Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận trong pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.25 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA
THUẬN TRONG PHÁP LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ VÂN THƯ
KHÓA: 37 - MSSV: 1253801010342
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: GV. NGÔ THỊ ANH VÂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tác giả dưới sự hướng dẫn khoa học của GV. Ngô Thị Anh Vân. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ một công trình
nào. Các số liệu, trích dẫn trong khóa luận đảm bảo tính chính xác, trung thực và
đáng tin cậy.
Ngồi ra, trong khóa luận, tác giả cịn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của
các tác giả khác nhưng đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Tác giả xin chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình.

SVTH
Nguyễn Thị Vân Thư



LỜI CẢM ƠN
Trong bốn năm học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh,
dưới sự chỉ bảo và giảng dạy ân cần của quý thầy cô, em đã tích lũy được cho mình
một lượng kiến thức bổ ích. Em xin chân thành cảm ơn.
Để hồn thành khóa luận này, khơng thể khơng kể đến sự hướng dẫn nhiệt tình,
sự quan tâm tỉ mỉ của GV. Ngơ Thị Anh Vân. Em xin kính gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc nhất. Chúc cô thật nhiều sức khỏe và thành cơng trong sự nghiệp
giảng dạy của mình.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người ln ln bên cạnh an ủi, động viên
em trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Mặc dù có nhiều cố gắng để hồn thành khóa luận một cách tốt nhất. Song do
lần đầu tiên làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, cùng với trình độ lý luận
cịn hạn chế nên khơng khỏi tồn tại những thiếu sót. Rất mong nhận được góp ý của
q thầy cơ để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS năm 2005

Bộ luật dân sự năm 2005

BLDS năm 2015

Bộ luật dân sự năm 2015


LHNGĐ năm 1959

Luật hôn nhân và gia đình năm 1959

LHNGĐ năm 1986

Luật hơn nhân và gia đình năm 1986

LHNGĐ năm 2000

Luật hơn nhân và gia đình năm 2000

LHNGĐ năm 2014

Luật hơn nhân và gia đình năm 2014

Nghị định 126/2014/NĐ-CP

TTLT 01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP

Nghị định 126/2014/NĐ –CP ngày 31 tháng
12 năm 2014 quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật hơn nhân và gia
đình.
Thơng tư liên tịch 01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng
01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số
quy định của Luật hôn nhân và gia đình.



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO
THỎA THUẬN..........................................................................................................5
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận .5

1.1.1.

Khái niệm ................................................................................................5

1.1.2.

Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận .................. 9

1.2.

Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận .....................11

1.3. Quá trình hình thành chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
trong pháp luật Việt Nam ...................................................................................14
1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật phong
kiến…… ..............................................................................................................14
1.3.2.

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận dưới thời Pháp thuộc ...15

1.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận từ tháng 8 - 1945 đến
24/3/1977 ............................................................................................................18

1.3.4.

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận từ 25/3/1977 đến nay ...23

1.4. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật của một
số quốc gia.............................................................................................................26
1.4.1.

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Pháp ...26

1.4.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Thái
Lan……. ..............................................................................................................29
1.4.3. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Nhật
Bản……...............................................................................................................31
1.4.4. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Hoa
Kỳ…….................................................................................................................32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................34
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỘ TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .................................................................................36
2.1. Những nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật
hơn nhân gia đình hiện hành ..............................................................................36


2.2. Điều kiện phát sinh hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ...........................................................43
2.1.1. Điều kiện phát sinh hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng….. .............................................................................................................43
2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện phát sinh hiệu lực của thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ................................................................46

2.2. Nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật ............................................................................................47
2.2.1.

Nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ....................47

2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nội dung của thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng ...........................................................................................53
2.3. Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ...........................................................54
2.3.1. Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng….. .............................................................................................................54
2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ................................................................55
2.4. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vơ hiệu và kiến nghị hồn
thiện pháp luật .....................................................................................................57
2.4.1.

Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vơ hiệu .............................57

2.4.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng vô hiệu ......................................................................................................61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào, là hạt nhân của xã hội. Để gia đình có thể tồn tại và phát

triển bền vững, việc quan tâm đến yếu tố tài sản bên cạnh yếu tố nhân thân là rất
cần thiết. Tài sản không chỉ là phương tiện nhằm đảm bảo các nhu cầu riêng của
cá nhân mà còn thực hiện tốt các chức năng cơ bản của gia đình, trong đó có
chức năng kinh tế. Tài sản là cơ sở để gia đình tham gia vào các quan hệ xã hội,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho tất cả các thành viên. Khi quan hệ tài
sản không được xác định rõ, các hoạt động kinh tế của vợ chồng sẽ gặp nhiều
khó khăn. Bên cạnh đó, đa số các trường hợp mâu thuẫn gia đình là xuất phát từ
tài sản. Vợ, chồng bất đồng quan điểm về người có quyền định đoạt tài sản, hoặc
khơng có sự rạch rịi giữa tài sản chung và tài sản riêng dẫn đến việc xảy ra tranh
chấp. Thực tế là, không vợ chồng nào lại mong muốn kết thúc cuộc hơn nhân của
mình bằng cách thức như vậy. Tuy nhiên, hành vi xâm phạm quyền sở hữu của
một bên vợ chồng khiến cho họ buộc phải nhờ đến sự can thiệp của Tòa án để
giải quyết.
Hiện nay các vụ tranh chấp về tài sản của vợ chồng ngày càng tăng và trong
nhiều trường hợp, việc giải quyết là chưa hợp lý. Do đó, tìm hiểu kỹ lưỡng hơn
các quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng góp phần bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các bên và tạo cơ sở để Tòa án giải quyết hợp lý các tranh chấp
của vợ chồng. Một trong các quy định phục vụ cho q trình giải quyết đó là chế
độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận1. Tuy nhiên, đây là một chế định mới
được LHNGĐ năm 2014 ghi nhận bên cạnh chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định2 nên việc nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề về chế độ tài sản theo thỏa thuận
là một điều cần thiết. Có như vậy, các quy định về chế độ tài sản này mới có thể
được đưa vào vận dụng một cách hiệu quả trên thực tế, góp phần giảm thiểu các
tranh chấp về tài sản trong gia đình. Xuất phát từ các lý do kể trên, tác giả lựa

1
2

Sau đây gọi tắt là chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Sau đây gọi tắt là chế độ tài sản theo luật định.


1


chọn đề tài: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hơn
nhân và gia đình Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Mặc dù là một đề tài mới, chế độ tài sản theo thỏa thuận cũng đã được nghiên
cứu trong một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành. Những bài viết tiêu biểu
và quan trọng về chế định này có thể kể đến như sau:
Phạm Thị Linh Nhâm (2010), Tìm hiểu về hơn ước và khả năng áp dụng hôn
ước ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn
Văn Cừ (2012), Một số vấn đề về hôn ước và quan điểm áp dụng ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Luật học, số 10. Những bài viết này được thực hiện khi
LHNGĐ năm 2014 chưa ra đời, đồng nghĩa với việc chế độ tài sản theo thỏa
thuận chưa được ghi nhận trong pháp luật hơn nhân gia đình Việt Nam. Các bài
viết tập trung nghiên cứu và làm rõ các vấn đề về hôn ước như là một văn bản
thỏa thuận tài sản của vợ chồng mà không phải là một chế độ tài sản theo thỏa
thuận được quy định trong LHNGĐ năm 2014. Bên cạnh đó, bài viết của Bùi
Minh Hồng (2009), Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong pháp luật
Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 11, tập trung làm
sáng tỏ nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản trong hôn nhân, nội dung của
hôn ước và những chế độ tài sản được dự liệu trong pháp luật Cộng hịa Pháp, từ
đó làm kinh nghiệm cho quá trình xây dựng chế độ tài sản theo thỏa thuận trong
pháp luật Việt Nam.
Nguyễn Văn Cừ (2015), Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong
pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 4. Mặc dù được
nghiên cứu sau khi LHNGĐ năm 2014 ra đời, nhưng bài viết chỉ tập trung trình
bày về chế độ tài sản theo thỏa thuận trong hệ thống pháp luật Việt Nam trước

đây, khái quát các quy định của pháp luật về chế độ tài sản theo thỏa thuận trong
LHNGĐ năm 2014 và đưa ra một số nhận xét ở mức độ chung chung. Bài viết
chưa đi sâu vào phân tích cơ sở của những nhận xét và giải pháp hoàn thiện pháp
luật.

2


Nguyễn Phương Thảo (2015), Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận –
kinh nghiệm từ pháp luật Úc và Hoa Kỳ, Hội thảo khoa học, Những điểm mới
của LHNGĐ năm 2014, tháng 1. Bài viết chủ yếu nghiên cứu các quy định về
thỏa thuận tài sản của vợ chồng trong pháp luật Úc và Hoa Kỳ bao gồm các vấn
đề chủ thể, hình thức, nội dung. Mặc dù bài viết có đưa ra một số kiến nghị hồn
thiện pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản theo thỏa thuận, tuy nhiên, lại chưa
trình bày các quy định của pháp luật về chế độ tài sản này.
Trên đây là một số bài viết về chế độ tài sản theo thỏa thuận được thực hiện
tại Việt Nam. Tuy nhiên, những bài viết này chỉ đề cập đến những khía cạnh
riêng lẻ. Do đó, tác giả nhận thấy cần phải tiến hành tìm hiểu cụ thể hơn các quy
định của pháp luật về chế độ tài sản theo thỏa thuận để đi đến cái nhìn tổng quát
dựa vào các quy định của LHNGĐ hiện hành.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định
của pháp luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận, qua đó, nhấn mạnh tầm quan trọng, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của các
quy định này. Đồng thời, thơng qua việc nghiên cứu, tìm hiểu đề tài, tác giả cũng
muốn góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật về chế độ tài sản này nhằm
đảm bảo cho các quy định của pháp luật được thống nhất, hợp lý và đáp ứng
được các nhu cầu của thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, tác giả mong muốn làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và pháp lý

về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện thông qua văn
bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Vì vậy, trong khóa luận, tác giả
tập trung nghiên cứu nội dung, hình thức, các điều kiện có hiệu lực của thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau. Cụ thể:
3


Phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này được tác giả sử dụng
xun suốt trong tồn bộ khóa luận của mình. Tác giả phân tích để đánh giá, bình
luận các quy định của pháp luật hơn nhân gia đình hiện hành về chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận. Bên cạnh đó, tác giả cũng tổng hợp các quan điểm
của các nhà nghiên cứu, các vấn đề lý luận trong các cơng trình nghiên cứu khác,
nhằm mục đích làm căn cứ để chứng minh cho các vấn đề liên quan đến đề tài
của mình.
Phương pháp so sánh: phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu tại
chương I để so sánh, đối chiếu các quy định về chế độ tài sản theo thỏa thuận
trong pháp luật Việt Nam trước đây, trong pháp luật một số quốc gia với các quy
định về chế độ tài sản theo thỏa thuận được quy định trong LHNGĐ hiện hành.
Với những phương pháp được sử dụng, tác giả sẽ dễ dàng hơn trong việc
nghiên cứu đề tài của mình một cách tồn diện.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi lời nói đầu, khóa luận có kết cấu như sau:
Chương 1: Khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng
theo thỏa thuận và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


4


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO THỎA THUẬN
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

1.1.1. Khái niệm
 Khái niệm về tài sản
Tài sản là một bộ phận không thể thiếu nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu
cho cuộc sống hằng ngày. Theo nghĩa thông thường, tài sản được hiểu là “của cải
vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”3. Với quan điểm này, tài
sản có thể là vật chất hoặc cũng có thể là tinh thần và ln gắn liền với một chủ
thể xác định. Ở một khía cạnh khác, có thể hiểu tài sản là “của cải vật chất dành
cho sản xuất hoặc tiêu dùng”4. Khái niệm này chủ yếu quan tâm đến mục đích sử
dụng của tài sản. Dưới góc độ pháp lý, tài sản lại là “các vật có giá trị bằng tiền
và là đối tượng của quyền sở hữu và các lợi ích vật chất khác”5.
Điều 105 BLDS năm 2015 quy định: “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động
sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Xét về nội
hàm, quan niệm về tài sản trong BLDS năm 2015 không có sự thay đổi so với
BLDS năm 20056. Theo đó, mỗi loại tài sản đều có đặc điểm riêng.
 Vật: theo nghĩa thơng thường là cái có hình khối, tồn tại trong khơng gian
và có thể nhận biết được7. Tuy nhiên, “một vật chỉ được coi là khách thể của
quyền sở hữu khi đáp ứng các yêu cầu: vật đó phải là một bộ phận của thế giới
vật chất, có thể là vật đang tồn tại hiện hữu hoặc là vật được hình thành trong
tương lai; vật đó phải mang lại lợi ích cho con người, tức là vật đáp ứng nhu cầu

về vật chất hay tinh thần nhất định cho con người, đáp ứng nhu cầu về các mặt
của đời sống xã hội như kinh doanh, tiêu dùng và con người có thể chiếm hữu

3

Viện Ngơn Ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thơng, NXB TP. Hồ Chí Minh, tr.811.
Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, tr.631.
5
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa và NXB Tư
pháp, tr.685.
6
Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
7
Viện Ngôn Ngữ học (2002), tlđd (3), tr.1019.
4

5


được, tức là có thể nắm giữ, quản lý được tài sản, bởi việc chiếm hữu là tiền đề
trong việc sử dụng và định đoạt”8.
 Tiền: theo kinh tế chính trị học được coi là vật ngang giá chung, làm
thước đo giá trị của các loại tài sản khác. “Dưới góc độ kinh tế, tiền là một loại
tài sản đặc biệt, có chức năng dùng để thanh tốn, là phương tiện lưu thông và
phương tiện cất giữ”9. Tiền bao gồm tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ. Tiền chỉ
được coi là tài sản khi đang có giá trị lưu hành.
 Giấy tờ có giá: “Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền
và chuyển giao được trong giao lưu dân sự”10. Giấy tờ có giá có thể là cổ phiếu,
ngân phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái, séc… “Đặc điểm chung của các loại
giấy tờ này là bao giờ cũng được xác định nếu chuyển thành tiền; chỉ được tạo ra

bởi một số chủ thể có đủ điều kiện do luật định; khi chuyển nhượng, không cần
chuyển giao thực tế bằng hiện vật mà chỉ thơng qua thủ tục giấy tờ tại các tổ
chức có trách nhiệm; giấy tờ có giá xác nhận quan hệ tài sản với những chủ thể
nhất định”11.
 Quyền tài sản: theo Điều 115 BLDS năm 2015 “là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Khái niệm quyền tài sản đã loại bỏ yếu
tố “có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự” được quy định trong BLDS năm
200512. Như vậy, quyền tài sản theo BLDS năm 2015 đã được mở rộng nội hàm
so với BLDS năm 2005. Với quy định của BLDS năm 2005, nhiều quyền tài sản
thực sự sẽ không được thừa nhận là quyền tài sản bởi vì thiếu dấu hiệu “có thể
chuyển giao được trong giao dịch dân sự”.
BLDS năm 2005 khơng có quy định về tài sản hình thành trong tương lai
trong phần “Những quy định chung” mà chỉ đề cập đến trong phần “Bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự”. BLDS năm 2015 thuyết phục hơn ở chỗ đưa quy
8

Nguyễn Xuân Quang – Lê Nết – Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật dân sự Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.111.
9
Nguyễn Xuân Quang – Lê Nết – Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), tlđd (8), tr.111.
10
Nguyễn Minh Oanh (2009), “Các loại tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 1,
tr.15.
11
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và
quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 17.
12
Điều 181 BLDS năm 2005 quy định: “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển
giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.


6


định về tài sản hình thành trong tương lai vào phần “Những quy định chung”.
Theo khoản 2 Điều 108 BLDS năm 2015: “tài sản hình thành trong tương lai
bao gồm: tài sản chưa hình thành hoặc tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác
lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch”. “Với quy định như
vậy, dường như sự mở rộng loại hình tài sản này có vẻ hơi q mức cần thiết khi
khơng hề có bất kỳ điều kiện nào để xác định giới hạn cho tài sản hình thành
trong tương lai. Điều này tạo tự do nhưng sẽ gây khó khăn cho các chủ thể tham
gia vào quan hệ dân sự trong việc xác định liệu một đối tượng có khả năng được
coi là tài sản hình thành trong tương lai hay khơng khi khả năng tài sản này được
hình thành trong tương lai là khơng cao”13.
Để có thể đảm bảo quyền lợi của bản thân trong các vụ việc hay tranh chấp
pháp lý về tài sản, cá nhân, pháp nhân hay tổ chức cần phải hiểu rõ khái niệm tài
sản theo quy định của pháp luật. Bởi lẽ, khi có tranh chấp xảy ra trên thực tế, có
thể được coi là tài sản hay không sẽ dựa vào khái niệm do luật quy định.
 Khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng
Hơn nhân và gia đình là một hiện tượng xã hội luôn được các nhà triết học,
sử học, luật học, xã hội học nghiên cứu, trong đó hơn nhân là cơ sở của gia đình.
“Hơn nhân khơng phải là hợp đồng mà là một sự liên kết đặc biệt giữa một người
đàn ông và một người đàn bà bởi mục đích xây dựng mối quan hệ vợ chồng bền
vững, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, vật chất của đôi bên, sinh đẻ và giáo
dục con cái”14. Do tính chất đặc biệt này của quan hệ hơn nhân, một khi nam nữ
kết hôn, không chỉ mối quan hệ về mặt nhân thân mà cả mối quan hệ về mặt tài
sản của họ đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật hơn nhân gia đình. Các quy định
điều chỉnh về quan hệ tài sản của vợ chồng có tên gọi là “chế độ tài sản của vợ
chồng”.
Chế độ tài sản của vợ chồng là “tổng hợp các quy định của pháp luật về

quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng”15.

13

Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, NXB
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.124.
14
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Công an
nhân dân, tr.17-18.
15
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), tlđd (5), tr.129.

7


Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Cừ, chế độ tài sản của vợ chồng “là
tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản của vợ
chồng, bao gồm các quy định về căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung, tài sản
riêng của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó;
các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng”16. Theo cách
hiểu này, chế độ tài sản của vợ chồng không chỉ đơn thuần quy định quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng mà còn quy định về
căn cứ, nguồn gốc xác lập các tài sản đó; trường hợp và nguyên tắc chia tài sản
chung.
Chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay được xây dựng trên nguyên tắc vợ
chồng bình đẳng, đồng thời tôn trọng quyền tự do định đoạt của mỗi cá nhân.
Theo đó, các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng cũng mở rộng theo hướng
cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản được áp dụng trong suốt thời kỳ hơn
nhân của mình và quy định các nguyên tắc chung được áp dụng cho các chế độ
tài sản của vợ chồng. Như vậy, theo tác giả, chế độ tài sản của vợ chồng là tổng

hợp các quy định của pháp luật về căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung, tài
sản riêng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các tài sản đó; trường hợp và
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; quyền lựa chọn chế độ tài sản theo
thỏa thuận hoặc chế độ tài sản theo luật định của vợ chồng và các nguyên tắc
chung được áp dụng khi vợ chồng thực hiện các quan hệ về tài sản.
 Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
Pháp luật hơn nhân gia đình ở Việt Nam từ trước khi LHNGĐ năm 2014 có
hiệu lực khơng cho phép vợ chồng thỏa thuận với nhau về chế độ tài sản của
mình. Mọi vấn đề về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung và tài sản riêng của
vợ chồng đều do pháp luật dự liệu, vợ chồng bắt buộc phải thực hiện theo các
quy định có sẵn của pháp luật. Lúc này, chế độ tài sản duy nhất được áp dụng là
chế độ tài sản theo luật định. Chế độ tài sản theo luật định là chế độ tài sản mà
pháp luật trực tiếp điều chỉnh về căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung, tài sản

16

Nguyễn Văn Cừ (2015), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 04, tr.3.

8


riêng của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về các tài sản đó; các
trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng.
LHNGĐ năm 2014 ra đời quy định thêm chế độ tài sản theo thỏa thuận bên
cạnh chế độ tài sản theo luật định. Khác với chế độ tài sản theo luật định, chế độ
tài sản theo thỏa thuận là chế độ tài sản mà các căn cứ, nguồn gốc xác lập tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
các tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ
được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng.

Chế độ tài sản theo thỏa thuận khơng phải có hiệu lực ở tất cả các nước nhưng
phần lớn đều ghi nhận loại chế độ tài sản này như Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thái
Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Bỉ, Hà Lan, Đức, Ba Lan, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Na Uy,
Phần Lan…Ở các quốc gia này không sử dụng thuật ngữ “chế độ tài sản theo
thỏa thuận” mà lại dùng các thuật ngữ như hôn ước, thỏa thuận tiền hôn nhân hay
thỏa thuận tài chính. Ở Việt Nam, các khái niệm này chỉ được coi là văn bản
dùng để ghi lại các vấn đề mà vợ chồng đã thỏa thuận, mà không phải là một chế
độ tài sản như LHNGĐ năm 2014 đã quy định.
1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
Chế độ tài sản theo thỏa thuận, trong luật HNGĐ năm 2014 tồn tại song
song, độc lập và có một số đặc điểm khác biệt với chế độ tài sản theo luật định.
Thứ nhất, chế độ tài sản theo thỏa thuận chỉ có thể được áp dụng khi vợ
chồng lựa chọn chế độ tài sản này. Trong khi đó, theo Điều 7 Nghị định
126/2014/NĐ-CP: “chế độ tài sản theo luật định được áp dụng trong trường hợp
vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa
thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo
quy định tại Điều 50 LHNGĐ năm 2014”. Như vậy, chế độ tài sản theo luật định
có thể được áp dụng mà khơng cần vợ chồng phải làm thủ tục lựa chọn. Trong
trường hợp vợ chồng muốn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận, họ phải lập
văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước ngày đăng ký kết hơn.
Điều đó có nghĩa, vợ chồng phải thể hiện ý chí một cách rõ ràng trong việc lựa
chọn chế độ tài sản này thì mối quan hệ tài sản của vợ chồng mới có thể được
thực hiện theo các điều khoản trong thỏa thuận.
9


Thứ hai, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận chỉ điều chỉnh các
quan hệ về tài sản mà không điều chỉnh mối quan hệ về nhân thân của vợ chồng.
Bản thân tên gọi của chế định “chế độ tài sản của vợ chồng” đã nêu lên phạm vi
điều chỉnh của quy định này, đó là chỉ điều chỉnh các quan hệ tài sản. Mối quan

hệ về nhân thân được quy định ở một mục khác với tên gọi là “quyền và nghĩa vụ
về nhân thân”. Pháp luật quy định như vậy là phù hợp với tính chất đặc biệt của
quan hệ hôn nhân. Nếu cho phép vợ chồng thỏa thuận về quan hệ nhân thân, khi
đó, hơn nhân cũng giống như các quan hệ dân sự thông thường, khơng cịn những
ràng buộc cơ bản khi nam nữ lựa chọn kết hơn và xây dựng gia đình. Bên cạnh
đó, các quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng vì có liên quan đến đạo
đức, trật tự chung của xã hội nên được pháp luật quy định, vợ chồng không thể tự
do thỏa thuận khác đi.
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện thông
qua văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản theo thỏa
thuận chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân nên khi hôn nhân chấm dứt, văn bản thỏa
thuận của vợ chồng cũng hết hiệu lực. Tuy nhiên, khi thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng bị vô hiệu lại không ảnh hưởng đến hiệu lực của quan hệ hôn nhân.
Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng phải được ký kết trước khi
nam nữ đăng ký kết hơn. Do đó, các thỏa thuận khác như thỏa thuận trong thời
kỳ hôn nhân và thỏa thuận khi hôn nhân chấm dứt không phải văn bản nhằm thực
hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận. Các văn bản này thuộc phạm vi điều chỉnh
của chế độ tài sản theo luật định.
Thứ tư, chế độ tài sản theo thỏa thuận đề cao quyền tự do định đoạt của vợ
chồng. Trước khi LHNGĐ năm 2014 ra đời, chế độ tài sản theo luật định được
quy định là chế độ tài sản duy nhất nhằm đáp ứng thực tiễn các mối quan hệ vợ
chồng. Theo đó, vợ chồng khơng được tự do thỏa thuận tài sản chung, riêng mà
pháp luật sẽ quy định các tài sản là tài sản chung nhằm mục đích phục vụ đời
sống gia đình, tiêu dùng cho sinh hoạt chung. Chế độ tài sản theo thỏa thuận đề
cao quyền tự do định đoạt của chủ sở hữu tài sản thể hiện ở chỗ vợ chồng được
tự do thỏa thuận tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng. Họ cũng
có thể thoả thuận quyền, nghĩa vụ đối với các tài sản đó và nguyên tắc phân chia
10



khi chấm dứt chế độ tài sản. Chế độ tài sản theo thỏa thuận mặc dù đề cao quyền
tự do định đoạt tài sản của chủ sở hữu nhưng cũng không quên bảo đảm các nhu
cầu thiết yếu của gia đình thơng qua việc quy định các ngun tắc chung áp dụng
cho cả chế độ tài sản theo luật định và chế độ tài sản theo thỏa thuận. Như vậy,
quyền tự do định đoạt tài sản của chủ sở hữu và lợi ích của gia đình đều có thể
được đảm bảo một cách tốt nhất.
1.2.

Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Mỗi quy
định của pháp luật đều đòi hỏi mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành, Nhà
nước đảm bảo pháp luật phải được thực thi và đi vào cuộc sống. Khơng chỉ vậy,
mỗi chế định cịn phải có ý nghĩa riêng. Trong thời đại hiện nay, chế độ tài sản
theo thỏa thuận đã thể hiện rõ vai trò và ý nghĩa của mình.
Thứ nhất, chế độ tài sản theo thỏa thuận ra đời tạo cơ sở, căn cứ pháp lý để
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của vợ chồng17. Nói như vậy khơng có nghĩa là chế
độ tài sản theo luật định khơng bảo đảm điều đó. Tuy nhiên, chế độ tài sản theo
thỏa thuận sẽ đảm bảo hơn cho vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình theo mong muốn. Pháp luật phải ghi nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận thì
vợ chồng mới có cơ sở để thỏa thuận, để thỏa mãn các nhu cầu thực tế của mình.
Các quy định về chế độ tài sản này định hướng cho vợ chồng xây dựng nên các
điều khoản trong văn bản thỏa thuận. Vợ chồng có thể thỏa thuận theo định
hướng của pháp luật hoặc cũng có thể thỏa thuận khác đi, tùy theo mong muốn
của họ. Khi đó, các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sẽ được thực hiện
theo các nội dung đã được thỏa thuận.
Thứ hai, chế độ tài sản theo thỏa thuận đảm bảo quyền tự do định đoạt tài
sản của vợ chồng. Điều này phù hợp với tinh thần pháp luật của nước ta. Điều
194 BLDS năm 2015 quy định: “chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho,
cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các

hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản”.
Theo đó, chế độ tài sản theo thỏa thuận sẽ đảm bảo cho cá nhân quyền sở hữu và

17

Nguyễn Văn Cừ (2012), “Một số vấn đề về hôn ước và quan điểm áp dụng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Luật học, số 10, tr.8.

11


định đoạt các tài sản của mình. Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát
triển, gia đình khơng cịn chỉ bó hẹp với chức năng duy trì cuộc sống của các
thành viên mà thực sự đã tham gia tích cực vào nền kinh tế xã hội. Việc vợ chồng
được tự do định đoạt tài sản sẽ tạo điều kiện cho họ mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, hạn chế các rủi ro từ hoạt động này làm ảnh hưởng đến cuộc sống
gia đình.
Những quan hệ kinh tế hiện đại địi hỏi vợ chồng phải có những quyết định
nhanh nhạy, muốn như thế, ý thức tự chủ về tài sản của cá nhân phải cao, vợ,
chồng phải có quyền tự quyết đối với tài sản trong gia đình. Nếu thực hiện theo
quy định pháp luật, trong nhiều trường hợp, vợ chồng sẽ bỏ lỡ các cơ hội làm ăn.
Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu này, vợ chồng có thể lựa chọn chế độ tài sản
theo thỏa thuận. Qua đó, tạo ra khả năng cho mỗi bên về việc tự do tham gia các
hoạt động sản xuất từ khối tài sản riêng của mình, kèm theo đó, giảm thiểu các
rủi ro đến từ các hoạt động kinh doanh, tránh được tình trạng bấp bênh của gia
đình khi cả hai vợ chồng cùng tham gia hoạt động thương mại.
Thứ ba, khi vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận sẽ hạn chế
tranh chấp, mâu thuẫn nảy sinh giữa các bên. Nam nữ luôn luôn chủ động thực
hiện theo các thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bởi lẽ, khi lựa chọn chế
độ tài sản này, nam nữ hoàn toàn tự nguyện và họ đã đồng ý thực hiện theo các

điều khoản trong thỏa thuận. Vì vậy, chế độ tài sản này sẽ hạn chế khả năng tranh
chấp do đã được thỏa thuận rõ ràng. Khi các quan hệ về tài sản của vợ chồng
được thỏa thuận hợp lý, thuận tình thì việc ly hôn của vợ chồng sẽ không bị kéo
dài, vợ chồng cũng khơng cần phải tốn kém chi phí để tranh chấp quyền sở hữu
đối với các tài sản. Chính vì vậy, việc cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản
theo thỏa thuận sẽ góp phần giảm đi phần nào số lượng các cặp vợ chồng ly hôn
do bản thân họ đã tự nguyện thống nhất thỏa thuận trước khi kết hơn. Hơn nữa,
một khi có tranh chấp về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng hoặc
giữa vợ chồng với người thứ ba, thì thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng sẽ
được sử dụng để làm cơ sở, làm căn cứ cho việc giải quyết. Đây cũng là một
phương pháp tốt nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngành Tòa án trong việc giải
quyết các vụ tranh chấp về hơn nhân gia đình. Về nguyên tắc, chế độ tài sản theo
12


thỏa thuận cho phép vợ chồng có quyền tự do thỏa thuận tài sản chung, tài sản
riêng và thỏa thuận cả vấn đề quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
và tài sản riêng của đối phương. Đồng thời, chế độ tài sản này còn cho phép vợ
chồng có thể tự bảo tồn khối tài sản riêng của mình, giảm hoặc tránh được
những xung đột, tranh chấp về tài sản trong thời kỳ hôn nhân và cả sau khi ly
hơn.
Bên cạnh đó, chế độ tài sản theo thỏa thuận cũng minh bạch hóa các giao dịch
từ tài sản của vợ chồng. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng ký kết rất nhiều các
giao dịch dân sự với người khác. Chế độ tài sản theo thỏa thuận sẽ cho phép
người thứ ba khi thực hiện giao dịch với vợ chồng có thể biết được tài sản nào là
tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng, tài sản nào có thể dùng để thực hiện các
giao dịch nhằm đảm bảo quyền, nghĩa vụ của vợ chồng và cả đối với người thứ
ba tham gia vào giao dịch đó.
Thứ tư, thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận đã giúp pháp luật Việt Nam
có sự tương đồng với hệ thống pháp luật một số nước trên thế giới. Đây khơng

phải là một sự tiếp thu khơng có chọn lọc mà thực tế, việc ghi nhận chế độ tài sản
theo thỏa thuận là hoàn toàn phù hợp với các điều kiện của xã hội Việt Nam hiện
đại. Khi các yếu tố về kinh tế, xã hội, tài chính của Việt Nam đang có những
chuyển biến mạnh mẽ thì quyền tự do định đoạt tài sản của cá nhân cũng cần
phải được bảo vệ tốt hơn. Chức năng của gia đình cũng khơng cịn bó hẹp trong
việc duy trì nịi giống, sản xuất nơng nghiệp lạc hậu mà đã mở rộng ra với việc
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh hiện đại nhằm thỏa mãn nhiều nhu cầu
khác của gia đình và cá nhân các thành viên. Điều đó cùng với xu thế hội nhập,
tồn cầu hóa, mở cửa giao lưu với bên ngồi đã khơng ngừng thúc đẩy các nhà
lập pháp xây dựng và đưa vào pháp luật hơn nhân gia đình chế độ tài sản này.
Hơn nữa, các quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi cũng ngày một tăng lên,
trong đó, phần lớn là phụ nữ Việt Nam kết hôn với đàn ông nước ngồi. Vì vậy,
chúng ta cần chủ động hơn nữa trong việc bảo vệ những người phụ nữ này, tránh
những thiệt thịi khơng đáng có do thiếu pháp luật bảo vệ, nhất là những thiệt thòi
về mặt tài sản.

13


1.3.

Quá trình hình thành chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
trong pháp luật Việt Nam

1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật phong
kiến
Thời kỳ phong kiến Việt Nam có hai Bộ luật lớn và tương đối hồn thiện, đó
là Bộ luật Hồng Đức (Triều Lê) và Bộ luật Gia Long (Triều Nguyễn). Trước hết
nói về Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật này là sự tiến bộ cả về nội dung lẫn kỹ thuật
lập pháp, bao gồm những nội dung phù hợp với đời sống xã hội Việt Nam lúc

bấy giờ. Bộ luật có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng mặc dù chỉ thừa
nhận chế độ tài sản theo luật định. Bộ luật cũng đã gián tiếp thừa nhận sự bình
đẳng của vợ chồng đối với tài sản gia đình18. “Các văn cổ lập dưới thời Lê cho
thấy các định đoạt quan trọng đối với tài sản như bán, tặng cho, cầm cố, lập chúc
thư do hai vợ chồng cùng thực hiện, các văn tự đều do hai vợ chồng cùng ký”19.
Bộ luật Gia Long lại khác, vì bản thân Bộ luật này là sự sao chép gần như
toàn bộ “Đại Thanh luật lệ” của triều Thanh nên đã thủ tiêu những chế định dân
sự tương đối tiến bộ được ghi nhận trong Bộ luật Hồng Đức như pháp luật về
thừa kế hay chế độ tài sản của vợ chồng20. Theo đó, Bộ luật này thủ tiêu ln chế
định bình đẳng về tài sản của vợ chồng, gây ra tình trạng khơng có luật áp dụng
khi xảy ra trên thực tế dẫn đến hậu quả là người dân sống ngồi vịng pháp luật.
Bộ luật Gia Long có nhắc đến khái niệm “hôn thư”21 nhưng đây chỉ là văn bản
thỏa thuận của hai gia đình hứa gả con cái cho nhau. Về bản chất, hơn thư hồn
tồn khác với thỏa thuận tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật
ngày nay.
Dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc kéo dài cả ngàn
năm đã làm cho truyền thống, văn hóa và cả pháp luật nước ta chịu nhiều ảnh
hưởng từ Trung Quốc. Tư tưởng gia trưởng tồn tại đa số, trai gái lấy nhau chưa

18

Điều 374, Điều 375, Điều 376 Bộ luật Hồng Đức.
Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2008), Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ
thế kỷ XV đến thời kỳ Pháp thuộc, NXB Chính trị quốc gia, tr.125.
20
Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2008), tlđd (19), tr.15-16.
21
Điều 94 Bộ luật Gia Long quy định: “Người nào đã bằng lịng gả con gái và đã chấp nhận hơn thư
hoặc đã ký kết tư ước, tức là đã biết rõ tình trạng về hơn nhân và gia đình của vị hơn phu (như tuổi, tàn
tật, bệnh nào, dịng giống, con chính thức, con ni…) mà rồi tự mình vơ cớ cự tuyệt sẽ bị phạt 50

trượng. Dù là khơng có khế ước viết nhưng nếu đã nhận lễ vật (sính lễ) thì cũng bị trừng phạt như trên”.
19

14


hẳn đã vì tình yêu mà phần lớn đều là “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” để phục vụ
lợi ích gia đình. Cá nhân sống trong thời kỳ này phải tôn trọng quyền lợi chung
của tập thể, ngay cả việc xây dựng hạnh phúc riêng tư của mình cũng phải thỏa
mãn trước hết quyền lợi của gia tộc, quyền lợi của làng xã. Chỉ khi các quyền lợi
này đã được tính đến rồi, lúc ấy, cá nhân mới có thể quan tâm đến những nhu cầu
riêng tư.
Bên cạnh đó, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” phát triển trong xã hội, phần
nào hạn chế quyền định đoạt tài sản của người vợ trong gia đình. Theo đó, tồn
bộ tài sản mà vợ, chồng tạo dựng được trong thời kỳ hôn nhân kể cả những tài
sản mà vợ, chồng có từ trước khi kết hôn hoặc được tặng cho riêng, được thừa kế
riêng trong thời kỳ hôn nhân đều được xác định thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng. Theo Bộ luật Hồng Đức, với tư cách là người chủ gia đình, người chồng
có quyền quản lý và sử dụng tài sản của gia đình nhưng phải xuất phát vì lợi ích
của gia đình, nếu làm tổn hại đến lợi ích gia đình thì người vợ có quyền phản đối.
Cịn Bộ luật Gia Long thì cho phép người chồng có tồn quyền chuyển nhượng
tài sản của gia đình, kể cả tài sản của người vợ bởi vì pháp luật thời kỳ này đã thủ
tiêu quyền bình đẳng của vợ chồng đối với các tài sản gia đình.
Tóm lại, pháp luật trong thời kỳ này không ghi nhận việc thỏa thuận về chế
độ tài sản của vợ chồng. Mọi vấn đề về tài sản của vợ chồng sẽ do chế độ tài sản
theo luật định điều chỉnh. Vợ chồng phải tuân theo pháp luật và không thể thỏa
thuận hay thực hiện khác đi.
1.3.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận dưới thời Pháp thuộc
Sau khi tiến vào nước ta, với chính sách “chia để trị”, thực dân pháp đã chia
nước ta thành ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, trong đó, Bắc Kỳ và

Trung Kỳ là đất bảo hộ còn Nam Kỳ là đất thuộc địa. Ở các miền khác nhau, thực
dân Pháp ban hành các văn bản khác nhau để điều chỉnh mối quan hệ hôn nhân
gia đình. Cụ thể:
 Ở Bắc Kỳ ban hành Dân luật Bắc Kỳ năm 1931.
 Ở Trung Kỳ ban hành Dân luật Trung Kỳ năm 1936.
 Ở Nam Kỳ ban hành Dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883.

15


Trong ba văn bản pháp luật này thì Dân luật Bắc Kỳ và Dân Luật Trung Kỳ
được xây dựng dựa trên Bộ luật dân sự Pháp năm 1804 và hệ thống phong tục,
tập quán của xã hội phong kiến Việt Nam. Đó là lý do hai văn bản pháp luật này
có quy định về việc lập thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Theo Điều
104 Dân luật Bắc Kỳ: “về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến đoàn thể vợ
chồng là khi nào vợ chồng khơng có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn
là ước riêng ấy không được trái với phong tục và không được trái với quyền lợi
người chồng là người chủ trương trong đoàn thể”. Điều 105 Dân luật Bắc Kỳ
cũng quy định: “phàm tư ước về tài sản giá thú, phải biên chú vào chứng thư giá
thú tại trước mặt “no – te”, hoặc do Lý trưởng thị thực, mà phải làm trước khi
khai giá thú. Đã khai giá thú rồi thì khơng được thay đổi nữa. Hơn ước phải do
người có quyền ưng thuận trong việc giá thú ký nhận cho mới được. Phàm tư ước
về tài sản giá thú phải biện chú vào chứng thư giá thú thì mới có thể đem đối
dụng với người ngồi được. Ai muốn xin trích lục chứng thư giá thú về khoản
biên chú các tư ước ấy, thì sẽ do Hộ lại cấp phát cho”. Bên cạnh đó, Điều 106
Dân luật Bắc Kỳ cũng khẳng định: “nếu hai vợ chồng khơng có tư ước với nhau,
thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là có bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và
của vợ hợp làm một mà chung nhau…”. Ở đây, không sử dụng khái niệm “thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng” mà sử dụng khái niệm “tư ước”. Hai khái niệm
này có sự tương đồng với nhau vì đều là văn bản thỏa thuận các vấn đề về tài sản

của vợ chồng. Tuy nhiên, các quy định trong thời kỳ này chỉ đơn thuần đề cập
đến một loại văn bản thỏa thuận mà không phải là một chế độ tài sản độc lập và
cụ thể như trong pháp luật ngày nay.
Theo các quy định trong Dân luật Bắc Kỳ, một thỏa thuận hợp pháp là thỏa
thuận phải được xác lập trước khi kết hôn, phải biện chú vào chứng thư trước mặt
của công chứng viên hoặc có Lý trưởng thị thực và khơng thể bị thay đổi trong
thời kỳ hôn nhân. Thỏa thuận này cũng phải được công bố cho người thứ ba biết
thông qua việc vợ chồng biện chú vào chứng thư. Nội dung của thỏa thuận cũng
được quy định rất rõ ràng là không được trái với phong tục và không được trái
với quyền lợi người chồng là người chủ trương trong đoàn thể. Chỉ khi vợ chồng
khơng có sự thỏa thuận về tài sản thì mới sử dụng các quy định của pháp luật.
16


Khi đó, tồn bộ tài sản của vợ chồng (bao gồm cả động sản và bất động sản) khi
khai giá thú hay được thừa kế, tặng cho trong giá thú, kể cả lợi tức tài sản đều là
tài sản chung của vợ chồng, phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của gia đình.
Dân luật Trung Kỳ cũng ghi nhận thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, thể
hiện qua việc cho phép vợ chồng được lập ước riêng với nhau. Về bản chất, các
quy định tại Điều 102, Điều 103 của Dân luật Trung Kỳ cũng tương tự với Điều
104, Điều 105 Dân luật Bắc Kỳ, nếu có, cũng chỉ là sự khác nhau về mặt câu
chữ22.
Trong khi đó Dân luật giản yếu Nam Kỳ lại không dự liệu về chế độ tài sản
của vợ chồng, cũng không quy định về chế độ tài sản theo thỏa thuận23. Vì thế
khi giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng phải dựa trên cơ sở của án lệ.
Trước đây, các án lệ của Nam Kỳ cho phép người vợ có tài sản riêng nhưng sau
đó án lệ bị thay đổi theo hướng khơng cơng nhận quyền có tài sản riêng của
người vợ, do đó khơng có cộng đồng tài sản giữa vợ chồng24. Người vợ phải có
đủ tam tịng, tứ đức và bị phụ thuộc vào người chồng về mọi mặt trong gia đình.
Chính vì sự bất bình đẳng trong quyền sở hữu tài sản và sự phụ thuộc của người

phụ nữ vào người đàn ông đã dẫn đến việc khơng thể có chế độ tài sản theo thỏa
thuận trong Dân luật giản yếu Nam Kỳ.
Việc ghi nhận các quy định về thỏa thuận tài sản của vợ chồng trong Dân
luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ không hề xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của
xã hội Việt Nam thời bấy giờ mà được du nhập vào Việt Nam dưới sự ảnh hưởng
22

Điều 102 quy định: “Về đường tài sản của vợ chồng, chỉ khi nào vợ chồng khơng có tùy ý lập ước riêng
với nhau thời pháp luật mới can thiệp đến; lời riêng ấy cốt không trái với phong hóa và khơng trái với
quyền lợi của người chồng, là người chủ trương gia thất”; Điều 103 quy định: “Phàm lời ước riêng của
vợ chồng phải làm bằng giấy trước khi khai, trước việc giá thú, giấy ấy phải do lý trưởng nhận thực,
hoặc làm trước mặt viên quản lý thơ khế. Sau khi đã khai giá thú rồi, thời lời ước riêng ấy không thể thay
đổi điều gì nữa. Phàm hơn khoản của vợ chồng phải có những người có quyền ưng thuận trong việc giá
thú thuận ý. Muốn cho điều khoản trong hôn khoản của vợ chồng đối với người ngồi có giá trị và muốn
cho hơn khoản ấy lâm thời có thể viện ra mà chống cãi với người ngoài, thời trong chứng thư giá thú
phải minh chú rằng việc giá thú này có hơn khoản mà bản sao hơn khoản ấy lại đính theo chứng thư giá
thú mới được. Ai muốn xin trích lục chứng thư giá thú và lời ước riêng ấy, thời hương bộ sẽ cấp phát
cho”.
23
Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2008), tlđd (19) tr. 142 có viết: “Về chế độ tài sản
trong gia đình thì Bộ dân luật giả yếu Nam Kỳ khơng có quy định về hôn sản, di sản và tự sản”.
24
Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hịa (2012), Các chế độ hơn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay,
NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 64 có viết: “Cộng đồng tài sản là động sản của mỗi người
vào thời điểm lập hôn thú, động sản của vợ hay chồng nhận được trong thời kỳ hôn nhân do thừa kế, tặng
dữ, di tặng, động sản và bất động sản do vợ chồng mua sắm trong thời gian hôn nhân; hoa lợi của tất cả
tài sản”.

17



của pháp luật Pháp. Các quy định này rất sơ sài, chỉ được đề cập đến trong một
vài điều luật ngắn gọn, lại khơng có bất kỳ một văn bản hướng dẫn nào. Trong
khi đó, chế độ tài sản theo thỏa thuận trong pháp luật Pháp lại rất phức tạp, được
quy định rõ ràng với gần 200 Điều (từ Điều 1387 đến Điều 1581). Qua đó nhận
thấy, thỏa thuận tài sản của vợ chồng trong thời kỳ này được tiếp thu khơng tồn
diện, lại khơng căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam. Đó là lý do
khiến thỏa thuận tài sản hầu như không được các vợ chồng lựa chọn thực hiện.
1.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận từ tháng 8 - 1945 đến
24/3/1977
 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận từ tháng 8 - 1945 đến
24/3/1977 ở miền Bắc Việt Nam
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước ta ban hành
bản Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Hiến pháp đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt. Theo đó,
Điều 9 quy định: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đó
chính là cơ sở pháp lý để xóa bỏ những hủ tục phong kiến lạc hậu, xây dựng chế
độ hơn nhân gia đình mới dân chủ và tiến bộ.
Năm 1950, nước ta đã ban hành Sắc lệnh điều chỉnh các quan hệ hơn nhân
gia đình là Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế
định trong dân luật (Sắc lệnh số 97-SL), đây cũng là văn bản pháp luật duy nhất
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định về vấn đề tài sản của vợ chồng đến
thời điểm hiện tại. Sắc lệnh này không đề cập đến việc công nhận hay không
công nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận. Tuy nhiên tại Điều 12 có quy định:
“người ta chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình
một cách hợp pháp và khơng thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân” và Điều 14
cũng khẳng định: “tất cả các điều khoản trong Dân pháp điển Bắc Kỳ, Dân pháp
điển Trung Kỳ, Pháp quy giản yếu 1883 (Sắc lệnh ngày 03 tháng 10 năm 1883)
thi hành ở Nam Kỳ, và những luật lệ theo sau, trái với những điều khoản trên này
đều bị bãi bỏ”. Như vậy, nếu vợ chồng có thỏa thuận về tài sản một cách hợp


18


pháp, khơng có sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng25 thì thỏa thuận đó có thể
được cơng nhận và dùng để điều chỉnh quan hệ vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân.
Khi miền Bắc được giải phóng vào năm 1954, Sắc lệnh số 97-SL mặc dù đã
góp phần vào việc xóa bỏ chế độ hơn nhân gia đình phong kiến lạc hậu nhưng
khơng cịn đáp ứng được tình hình phát triển của cách mạng26. Chính vì lẽ đó,
LHNGĐ năm 1959 được ra đời vừa kế thừa nhiệm vụ của Sắc lệnh số 97-SL vừa
xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. LHNGĐ năm 1959
là LHNGĐ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và chỉ được áp dụng
tại miền Bắc vì đất nước đang bị chia cắt thành hai miền. LHNGĐ trong giai
đoạn này chỉ thừa nhận một chế độ tài sản duy nhất đó chính là chế độ tài sản
theo luật định mà không cho phép vợ chồng tự do thỏa thuận về chế độ tài sản
của mình.
Việc khơng thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận thể hiện qua Điều 15
LHNGĐ năm 1959. Điều này quy định: “vợ và chồng đều có quyền sở hữu,
hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”.
Theo đó, mọi tài sản của vợ chồng trước và trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản
chung, dùng để phục vụ cho sinh hoạt gia đình, vợ chồng khơng được phép có
bất kỳ một tài sản riêng nào và cũng khơng được phép lựa chọn hình thức sở hữu
chung hay riêng đối với bất kỳ một tài sản nào. Việc quy định như vậy xuất phát
từ nhận thức của người Việt Nam lúc bấy giờ là gắn gia đình với “trách nhiệm và
bổn phận”. Gia đình bắt nguồn từ hơn nhân, từ quan hệ tình cảm giữa vợ với
chồng, giữa cha mẹ với các con. Trong trật tự đó khơng có chỗ cho cá nhân,
khơng thừa nhận tính ích kỷ của bất kỳ người nào. Thế nhưng, chế độ tài sản theo
thỏa thuận lại đề cao “cái tôi”, mở rộng quyền tự do định đoạt tài sản của cá nhân
và có thể làm ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình. Trong giai đoạn này, đây
được xem là nguyên nhân dẫn đến sự xa cách về mặt tình cảm và mối quan hệ

gia đình bị phá vỡ bởi các yếu tố vật chất.
 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận từ tháng 8 – 1945 đến
24/3/1977 ở miền Nam Việt Nam

25
26

Phù hợp với Điều 5 Sắc lệnh 97-SL “chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình”.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), tlđd (14), tr.69.

19


×