pháp cũng là một hoạt động bổ trợ tư pháp nên mục
tiêu của tổ chức thực hiện hoạt động này nhằm mục tiêu trợ giúp, tạo điều kiện cho
hoạt động tư pháp tiến hành thuận lợi, nhanh chóng, chính xác bằng cách cung cấp
hồ sơ cho các giai đoạn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nói chung, đồng thời
là phương tiện giúp bảo vệ quyền và lợi ích các cơ quan, tổ chức, cá nhân là người
tham gia tố tụng; sản phẩm tạo ra từ tổ chức giám định tư pháp là nguồn của chứng



×