Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hoạt động phòng ngừa tội phạm của hải quan trên địa bàn tỉnh bà rịa vũng tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.28 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
******************

TRẦN KỲ LÂN

HOẠT ĐỘNG PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA
HẢI QUAN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BÀ RỊA-VŨNG TÀU

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
******************

TRẦN KỲ LÂN

HOẠT ĐỘNG PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA
HẢI QUAN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 60.38.40

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA



TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Trần Kỳ Lân, ngày sinh 09/8/1971 là học viên lớp Cao học Luật
khóa 13, Trường Đại Học Luật TP.HCM.
Tôi được Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh phân cơng thực
hiện luận văn thạc sỹ Luật học với đề tài “Hoạt động phòng ngừa tội phạm
của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”
Nay tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tơi cùng giáo viên
hướng dẫn. Tơi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi thắc mắc khiếu nại sau
này.


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng

Tên Bảng

Trang

2.1

Chất lượng nguồn nhân lực của Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng

44

Tàu theo trình độ đào tạo từ năm 2006 đến năm 2010

2.2

Chất lượng lực lượng Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phân

45

theo ngạch công chức từ năm 2006 đến năm 2010
2.3

Sơ đồ tổ chức của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phân

48

theo ngạch công chức từ năm 2006 đến năm 2010
2.4

Tình hình vi phạm pháp luật và kết quả xử lí của Cục Hải quan

50

Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2006 đến năm 2010
2.5

Tình hình tơi phạm trong lĩnh vực Hải quan tại tỉnh Bà Rịa –

50

Vũng Tàu từ năm 2006 đến năm 2010
2.6


Phương tiện vận tải xuất nhập cảnh tính theo lượt/chuyến của

54

Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2006 đến năm 2010
2.7

Kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu của Hải quan tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2006 đến năm 2010

55


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM VÀ HOẠT
ĐỘNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA HẢI QUAN ...................................... 8
1.1 Lý luận về phòng ngừa tội phạm ......................................................... 8
1.1.1 Khái niệm phòng ngừa tội phạm...................................................... 8
1.1.2 Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm................................. 17
1.1.3 Nguyên tắc của hoạt động phòng ngừa tội phạm .......................... 21
1.2 Vị trí, vai trị của Hải quan trong phịng ngừa tội phạm ................ 25
1.2.1 Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Hải quan ..................................... 25
1.2.2 Nội dung hoạt động phòng ngừa tội phạm của Hải quan ............. 28
1.3. Các hoạt động phòng ngừa tội phạm của Hải quan ....................... 28
1.3.1 Phịng ngừa tội phạm thơng qua hoạt động khởi tố, điều tra vụ án.. 28
1.3.2. Phòng ngừa tội phạm thông qua công tác kiểm tra, giám sát Hải
quan ......................................................................................................... 30
1.3.3 Phịng ngừa tội phạm thơng qua việc phát hiện nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm .................................................................................... 35

1.3.4 Phòng ngừa tội phạm thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục . 37
1.3.5 Phịng ngừa tội phạm thơng qua sự phối hợp với các cơ quan nhà
nước khác ................................................................................................ 38
1.3.6 Phòng ngừa tội phạm thông qua các hoạt động khác ................... 39
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
CỦA HẢI QUAN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU .................42
2.1 Các đặc điểm về tổ chức và địa bàn quản lý của Hải quan trên địa
bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu .................................................................... 42
2.1.1 Các đặc điểm về tổ chức của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu ................................................................................................. 42
2.1.2 Địa bàn quản lý.............................................................................. 46
2.2 Thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm của Hải quan trên địa
bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu .................................................................... 49


2.2.1 Phịng ngừa tội phạm thơng qua hoạt động khởi tố, điều tra vụ án.. 49
2.2.2 Phòng ngừa tội phạm của Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông
qua việc kiểm tra, giám sát Hải quan ..................................................... 53
2.2.3 Phòng ngừa tội phạm của Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông
qua việc phát hiện nguyên nhân, điều kiện của tội phạm ....................... 59
2.2.4 Phòng ngừa tội phạm của Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông
qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục..................................................... 60
2.2.5 Phòng ngừa tội phạm của Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông
qua sự phối hợp với các cơ quan nhà nước khác ................................... 61
2.3 Đánh giá về thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm của Hải
quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu .................................................................. 63
2.3.1 Những thành công .......................................................................... 63
2.3.2 Những hạn chế ............................................................................... 64
Chương 3: NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

CỦA HẢI QUAN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU .................66
3.1 Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tội
phạm của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ................... 66
3.2 Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa
tội phạm của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.............. 68
3.2.1 Những định hướng đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
ngừa tội phạm của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu......... 68
3.2.2 Các biện pháp cụ thể...................................................................... 69
3.3 Các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm
của Hải quan trên địa bàn tỉnh Hải quan Bà Rịa – Vũng Tàu ............. 80
3.3.1 Hoàn thiện pháp luật...................................................................... 80
3.3.2 Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tội phạm ............. 81
KẾT LUẬN ...................................................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của đất nước, Bà
Rịa – Vũng Tàu được Trung ương xác định là cửa ngõ của vùng với nhiều tiềm
năng phong phú. Bởi đây, một mặt nó chính là cửa ngõ hướng ra biển Đông của
các tỉnh trong khu vực miền Đơng Nam Bộ, mặt khác nó giáp với Thành phố Hồ
Chí Minh, Tỉnh Đồng Nai và Tỉnh Bình Thuận. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với bờ
biển trải dài, ven biển có nhiều vùng nước sâu, cửa sơng, cảnh quan thiên nhiên,
bãi tắm đẹp, khí hậu ơn hịa thuận tiện cho việc xây dựng hệ thống cảng biển, cảng
sông, phát triển các mặt hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch, giao lưu kinh tế,
văn hóa với nhiều vùng trong nước và quốc tế. Vị trí này cho phép tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu hội tụ nhiều tiềm năng để phát triển các ngành kinh tế biển như: khai

thác dầu khí trên biển, khai thác cảng biển và vận tải biển, khai thác và chế biến
hải sản, phát triển dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng và tắm biển. Hơn nữa ở vị trí này,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cịn có điều kiện phát triển tất cả các tuyến giao thông
đường bộ, đường không, đường thủy, đường sắt và là một địa điểm trung chuyển
đi các nơi trong nước và thế giới rất thuận lợi cho việc phát triển một số ngành
cơng nghiệp quan trọng. Cùng với q trình cải cách mở cửa tăng cường phát triển
kinh tế, thực hiện chính sách hội nhập và tăng cường dân chủ hóa mọi mặt của đời
sống xã hội, song tình hình tội phạm ở đây cũng diễn biến vô cùng phức tạp, có
chiều hướng gia tăng về số lượng, thủ đoạn phạm tội ngày càng “tinh vi xảo
quyệt”. Với nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ thương mại quốc tế ở Bà
Rịa – Vũng Tàu ngày càng đa dạng, thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, xuất
nhập cảnh, người phạm tội ngày càng dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để phạm tội.
Các hoạt động của người phạm tội từ buôn bán ma túy, buôn lậu, trốn thuế, vận
chuyển trái phép hàng hố, tiền tệ qua biên giới, xâm hại mơi trường, vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ, bn bán vận chuyển động vật quý hiếm… và các hoạt động


2

của thế lực thù địch ngày đêm ráo riết tìm cách đưa vào lãnh thổ Việt Nam những
vũ khí, đạn dược, tài liệu phản động, hàng hóa, các phương tiện phục vụ các hoạt
động chống phá chính quyền, ln là một thách thức mà ngành Hải quan nói
chung và Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng phải đối mặt. Với nhiệm vụ
trọng tâm góp phần bảo vệ chủ quyền kinh tế, an ninh quốc gia và an tồn xã hội,
với vai trị là “người gác cửa của đất nước nơi tuyến đầu”, trong địa bàn hoạt động
của mình tại các cửa khẩu Sân bay hàng khơng, các cửa khẩu cảng biển, cảng
sông, các cửa khẩu Bưu điện… thơng qua việc thực hiện kiểm tra, giám sát hàng
hố xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải, hành khách xuất nhập cảnh, thực hiện
các biện pháp nghiệp vụ chuyên ngành, Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn
luôn là chốt chặn đầu tiên trong việc ngăn chặn phát hiện mọi hành vi tội phạm.

Từ cơng tác đấu tranh phịng chống các hành vi xuất khẩu nhập khẩu, xuất cảnh
nhập cảnh trái phép hàng hóa, phương tiện phạm tội với mục đích xâm nhập vào
lãnh thổ nước Cộng hịa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để phục vụ các mục đích xâm
phạm an ninh quốc gia cho đến phịng chống các tội phạm về ma túy, buôn lậu,
gian lận thương mại, mơi trường, sở hữu trí tuệ… Trong những năm qua, bằng
những nỗ lực, lòng quyết tâm cao độ cùng với sự phối hợp chặt chẽ với các lực
lượng Bộ đội biên phòng, An ninh, Quân đội… Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
đã phát hiện, ngăn chặn thành công nhiều tội phạm an ninh quốc gia, buôn bán ma
túy, bn lậu hàng hóa vi phạm có trị giá cao… góp phần quan trọng vào cơng tác
phịng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và cả nước1. Tuy nhiên
trong bối cảnh mới, với những hoạt động khó lường của tội phạm, yêu cầu đặt ra
đối với Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cần phải tăng cường hơn nữa hoạt động
phòng ngừa tội phạm.
Để đáp ứng yêu cầu công tác trong hoạt động phịng ngừa tội phạm
trong tình hình mới, tăng cường năng lực cho các lực lượng phịng ngừa tội

Vị trí của Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trọng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (2011), www.sokhdt.bariavungtau.gov.vn.

1


3

phạm an ninh quốc gia, ma túy, buôn lậu, gian lận thương mại… Hải quan
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn luôn tập trung đầu tư nguồn lực vào các vấn đề
trọng tâm như: hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý chuyên ngành; tập trung
cao độ cho công tác xây dựng lực lượng, trang bị những kiến thức chuyên
nghiệp cho đội ngũ cán bộ công chức; triển khai sâu rộng hệ thống quản lý rủi
ro đối với các hoạt động nghiệp vụ Hải quan; hình thành hệ thống thơng tin
nghiệp vụ Hải quan tập trung, hiện đại, chất lượng cao; tổ chức thực hiện có

chiều sâu cơng tác nghiệp vụ cơ bản, đấu tranh có trọng điểm đối với buôn
lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới các mặt hàng cấm; trang bị các
phương tiện, thiết bị chuyên dụng như: tàu tuần tra, máy soi container, hệ
thống camera giám sát, … do đó đã đạt được nhiều thành tích to lớn góp phần
tích cực vào cơng tác phịng ngừa tội phạm trên địa bàn. Tuy vậy, qua thực
tiễn công tác nhiều năm trong ngành Hải quan tôi nhận thấy cơng tác phịng
ngừa tội phạm của Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn cịn bộc lộ những
thiếu sót như: hệ thống văn bản về cơng tác phịng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực quản lý về Hải quan còn nhiều bất cập; cơ chế phối hợp với các các cơ
quan liên quan chưa khoa học; cơ cấu đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán
bộ, công chức chưa phát huy tối đa hiệu quả; công tác phân công, phân nhiệm
vẫn còn nhiều điểm chưa thật sự hợp lý… Đây là cơ sở để tội phạm dễ dàng
hoạt động. Vì vậy cần tăng cường hơn nữa hoạt động phòng ngừa tội phạm
của ngành Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Xuất phát từ những lý do đó, tơi quyết định chọn đề tài: “Hoạt động phòng
ngừa tội phạm của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” làm
Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và của
ngành Hải quan nói riêng hiện đã có nhiều cơng trình nghiên cứu. Trong đó phải
kể đến một số cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố, đó là:


4

Tác phẩm: Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm của Nguyễn
Xuân Yêm được Nhà xuất bản Công an Nhân dân ấn hành năm 2001. Đây là một
công trình nghiên cứu cơng phu và có giá trị, được trình bày theo cụ thể về hoạt
động phịng ngừa tội phạm. Cơng trình đã phân tích những lý luận cơ bản về tội
phạm học và những nội dung cụ thể của tội phạm học như: Tình hình tội phạm,

nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm; nhân thân người phạm tội; biện
pháp phòng ngừa tội phạm; tội phạm ẩn… và phương pháp phòng ngừa tội phạm
như: tội phạm kinh tế, tội phạm ma tuý, tội phạm về trật tự xã hội… Tuy nhiên
cơng trình khơng đề cập chun sâu tới vai trò phòng ngừa tội phạm của ngành
Hải quan.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Văn Bình, được Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh cơng bố năm 2006: Đấu tranh phịng ngừa tội phạm bn lậu
trên tuyến biên giới Tây Nam bộ của Hải quan. Luận văn đã đi sâu phân tích tình
hình hoạt động và đặc điểm của tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới Tây Nam
bộ, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
loại tội phạm này. Tuy nhiên, các giải pháp đề xuất trong luận văn cịn mang tính
chung chung, chưa có sự vận dụng vào trong thực tiễn.
– Luận văn Thạc sĩ của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: Hoạt
động của Hải quan trong đấu tranh phòng, chống tội vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh được tác giả Nguyễn Quý
Thắng thực hiện năm 2009. Trong cơng trình của mình, tác giả đã khái quát được
tình hình tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh và hoạt động phịng chống của lực lượng Hải quan, đề ra các giải
pháp hợp lý. Tuy nhiên luận văn chưa làm rõ được nguyên nhân, điều kiện làm phát
sinh, phát triển loại tội phạm này, chưa làm rõ được mối quan hệ phối hợp giữa Hải
quan và các lực lượng khác trong hoạt động phòng chống loại tội phạm này.
Tác giả Đoàn Thị Nguyên với Khoá luận tốt nghiệp Đại học về: Hệ thống
các chủ thể phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam của trường Đại học Luật Thành


5

phố Hồ Chí Minh, được cơng bố năm 2005. Cơng trình đã chỉ ra những chủ thể
từ hệ thống chính trị, đến các cơ quan bảo vệ pháp luật và các tổ chức chính trị –
xã hội. Tuy nhiên với Khóa luận tốt nghiệp Đại học nên chỉ dừng ở việc xác định

những đối tượng tham gia và hoạt động phòng ngừa tội phạm chứ chưa đi sâu
vào nghiên cứu vai trò của Hải quan trong hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Tuy các cơng trình trên chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên biệt và có
hệ thống về hoạt động phòng ngừa tội phạm của ngành Hải quan trên địa bàn tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu mà chủ yếu các cơng trình nghiên cứu về hoạt động phịng
ngừa tội phạm của các chủ thể trong xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
biên giới Tây Nam bộ với ngành Công an hoặc ngành Hải quan; về vai trị của hệ
thống chính trị trong hoạt động phịng ngừa tội phạm. Nhưng đó là nguồn tham
khảo đáng quý trong quá trình nghiên cứu của tác giả trong hoạt động phòng ngừa
tội phạm của ngành Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần nhận thức rõ hơn về hoạt động phòng
ngừa tội phạm, về thực tiễn hoạt động phòng ngừa tội phạm của ngành Hải quan
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, từ đó tìm ra những hạn chế và ngun nhân của nó
trong hoạt động phịng ngừa tội phạm Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để đưa
ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác phịng ngừa tội phạm
của Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
– Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm và hoạt
động phòng ngừa tội phạm của Hải quan.
– Nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm của Hải quan
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong thời gian từ năm 2006 đến 2010. Qua
đó rút ra những mặt đã đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó.


6

– Dự báo tình hình tội phạm và những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động

phòng ngừa tội phạm của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Đưa ra những giải pháp, và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phòng
ngừa tội phạm của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tội phạm của Hải quan trên
địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ trên, Luận văn khơng có tham vọng giải quyết
hết những vấn đề về hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung mà nội dung
Luận văn chỉ nghiên cứu về:
– Hoạt động phòng ngừa tội phạm của ngành Hải quan.
– Địa bàn nghiên cứu tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
– Thời gian nghiên cứu của Luận văn được giới hạn số liệu thống kê trong 5
năm, từ năm 2006 đến năm 2010. Trong giai đoạn này không có những bước ngoặt
đột biến về kinh tế – xã hội so với hiện nay nên tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu
ngun nhân của những hạn chế, từ đó đề xuất các biện pháp thích hợp để nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tội phạm của ngành Hải quan trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở phương pháp luận để thực hiện luận văn là: chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời luận văn còn sử dụng tổng hợp
các phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy
nạp, logic và lịch sử, thống kê, …
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn
6.1 Ý nghĩa khoa học của luận văn
– Việc nghiên cứu giúp cho bản thân tác giả có điều kiện hiểu sâu hơn về
hoạt động phịng ngừa tội phạm. Đồng thời kết quả nguyên cứu của luận văn góp


7


phần làm phong phú thêm lý luận về phòng ngừa tội phạm của Hải quan tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu.
6.2 Giá trị ứng dụng của luận văn
– Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu về phịng
ngừa tội phạm, ngồi ra từ kết quả ngun cứu của luận văn có thể áp dụng
nhằm góp phần tổ chức thực hiện tốt hơn nữa hoạt động phòng ngừa tội phạm
của Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về phòng ngừa tội phạm và hoạt động phòng
ngừa tội phạm của Hải quan
Chương 2: Thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm của Hải quan trên
địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Chương 3: Nguyên nhân của những hạn chế và các biện pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng ngừa tội phạm của Hải quan trên địa bàn tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu


8

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM VÀ HOẠT ĐỘNG
PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA HẢI QUAN
1.1 Lý luận về phòng ngừa tội phạm
1.1.1 Khái niệm phòng ngừa tội phạm
Từ trước đến nay, đấu tranh chống tội phạm được tiến hành theo phương
châm: nhanh chóng và kịp thời phát hiện tội phạm, không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, tránh làm oan người vô tội, trừng trị và giáo dục, cải tạo người
phạm tội, hình thành thói quen phản ứng tích cực và hưởng ứng của Nhà nước và

xã hội đối với tội phạm. Do đó, hoạt động phịng ngừa tội phạm chính là một
trong những nội dung quan trọng và chiếm một vị trí đặc biệt trong lý luận cũng
như hoạt động thực tiễn của các cơ quan đại hiện cho hệ thống Luật pháp. Việc
nghiên cứu về phịng ngừa tội phạm chính là cơ sở, nền tảng và điểm xuất phát
để tiếp tục nghiên cứu những nội dung khác trong lý luận tội phạm học. Mà suy
cho cùng thì mục đích của ngành khoa học về tội phạm học chính là “tội phạm”
với tư cách là đối tượng phòng ngừa và “tội phạm học” với tư cách là hệ thống
bao gồm các bộ phận khác nhau mà lý luận về phịng ngừa tội phạm chính là một
bộ phận cấu thành trong đó. Trước tiên cần phải hiểu các khái niệm “phòng
ngừa” và “tội phạm” :
Khái niệm “phịng ngừa”, theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là: “Phịng
trước khơng cho cái xấu, cái khơng hay nào đó xảy ra”2.
Khái niệm “tội phạm” trong khoa học Luật hình sự từ trước đến nay
còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nội dung cũng như nội hàm khái
niệm tội phạm. Cùng với xu thế chung của tình hình phát triển của xã hội hiện
nay thì việc mở rộng nội hàm và cách nhìn nhận khái niệm tội phạm dưới góc
độ hiện đại hơn qua nhiều góc độ kinh tế, xã hội, pháp lý, văn hóa, địa lý, dư
2

Viện ngôn ngữ học (1995), Từ điển tiếng việt phổ thông, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tr.714.


9

luận xã hội… Mặc dù vậy, điều cơ bản và quan trọng hơn cả, tội phạm chính
là cơ sở pháp lý để phân biệt nó với các vi phạm pháp luật khác và với hành
vi trái đạo đức, cũng như với các trường hợp không phải là tội phạm, qua đó
bảo vệ pháp chế, củng cố và duy trì trật tự pháp luật, góp phần đấu tranh
phịng và chống tội phạm, bảo vệ một cách hữu hiệu lợi ích của Nhà nước,
của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Do đó, dưới góc độ

khoa học Luật hình sự Việt Nam, khái niệm tội phạm được nghiên cứu dưới
phương diện “tĩnh” và có thể được hiểu ngắn gọn như sau: Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách có lỗi cố ý hoặc vơ ý xâm phạm đến một hoặc nhiều quan hệ xã hội
được Luật hình sự bảo vệ.
Từ việc tìm hiểu khái niệm về “phịng ngừa” và “tội phạm”, trong khoa
học pháp lý, từ đây giúp cho việc tìm hiểu khái niệm phịng ngừa tội phạm
được sâu sắc và hệ thống hơn. Hiện các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều quan
điểm về khái niệm về “phòng ngừa tội phạm”. Cụ thể như:
Theo tác giả Hồ Trọng Ngũ: “Phòng ngừa tội phạm là một hệ thống tổng
hợp những biện pháp có quan hệ hữu cơ với nhau được các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và mọi công dân tiến hành nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra và loại trừ
những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh hiện tượng tiêu cực đó”3. Cịn GS. TS.
Nguyễn Xuân Yêm khẳng định: “Phòng ngừa tội phạm là tổng hợp các biện pháp
có quan hệ tác động lẫn nhau, được tiến hành bởi cơ quan nhà nước và các tổ chức
xã hội nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm và hạn chế, loại trừ những nguyên nhân
sinh ra tội phạm”4. Theo khái niệm này có thể hiểu rằng, hoạt động phòng ngừa
tội phạm như “một phương tiện điều chỉnh sự phát triển các quan hệ xã hội nhằm
mục đích hạn chế, loại trừ các nguyên nhân tội phạm, như là sự tác động lẫn nhau
Hồ Trọng Ngũ (2005), “Phòng ngừa tội phạm ở cộng đồng dân cư”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6).
Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an Nhân dân, Hà
Nội, tr. 45.

3
4


10


của các biện pháp kinh tế – xã hội, giáo dục – sư phạm, tổ chức và pháp luật, như
là một tổ hợp các biện pháp khác nhau của phòng ngừa tội phạm” 5.
Trong khoa học về tội phạm học nước ta phòng ngừa tội phạm còn được
hiểu là: “Việc sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính xã hội và tính nhà nước
nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của của tình hình tội phạm, hạn
chế và loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”6.
Khái niệm phịng ngừa tội phạm thì về cơ bản đều thống nhất khi phân chia
nội dung của khái niệm phịng ngừa tội phạm – “phịng trước khơng cho tội phạm
xảy ra” theo hai cấp bậc rộng và hẹp khác nhau. Tác giả Dương Tuyết Miên lại
đưa ra khái niệm “Theo nghĩa hẹp, chỉ tập trung vào việc ngăn cản tội phạm xảy
ra, khắc phục loại bỏ nguyên nhân điều kiện. Theo nghĩa rộng, ngoài việc ngăn
cản tội phạm xảy ra còn sử dụng các biện pháp để phát hiện xử lý tội phạm kịp
thời”. GS. TS. Đỗ Ngọc Quang lại chỉ ra phòng ngừa tội phạm theo hai nghĩa:
“Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho tội phạm
xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác, bằng mọi cách để
ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường
hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành
những cơng dân có ích cho xã hội; theo nghĩa hẹp, phịng ngừa tội phạm là khơng
để cho tội phạm xảy ra, không để cho tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để
cho thành viên của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những
chi phí cần thiết cho Nhà nước trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo
giáo dục người phạm tội”7. PGS. TS. Nguyễn Chí Dũng lại cho rằng: “Phòng
ngừa tội phạm là sử dụng các phương pháp, chiến thuật, biện pháp, phương tiện
nghiệp vụ cần thiết, với sự tham gia của các lực lượng nhằm khắc phục mọi

Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phịng ngừa tội phạm, Nxb. Cơng an Nhân dân, Hà
Nội, tr. 46.
6
Tập bài giảng tội phạm học (2008), Đại Học luật Thành phố Hồ Chí Minh , tr.119.
7

Đỗ Ngọc Quang (1999), Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.32.
5


11

nguyên nhân, điều kiện không để tội phạm phát sinh, phát triển”8. Đồng thời,
Nguyễn Chí Dũng cũng chỉ rõ trong phịng ngừa tội phạm có hai nhóm biện pháp
là phịng ngừa chung và phịng ngừa riêng. Theo đó: phịng ngừa chung là sử dụng
tổng hợp các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, pháp luật… nhằm loại
bỏ các yếu tố có thể trở thành nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội
phạm, được toàn xã hội tham gia thực hiện; phòng ngừa riêng là các biện pháp pháp
luật, nghiệp vụ do các cơ quan chun mơn (Cơng an, Thanh tra, Kiểm sát, Tịa án,
Kiểm lâm, Cảnh sát biển… ) tiến hành nhằm vào những đối tượng cụ thể9. TS. Lê
Thế Tiệm phân tích: “Phịng ngừa tội phạm tức là không để cho tội phạm xảy ra và
gây nên những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không để cho các thành viên của xã
hội phải gánh chịu các hình phạt khắc nghiệt của pháp luật. Và nếu tội phạm có xảy
ra thì phải kịp thời phát hiện, xử lý để đảm bảo cho tội phạm khơng thể tránh khỏi
hình phạt, giáo dục và cải tạo người phạm tội trở thành cơng dân có ích cho xã
hội… ”10; Theo Từ điển Luật học định nghĩa: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa
tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện
pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành”11. GS.
TS. Nguyễn Ngọc Hịa đưa ra khái niệm này dưới góc độ tội phạm học: “Phòng
ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân, thực hiện tổng
thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm ngun nhân của tội phạm để
kiểm sốt, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những nhóm nguyên nhân này… ”12.
Nhìn chung, các khái niệm của các nhà khoa học đều thống nhất với nhau
rằng: phòng ngừa tội phạm là việc sử dụng các biện pháp nhất định để phịng
trước khơng cho tội phạm xảy ra. Các khái niệm nêu trên đều giống nhau ở điểm


Nguyễn Chí Dũng (2004), Một số vấn đề về tội phạm và cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta
hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.39.
9
Nguyễn Chí Dũng (2004), Một số vấn đề về tội phạm và cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta
hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.39.
10
Lê Thế Tiệm, Phạm Tự Phả và tập thể tác giả (1994), Tội phạm ở Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp, Đề tài KX 04-14, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 1994,tr.17.
11
Từ điển Luật học(1999), Nxb. Từ điển Bách khoa Hà Nội, tr.52.
12
Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, Tạp chí Luật học, (6) tr.31.
8


12

mục đích phịng ngừa là giảm bớt hoặc loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội và
xác định được các nguyên nhân của tội phạm để đề ra các cách thức phòng ngừa.
Trong phạm vi nghiên cứu luận văn của mình, tác giả cho rằng hoạt động
phịng ngừa tội phạm cần được hiểu theo nghĩa rộng tức là bao gồm cả hoạt động
tác động vào nguyên nhân, điều kiện của tội phạm và hoạt động phát hiện, xử lý
tội phạm. Phòng ngừa tội phạm được tiến hành bằng hệ thống các biện pháp
khác nhau. Mỗi biện pháp phòng ngừa gắn liền với chức năng, vai trò của một tổ
chức Nhà nước và xã hội nhất định.
– Trong tội phạm học Việt Nam, căn cứ vào phạm vi, cấp độ phịng ngừa
tội phạm, có những biện pháp phịng ngừa cơ bản sau đây:
+ Phòng ngừa tội phạm theo cấp độ xã hội chung: là biện pháp phòng
ngừa được thực hiện trên cơ sở những nỗ lực và cải thiện tồn diện các điều kiện
kinh tế, chính trị xã hội, tư tưởng cũng như pháp luật. Phòng ngừa tội phạm bằng

biện pháp xã hội chung thực chất là tạo những tiền đề tích cực, những điều kiện
căn bản cho việc loại trừ tội phạm. Đó là việc hình thành ý thức tự giác cho cơng
dân, nâng cao trình độ văn hố, chính trị xã hội trong cơng luận, nâng cao đời
sống vật chất cho nhân dân.
+ Phòng ngừa tội phạm theo cấp độ chuyên ngành tội phạm học: được coi
là biện pháp làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cụ thể và của tình
trạng phạm tội nói chung. Việc loại trừ các điều kiện phạm tội đòi hỏi phải sử
dụng các biện pháp có tính đặc biệt nhất là về sức mạnh cưỡng chế. Vì vậy,
trong tội phạm học việc dùng các biện pháp cưỡng chế hình sự cũng như các
biện pháp cưỡng chế hành chính được coi là những biện pháp cần thiết cho việc
phòng ngừa tội phạm.
+ Phòng ngừa tội phạm theo phạm vi lãnh thổ: như trong phạm vi toàn
quốc, khu vực, tỉnh, huyện, … Biện pháp phòng ngừa tội phạm chỉ đạt được hiệu
quả khi xác định được đầy đủ các đặc điểm của tình trạng phạm tội tại từng khu
vực địa lý nhất định. Mỗi một địa phương, tùy thuộc vào điều kiện phát triển


13

kinh tế, văn hố mà có những đặc điểm khác nhau về nguyên nhân, điều kiện
phạm tội, diễn biến của từng loại tội phạm cụ thể cũng như khả năng thực tế của
việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể
nói riêng. Ở vùng nông thôn, vùng công nghiệp, vùng thành thị đều có những
đặc điểm quản lý con người khác nhau, có những tồn tại khác nhau, do vậy việc
khắc phục những tồn tại này phải hoàn toàn độc lập với nhau.
– Cũng trong tội phạm học, căn cứ và các biện pháp phịng ngừa tội phạm
trên cơ sở tính chất của phịng ngừa tội phạm có những biện pháp sau đây:
+ Biện pháp kinh tế: đây là biện pháp tác động bằng kinh tế nhằm khắc
phục những hạn chế, loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.
Biện pháp này địi hỏi phải khắc phục tình trạng kinh tế sa sút trong xã hội, nâng

cao điều kiện sống trong nhân dân, tổ chức việc làm cho người lao động, mở
rộng mạng lưới dịch vụ xã hội, tạo việc làm cho người phạm tội đã chấp hành
xong bản án, … Điều này cũng đã được V. I. Lênin chỉ rõ: “Một trong những
biện pháp phòng ngừa tội phạm là phải nâng cao đời sống vật chất của quần
chúng, phải khơng ngừng tăng cường tính tự giác, tích cực, tạo điều kiện cho
quần chúng nhân dân tham gia công việc của nhà nước và của xã hội”13.
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới đất nước mà cụ thể là đổi mới
kinh tế đã đem lại những thành công bước đầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Song để sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
được thành cơng, cần đẩy mạnh hơn nữa q trình phát triển kinh tế nhằm góp
phần đưa nước ta thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ xã hội trong tiến trình xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Vì khi kinh tế phát triển sẽ nâng cao đời sống nhân dân
trong xã hội, loại trừ được những hiện tượng vi phạm pháp luật. Một trong
những nguyên nhân cơ bản của tội phạm hiện nay là do kinh tế. Bởi khi nền kinh
tế kém phát triển, đời sống của dân cư cịn khó khăn, đói nghèo, những mâu
thuẫn, bất cơng về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội là
13

V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.43, tr.33.


14

những nguyên nhân chủ quan để phát sinh và tồn tại tội phạm. Do vậy vậy, phát
triển kinh tế, thúc đẩy kinh doanh, sản xuất giữ vai trò nền tảng trong việc nâng
cao mức sống của nhân dân. Đồng thời đây cũng là một trong những giải pháp
mang tính chiến lược lâu dài và hiệu quả trong hoạt động phòng ngừa tội phạm.
+ Biện pháp chính trị – xã hội: đây là biện pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu
nhà nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, thu hút mọi công dân trong cả
nước vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Bên cạnh đó cần tác động

vào tư tưởng, nhận thức của mỗi người dân về các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về cơng tác đấu tranh phịng, ngừa tội phạm, chỉ rõ
những tác hại do tội phạm gây ra trong xã hội dưới các hình thức như tuyên
truyền pháp luật, xét xử án công khai, bản án nghiêm minh, … nhằm nâng cao
hơn nữa ý thức trách nhiệm của nhân dân. Điều này, một mặt là để động viên
nhân dân tự giác tham gia đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Mặt khác nhằm định
hướng cho những người “không vững vàng” trong việc nhận thức các yêu cầu về
giá trị đối với mỗi cá nhân trong xã hội cũng như yêu cầu về pháp luật để họ có
thể tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp.
+ Biện pháp văn hoá, tư tưởng: đây là biện pháp nhằm nâng cao ý thức
giác ngộ về chính trị – xã hội trong quần chúng nhân dân, góp phần có ý thức tơn
trọng luật pháp, đấu tranh chống tội phạm, hình thành nhân cách con người mới
trong xã hội chủ nghĩa.
Qua thực tiễn và nghiên cứu cho thấy, trong cơ cấu chung của tình hình
tội phạm, nhìn chung người phạm tội có trình độ học vấn thấp chiếm tỷ lệ tương
đối cao. Ngoài ra, cùng với sự phát triển về kinh tế – xã hội thì những hiện tượng
tiêu cực cũng xuất hiện ngày càng nhiều như: các ấn phẩm đồi trụy, độc hại; các
tư tưởng phản động, các lối sống tha hố, biến chất, … Do vậy, địi hỏi Đảng và
Nhà nước ta phải không ngừng nâng cao đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh
cho nhân dân, tổ chức một cách có hệ thống cơng tác giáo dục – đào tạo nhằm
nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, thu hút quần chúng nhân dân vào các


15

hoạt động văn hố lành mạnh, bổ ích, tăng cường cơng tác phịng ngừa tội phạm,
nâng cao tinh thần trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng. Những biện pháp này
sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc khắc phục hoạt động phòng, ngừa tội phạm.
+ Biện pháp tổ chức quản lý: việc tổ chức quản lý xã hội chặt chẽ từ trung
ương đến địa phương là cơ sở để xác định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ

quan nhà nước, xã hội, và công dân trong hoạt động phòng ngừa tội phạm.
+ Biện pháp phòng ngừa theo chức năng: phòng ngừa tội phạm là nhiệm vụ
chung của nhà nước được giao cho các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên để hoạt động
này hiệu quả cần phân định rõ cho các cơ quan chức năng một cách cụ thể như:
Cơng an, Tịa án, Viện kiểm sát, Uỷ ban nhân dân, Hải quan, các tổ chức xã hội, …
+ Các biện pháp pháp luật: cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành
các văn bản luật kịp thời, chặt chẽ, và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Cần
xác định rõ hơn các quyền và trách nhiệm của nhà nước, của xã hội, và của cơng
dân trong hoạt động phịng ngừa tội phạm. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền và phổ
biến pháp luật một cách rộng rãi để nhân dân tham gia hưởng ứng tinh thần sống
và làm việc theo đúng pháp luật.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, pháp luật có một vai trị rất to
lớn, V. I. Lênin đã nhấn mạnh: “Pháp luật xã hội chủ nghĩa như là một cơng cụ để
thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước”14. Thấm nhuần tư tưởng này nên
tại Điều 12 của Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa… Mọi hành động xâm
phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân
đều bị xử lý theo pháp luật”15. Để xã hội trở nên trật tự và ổn định, hạn chế tình
trạng phạm tội, cần phải chú trọng tới cơng tác phịng ngừa tội phạm. Mà trong
hoạt động phòng ngừa tội phạm, pháp luật có một vai trị rất sức quan trọng. Trật
tự kỷ cương xã hội, kỷ cương đất nước được đảm bảo đến mức độ nào phụ thuộc
V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.43, tr.33.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14
15


16


rất lớn vào các biện pháp pháp luật. Tác dụng phịng ngừa của pháp luật được thể
hiện ở tồn bộ quá trình xây dựng và thực thi pháp luật. Vì tất cả các ngành luật
trong hệ thống pháp luật với nhiệm vụ của mình đều có tác dụng phịng ngừa tội
phạm bằng các chế tài do ngành luật đó quy định. Cụ thể như: chế tài trách nhiệm
dân sự của ngành luật dân sự, chế tài xử phạt hành chính của ngành luật hành
chính, kỷ luật lao động trong luật lao động, … Tuy nhiên khơng có chế tài nào
mạnh mẽ như chế tài luật hình sự. Với những quy định tội phạm và hình phạt,
Luật hình sự có một vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa tội phạm, và đó
cũng là nhiệm vụ, chức năng cơ bản của luật hình sự.
Với cách hiểu phịng ngừa tội phạm là không để tội phạm xảy ra và gây
hậu quả cho xã hội, nếu tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát hiện, điều tra
khám phá để truy tố xét xử tiến hành giáo dục cải tạo người phạm tội trở thành
người cơng dân có ích cho xã hội. Vì vậy, phòng ngừa tội phạm cần được tiến
hành nghiên cứu đi theo hai hướng cơ bản:
– Hướng thứ nhất: tập trung vào việc hạn chế, đi đến thủ tiêu các hiện
tượng tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm và tội phạm cụ
thể. Hướng này thể hiện tính nhân đạo cao cả đồng thời cũng là mục đích và
mong muốn của xã hội. Mặt khác, nó tiết kiệm được tiền bạc, sức lực của Nhà
nước, của công dân trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tội phạm như:
Các chi phí cho việc khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra, chi phí cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, giáo dục người phạm tội.
– Hướng thứ hai: song song với việc làm mất đi nguyên nhân điều kiện
của tội phạm thì xã hội cần phải bằng mọi cách để ngăn chặn các tội phạm xảy
ra, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các loại tội phạm và cuối cùng là
cảm hố, giáo dục giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Thực tế đã khẳng
định phương hướng này có ý nghĩa đặc biệt trong việc làm giảm, hạn chế sự gia
tăng của tội phạm và điều chỉnh tình hình đó theo hướng làm giảm mức độ nguy
hiểm lớn nhất đối với xã hội, khi mà khả năng và điều kiện thực tế chưa cho



17

phép thủ tiêu hết ngay các nguyên nhân của tội phạm.
Do tội phạm là một hiện tượng xã hội, có bản chất giai cấp vơ cùng phức
tạp, nó bị chi phối và ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, nguyên nhân: Kinh tế, chính
trị, văn hố, pháp luật… cho nên để phòng ngừa tội phạm cần phải được tiến
hành đồng bộ, kịp thời bằng nhiều biện pháp và nhiều lực lượng ở tất cả các cấp,
các địa phương, ở từng gia đình và cộng đồng.
Từ cách tiếp cận trên, có thể đưa ra khái niệm về phòng ngừa tội phạm
như sau: phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp hướng đến việc thủ tiêu những
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm nhằm ngăn chặn, hạn chế làm giảm và từng
bước loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
1.1.2 Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm
Phòng ngừa tội phạm là một hoạt động thực tế rất đa dạng và phong phú vì
vậy cần nghiên cứu nó một cách hệ thống, khoa học. Có nhiều cách tiếp cận khác
nhau về hệ thống các biện pháp phịng ngừa tội phạm.
Phụ thuộc vào quy mơ, phạm vi và đối tượng tác động của hoạt động phòng
ngừa, phòng ngừa tội phạm bao gồm hai mức độ khác nhau: phòng ngừa chung
(phòng ngừa xã hội) và phòng ngừa riêng (phịng ngừa chun mơn). Phịng
ngừa chung và phịng ngừa riêng có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau.
– Phòng ngừa chung là tổng hợp tất cả các biện pháp về chính trị, kinh tế, pháp
luật, văn hố, giáo dục… được thực hiện trong quá trình xây dựng và phát triển mọi
mặt của đời sống xã hội. Đây là quá trình giải quyết những mâu thuẫn xã hội, các vấn
đề khó khăn phức tạp, khắc phục những nhược điểm thiếu sót trong cơng tác quản lý
Nhà nước và xã hội. Quá trình này tạo ra những tiền đề vật chất, tư tưởng tinh thần
nhằm xoá bỏ những nguyên nhân điều kiện làm nảy sinh tội phạm.
– Phòng ngừa riêng (phịng ngừa chun mơn) là việc áp dụng các biện pháp
mạng tính đặc trưng chun mơn của từng ngành, từng lực lượng để tập trung
phịng ngừa tội phạm nói chung, phịng ngừa từng nhóm tội phạm cũng như phịng



18

ngừa những hành vi phạm tội cụ thể. Đặc trưng của phịng ngừa riêng có đặc điểm
là quy mơ sử dụng biện pháp hẹp hơn so với phòng ngừa xã hội, các biện pháp
mang tính thiết thực, chun mơn rõ rệt và nhằm vào những đối tượng cụ thể.
Mối quan hệ tác động của hai mức độ trong hệ thống phịng ngừa tội phạm
thể hiện ở chỗ làm tốt cơng tác phòng ngừa xã hội tạo cơ sở nền tảng thực tiễn
cho hoạt động phịng ngừa chun mơn. Ngược lại phịng ngừa chun mơn tốt
giải quyết các vấn đề cụ thể có hiệu quả sẻ góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác
phịng ngừa chung.
Khi nghiên cứu các biện pháp phịng ngừa tội phạm, dựa vào các tiêu chí
khác nhau chúng ta có thể phân loại thành các nhóm biện pháp phòng ngừa.
– Thứ nhất là, căn cứ vào nội dung tác động của các biện pháp phòng
ngừa tội phạm
Căn cứ vào nội dung tác động có thể chia biện pháp phịng ngừa tội phạm
thành các nhóm như sau: biện pháp kinh tế, biện pháp giáo dục tư tưởng, biện
pháp tổ chức, biện pháp pháp luật…
Sử dụng các biện pháp kinh tế trong phịng ngừa tội phạm là q trình tác
động của Nhà nước, xã hội và công dân đến sản xuất và bảo vệ sản xuất, đảm
bảo các chế độ sở hữu, quản lý và phân phối sản phẩm một cách dân chủ, công
bằng. Một trong những nguyên nhân của tội phạm chính là do nghèo đói bần
cùng (bần cùng sinh đạo tặc), sự quản lý kinh tế lỏng lẻo và thiếu công bằng xã
hội. Đối với nước ta hiện nay kinh tế còn thấp kém, vấn đề quản lý trong kinh tế
thị trường cịn nhiều sơ hở… Vì vậy, bằng những biện pháp mang tính chất kinh
tế như đảm bảo nâng cao đời sống của các tầng lớp xã hội, quản lý chặt chẽ cơ
sở vật chất, phân phối sản phẩm công bằng là một trong những cơ sở quan trọng
để loại trừ nguyên nhân điều kiện của tội phạm.
Nhóm các biện pháp giáo dục chính trị tư tưởng, văn hoá là các hoạt động

tác động về mặt chính trị tư tưởng nhằm làm cho các thành viên của xã hội thông
suốt với quan điểm của Đảng và Nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ


19

trương chính sách pháp luật đã đề ra, xây dựng nếp sống văn minh, đạo đức
trong sạch.
Nhóm các biện pháp mang tính tổ chức hành chính hướng đến việc khơng
ngừng hoàn thiện về mặt tổ chức của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội,
xây dựng nội bộ cơ quan đoàn thể trong sạch, vững mạnh, hoàn thiện cơ chế hoạt
động phối hợp giữa các cơ quan nói chung và trong bộ phận các cơ quan, phát
hiện và khắc phục kịp thời những sơ hở, thiếu sót.
Nhóm các biện pháp pháp luật trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm khơng
chỉ có ý nghĩa như phương tiện sắc bén đối với điều tra, xử lý các vụ việc phạm
tội đã xảy ra, mà cịn có ý nghĩa thiết thực đối với lĩnh vực phòng ngừa tội phạm.
Sử dụng biện pháp pháp luật với tính cách là biện pháp phịng ngừa tội phạm địi
hỏi phải:
+ Xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật theo hướng Nhà nước
pháp quyền.
+ Tuyên truyền, giáo dục pháp luật sâu rộng trong nhân dân.
+ Thực hiện đúng thẩm quyền của các cơ quan và những người có trách
nhiệm trong q trình đấu tranh phịng, chống tội phạm. Ví dụ: các cơ quan điều
tra, xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật, đúng đường lối chính sách, nhanh
chóng kịp thời nghiêm minh.
– Thứ hai là, căn cứ vào phạm vi tác động của các biện pháp phòng ngừa
tội phạm
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ mà các biện pháp phòng ngừa được triển khai,
các biện pháp biện pháp được phân loại thành biện pháp phòng ngừa chung cho
cả nước, biện pháp phòng ngừa trên một vùng, địa phương (như tỉnh, huyện, xã,

thôn). Khi triển khai các biện pháp phòng ngừa tội phạm theo lãnh thổ cần chú ý
các vùng trọng điểm phức tạp như tuyến, địa bàn trọng điểm: vùng biên giới,
vùng tập trung hàng lậu


×