Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế theo quy định của pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

---------

THỜI HIỆU KHỞI KIỆN CHIA THỪA KẾ THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2010 - 2014

GVHD: ThS. NGUYỄN XUÂN QUANG
SVTH: NGUYỄN THỊ BÍCH LY
MSSV: 1055020152

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp, ngồi sự nỗ lực và cố gắng của bản
thân, tác giả đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, ủng hộ từ quý thầy cô và bạn bè.
Đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Nguyễn Xuân
Quang, thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian viết khóa
luận tốt nghiệp.
Cảm ơn quý thầy cô trường Đại học Luật đã giảng dạy, truyền đạt những
kiến thức quý báu trong thời gian tác giả theo học tại trường.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã
động viên, giúp đỡ tác giả rất nhiều trong suốt chặng đường học tập.
Mặc dù bản thân đã cố gắng trong việc học hỏi, nghiên cứu đề tài nhưng
khóa luận khơng thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Do đó, tác giả rất mong


nhận được sự quan tâm, đóng góp từ phía thầy cơ, các bạn sinh viên cũng như
những ai quan tâm đến đề tài này.
Trân trọng cảm ơn!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật dân sự

BLDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTDS

Ủy ban nhân dân

UBND


Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN CHIA THỪA KẾ.... 6
1.1. Khái quát những vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế.....6
1.1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế .......................................................6
1.1.2. Khái niệm thời hiệu khởi kiện..................................................................8
1.1.3. Khái niệm thời hiệu khởi kiện chia thừa kế ............................................9
1.2. Ý nghĩa của quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế ...11
1.3. Sơ lƣợc quy định của pháp luật Việt Nam về thời hiệu khởi kiện chia
thừa kế từ năm 1990 đến nay ..............................................................................12

1.3.1. Giai đoạn từ khi Pháp lệnh thừa kế 1990 có hiệu lực đến trước khi Bộ
luật dân sự 1995 có hiệu lực .............................................................................12
1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực đến nay ..................13
1.4.

Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hiệu khởi

kiện chia thừa kế ..................................................................................................16
1.4.1. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện chia thừa kế .....................16
1.4.2. Những gián đoạn về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế .........................19
1.4.3. Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chia thừa kế .........................................26
1.4.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện chia thừa kế theo Nghị quyết
02/2004/NQ-HĐTP ............................................................................................29
1.4.5. Hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế và hậu quả pháp lý ....................30
1.5. Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế theo quy định của một số nƣớc trên
thế giới ...................................................................................................................31
1.5.1. Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế trong Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp .
.............................................................................................................31
1.5.2. Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế trong Bộ luật dân sự và thương mại
Thái Lan .............................................................................................................33
1.5.3. Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế trong Bộ luật dân sự Nhật Bản ......34

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN CHIA THỪA KẾ .......................... 37
2.1. Thực trạng về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế .....................................37
2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật .......................................................37
2.1.2. Thực trạng trong thực tiễn áp dụng ......................................................44


2.2.


Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện

chia thừa kế ..........................................................................................................59
2.2.1. Giải pháp đối với trường hợp làm gián đoạn thời hiệu khởi kiện chia
thừa kế .............................................................................................................59
2.2.2. Giải pháp về thời hạn của thời hiệu khởi kiện chia thừa kế và giải
quyết hậu quả của di sản hết thời hiệu ............................................................61
2.2.3. Giải pháp về trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện chia thừa
kế theo Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ............................................................64

KẾT LUẬN ............................................................................................... ...66


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền thừa kế tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội
loài người. Ở bất kỳ chế độ xã hội nào, vấn đề thừa kế cũng đóng vai trò
quan trọng trong chế định pháp luật và là một trong những hình thức pháp lý
để bảo vệ quyền con người. Với tính chất là một quyền dân sự cơ bản, quyền
thừa kế đóng vai trị là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng để xác lập
và duy trì quyền sở hữu tư nhân. Chính vì vậy, thừa kế trở thành một vấn đề
gắn liền với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.
Trong bối cảnh phát triển của xã hội ngày nay, với thực trạng xây dựng
nền kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền, vấn thừa kế di sản
nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp với tỷ lệ ngày càng cao, trong đó đa
số là loại tranh chấp yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên,
theo quy định của pháp luật thì Tịa án chỉ thụ lý giải quyết yêu cầu chia thừa
kế khi thời hiệu khởi kiện chia thừa kế cịn. Do đó, địi hỏi các chủ thể phải
có những hiểu biết pháp luật nhất định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án

chia di sản.
Các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế được kế
thừa từ giai đoạn trước đó cho đến nay và ngày càng được hoàn thiện hơn.
BLDS 2005 là kết quả cao của quá trình pháp điển hóa các quy định của
pháp luật về thừa kế, khơng ngừng được hồn thiện để bảo vệ quyền lợi của
những người thừa kế một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, với sự phát triển
mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội nên các quy định của pháp luật về thời
hiệu khởi kiện chia thừa kế vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, các quy định pháp
luật còn khá phức tạp, cách lập pháp trong một số trường hợp cịn chưa thực
sự rõ ràng, gây khó khăn cho các chủ thể khi tìm hiểu pháp luật để bảo vệ
quyền lợi cho chính mình và gây lúng túng trong thực tiễn xét xử; có nhiều
trường hợp Tịa án xét xử nhiều lần nhưng tính thuyết phục vẫn không cao.
Đồng thời, gây những ảnh hưởng lớn đến quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án
chia di sản của các thừa kế.
Vì vậy, vấn đề thời hiệu khởi kiện chia thừa kế cần được nghiên cứu
một cách toàn diện nhằm góp phần làm rõ các quy định của pháp luật, đồng
thời khắc phục những bất cập hiện còn tồn tại trong luật thực định. Cần xác
định rõ thời điểm tính thời hiệu khởi kiện chia thừa kế, thời hiệu khởi kiện là
bao lâu? Khi hết thời hiệu khởi kiện thì các thừa kế còn được quyền khởi
Trang 2


kiện u cầu Tịa án chia di sản khơng? Di sản hết thời hiệu được giải quyết
như thế nào? Làm thế nào để khắc phục những bất cập trong luật thực định?
Từ những phân tích trên, tác giả nhận thấy được tầm quan trọng của
thời hiệu khởi kiện chia thừa kế và mong muốn nghiên cứu một cách tổng thể
về vấn đề này để trang bị thêm kiến thức cho bản thân, cũng như đưa ra một
số giải pháp nhằm góp phần hồn thiện quy định này trong BLDS sửa đổi sắp
tới. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Thời hiệu khởi kiện
chia thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” để làm

khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là một trong những nội dung
quan trọng của chế định thừa kế. Đây là đề tài được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm và tiếp cận với những góc độ khác nhau. Các cơng trình đó bao
gồm:
- Nguyễn Thị Hoài Phương (2007), Thời hiệu khởi kiện vụ việc
dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Báo cáo kết quả nghiên cứu
– Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ;
- Nguyễn Thị Hoài Thương (2011), Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận văn cử nhân,
Trường Đại học Luật TP.HCM;
- Chu Xuân Minh (2003), “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế”,
Tòa án nhân dân, (số 09), tr. 18 – 21, 23;
- Lê Minh Hùng (2005), “Thời hiệu khởi kiện thừa kế-Thực trạng
pháp luật và hướng hoàn thiện”, Khoa học pháp lý, (số 05), tr. 28 – 33;
- Nguyễn Công Lực (2006), “Những vướng mắc về không áp
dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế”, Tòa án nhân dân, (số 19), tr. 14
– 16;
- Phạm Văn Hiểu (2007), “Những bất cập về thời hiệu khởi kiện
về quyền thừa kế trong pháp luật dân sự hiện hành”, Luật học, (số 08),
tr. 19 – 22;
- Nguyễn Minh Hằng (2009), “Yêu cầu chia di sản thừa kế hoặc
chia một phần di sản thừa kế khi đã hết thời hiệu khởi kiện”, Kiểm sát,
(số 15), tr. 29 – 33;
- Trần Quốc Hạnh (01/2014), “Xác định thời hiệu khởi kiện trong
vụ án tranh chấp thừa kế nhà ở mà thời điểm mở thừa kế trước ngày
Trang 3



01/7/1991, có người Vệt Nam định cư ở nước ngồi, các nhân, tổ chức
nước ngồi tham gia”, Tịa án nhân dân, (số 02), tr. 12 – 13… và các
cơng trình nghiên cứu khác;
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề về thời hiệu
khởi kiện chia thừa kế và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện. Đây là tài liệu
rất bổ ích giúp tác giả trong việc hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Việc lựa chọn đề tài là sự kế thừa kinh nghiệm của những bài viết trước,
đồng thời là sự nghiên cứu một cách tổng thể chế định thời hiệu khởi kiện
chia thừa kế bao gồm những quy định của pháp luật và chỉ ra những bất cập,
từ đó đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đây là cơng trình nghiên cứu dưới góc độ khóa luận tốt nghiệp. Vì thế,
đề tài có giá trị tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu đối với bạn
đọc có nhu cầu tìm hiểu về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế. Qua đó, cung
cấp những kiến thức chung nhất đến những kiến thức cơ bản, giúp người đọc
có cái nhìn rõ nét đối với những vấn đề về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế.
Đồng thời, với cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã chỉ những bất cập và từ
đó đưa ra định hướng hồn thiện, hy vọng sẽ đóng góp phần nào cho công
tác lập pháp và thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề thời hiệu khởi kiện
chia thừa kế.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế,
tác giả phân tích cơ sở lý luận, bản chất pháp lý và các nguyên tắc xác định
thời hiệu khởi kiện chia thừa kế; đồng thời chỉ ra những bất cập trong quy
định của pháp luật và khi áp dụng trên thực tế. Từ đó, hướng đến việc đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thời hiệu
khởi kiện chia thừa kế.
5. Phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu
 Khóa luận tập trung làm sáng tỏ những quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế và thực tiễn áp dụng

pháp luật những quy định này. Từ đó, đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp
luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế.
 Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương
pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với chủ nghĩa duy vật biện chứng để
làm sáng tỏ khái niệm, bản chất pháp lý và tiến trình lịch sử của thời hiệu
khởi kiện chia thừa kế. Ngồi ra, khóa luận còn sử dụng kết hợp các phương
Trang 4


pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, liệt kê để làm rõ thực trạng, những vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng và định hướng hoàn thiện pháp luật về thời hiệu
khởi kiện chia thừa kế.
6. Bố cục khóa luận
Bên cạnh mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận
được chia thành ba phần:
 Phần mở đầu
 Phần nội dung gồm hai chương:
- Chương 1: Lý luận chung và những quy định của pháp luật hiện
hành về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế
- Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thời
hiệu khởi kiện chia thừa kế
 Phần kết luận

Trang 5


CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN CHIA THỪA KẾ
1.1. Khái quát những vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế

1.1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế
1.1.1.1. Khái niệm thừa kế
“Thừa” và “kế” đều có nghĩa là tiếp nối, tiếp tục. Do đó, khi nói đến thừa kế
có thể hình dung và hiểu được đó là sự chuyển dịch khối tài sản từ người đã chết
sang người cịn sống1.
Theo nghĩa thơng thường, “thừa kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết
cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật”2. Khi một người
qua đời, khối tài sản của người chết cần có người tiếp tục sở hữu để quản lý và sử
dụng, mà thông thường người được sở hữu phải là những người thân thích hoặc có
quan hệ gắn bó mật thiết với người để lại di sản, đó là những người được người để
lại di sản chọn hoặc theo quy định pháp luật là những người có quan hệ huyết thống
với người để lại di sản.
Thừa kế là việc truyền lại tài sản từ người đã chết cho những người còn sống.
Đây là một hiện tượng xã hội khách quan, xuất hiện ngay từ thời kỳ sơ khai và tồn
tại trong mọi xã hội. Vào thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, con người đã biết để
lại tài sản của mình cho những người còn sống để người còn sống tiếp tục sử dụng
làm phương tiện mưu sinh, nhưng tài sản lúc bấy giờ là tài sản chung của cộng
đồng. Thế nhưng, từ khi Nhà nước và pháp luật ra đời thừa nhận quyền sở hữu tư
nhân, tài sản khơng cịn thuộc sở hữu chung của cộng đồng nữa mà thuộc sở hữu cá
nhân. Việc thừa kế được thực hiện qua hai hình thức:
Thơng qua hình thức di chúc để quyết định những người nào được quyền
hưởng di sản theo ý chí của người để lại di sản.
Thực hiện việc dịch chuyển tài sản theo trình tự, thủ tục nhất định của
pháp luật trong trường hợp khơng có di chúc hoặc di chúc khơng hợp pháp.
Khi một cá nhân chết, quyền sở hữu tài sản có sự dịch chuyển từ người chết
sang người cịn sống, thơng qua việc dịch chuyển tài sản đó đã làm hình thành nên
quan hệ xã hội tương ứng, là quan hệ thừa kế. Quan hệ thừa kế giúp bảo vệ, duy trì
và củng cố quyền sở hữu tư nhân. Ngược lại quyền sở hữu là tiền đề, là yếu tố để
quyết định thừa kế. Di sản người chết để lại được sử dụng như một phương tiện để
1


Nguyễn Xuân Quang - Lê Nết - Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc
gia TP.HCM, tr.235.
2
Từ điển Luật học (1999), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.486.

Trang 6


duy trì và đáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống, do vậy thừa kế cũng là một chế
định mang phạm trù kinh tế.
Từ những nhìn nhận trên, có thể định nghĩa thừa kế như sau: “Thừa kế việc
dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống. Thừa kế luôn gắn
với chủ sở hữu, sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là phương tiện duy
trì, củng cố quan hệ sở hữu”3.
1.1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế
Việc dịch chuyển tài sản từ người đã chết sang những người sống tồn tại từ
khi xã hội loài người xuất hiện. Với việc ra đời sớm từ khi xã hội chưa có sự phân
chia giai cấp, thừa kế phát triển và tồn tại tương thích với sự phát triển của xã hội
loài người. Nếu trước đây, thừa kế trong xã hội thị tộc được dịch chuyển theo phong
tục tập quán thì khi Nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết
sang người sống chịu sự tác động bằng ý chí của Nhà nước, phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị. Việc dịch chuyển tài sản từ người đã chết sang người còn sống
khi được Nhà nước và pháp luật ghi nhận, bảo vệ được gọi là quyền thừa kế. Quyền
thừa kế là một phạm trù pháp lý chỉ tồn tại trong pháp luật, khi xã hội đã có Nhà
nước xuất hiện. Ở mỗi chế độ xã hội khác nhau sẽ có những quy định khác nhau về
quyền thừa kế, thậm chí trong cùng một chế độ xã hội nhưng ở những giai đoạn
khác nhau thì cũng tồn tại những quy định khác nhau. Sự khác nhau đó xuất phát từ
việc chịu sự tác động của chế độ sở hữu trong xã hội, các quy tắc xã hội, phong tục,
tập quán…và đặc biệt là ý chí của giai cấp thống trị. Do đó, bản chất của quyền

thừa kế ln gắn liền với bản chất của mỗi xã hội và trình độ phát triển của mỗi
quốc gia.
Người có quyền thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam là công dân
hay tổ chức. Quyền thừa kế được thể hiện ở hai chủ thể nhất định, đó là chủ thể để
lại tài sản và chủ thể hưởng thừa kế di sản. Những người được thừa kế theo quy
định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, người có hay
khơng có năng lực hành vi hoặc người có năng lực hành vi khơng đầy đủ đều có
quyền thừa kế.
Dưới góc độ là một thuật ngữ pháp lý, quyền thừa kế được hiểu với nhiều
4
nghĩa :
-

Theo nghĩa chủ quan, quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng dân sự

cụ thể. Đó là quyền định đoạt di sản của người để lại di sản theo ý chí thơng qua di
3
4

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Cơng an nhân dân, tr.123.
Lê Đình Nghị (Chủ biên) (2010), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.298.

Trang 7


chúc hoặc theo pháp luật hay là quyền nhận di sản của người được hưởng di sản
hoặc quyền từ chối nhận di sản để lại. Đây là ý chí chủ quan của họ, không ai được
quyền ép buộc nhưng việc thực hiện cũng phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của
pháp luật. Đối với người để lại di sản, họ chỉ được quyền định đoạt những tài sản
nào thuộc quyền sở hữu của mình và việc để lại di sản cũng phải tuân thủ chặt chẽ

những quy định của pháp luật như về hình thức di chúc, về ý chí,… Cịn đối với
người hưởng di sản phải là người được người để lại di sản chỉ định trong di chúc
hoặc theo pháp luật và phải thỏa mãn những điều kiện nhất định như tại thời điểm
mở thừa kế phải cịn sống hoặc khơng thuộc diện khơng được quyền hưởng di
sản,…
Theo nghĩa khách quan, quyền thừa kế được hiểu là chế định pháp lý trong
ngành luật dân sự, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật được Nhà nước thừa
nhận và bảo vệ nhằm điều chỉnh quá trình dịch chuyển tài sản từ người để lại di sản
cho người hưởng di sản. Thông qua các quy phạm pháp luật về quyền thừa kế, Nhà
nước điều chỉnh từ những vấn đề chung nhất đến những vấn đề cụ thể nhằm giải
quyết các quan hệ và các vấn đề về quyền thừa kế.
-

Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế còn được hiểu là một quan hệ pháp luật

dân sự với đầy đủ ba bộ phận cấu thành là chủ thể, khách thể và nội dung. Quan hệ
thừa kế được xác định gồm một bên để lại di sản và một bên nhận di sản. Mỗi bên
đều có những quyền năng nhất định và phải được tơn trọng.
Tóm lại, quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý chỉ tồn tại khi Nhà nước và
pháp luật ra đời, đó là quyền dân sự cơ bản của mỗi người được Nhà nước và pháp
luật bảo vệ, gồm quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản.
Quyền thừa kế có ý nghĩa kinh tế và xã hội sâu sắc, thông qua đó giúp duy trì và
củng cố vững chắc quyền sở hữu tư nhân.
1.1.2. Khái niệm thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện là một chế định nằm trong nội hàm thời hiệu nói chung.
Các quy định về thời hiệu khởi kiện được pháp luật ghi nhận tại các văn bản pháp
luật khác nhau, nhằm buộc các chủ thể phải ý thức và có trách nhiệm trong việc bảo
vệ quyền lợi của mình.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 155 BLDS 2005: “Thời hiệu khởi kiện là
thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân

sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất
quyền khởi kiện”.

Trang 8


Cũng giống như BLDS 2005, quy định tại khoản 1 Điều 159 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011(BLTTDS 2004) đã đưa ra định nghĩa
tương tự: “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu
cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm;
nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”.
Như vậy, thời hiệu khởi kiện được hiểu là khoảng thời gian mà pháp luật quy
định, trong khoảng thời gian đó đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án
dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm, nếu thời hạn
đó kết thúc thì chủ thể mất quyền khởi kiện. Trong nội hàm khái niệm thời hiệu
khởi kiện cho thấy, thời hiệu khởi kiện chỉ đặt ra trong trường hợp khởi kiện tại Tòa
án nhân dân mà không đặt ra đối với trường hợp vụ việc đó được giải quyết tại các
cơ quan, tổ chức khác: “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi
kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự…”. Thời hiệu khởi kiện dài ngắn
bao nhiêu do pháp luật quy định mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các
chủ thể trong quan hệ dân sự. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là khi
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
(khoản 1 Điều 159 BLDS 2005) và thời điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày
cuối cùng của thời hiệu.
Tùy vào từng loại vụ việc và tính chất đặc thù của các quan hệ trong vụ việc
đó mà pháp luật có những quy định khác nhau về thời hiệu khởi kiện, nhưng dù thời
hiệu khởi kiện dài hay ngắn thì về ngun tắc phải đảm bảo tính liên tục. Tuy nhiên,
pháp luật cũng có quy định về những trường hợp cho phép tạm dừng thời hiệu, tức
là thời gian khơng tính vào thời hiệu được quy định tại Điều 161 BLDS 2005 như

trường hợp sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Đối với khoảng thời
gian xảy ra trước khi bắt đầu sự kiện vẫn được tính vào thời hiệu.
Khác với trường hợp thời gian khơng tính vào thời hiệu khởi kiện, thì bắt đầu
lại thời hiệu là những trường hợp nếu xảy ra sự kiện bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
thì thời hiệu khởi kiện được tính lại từ đầu, kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra các
sự kiện đã được pháp luật dự liệu tại khoản 1 Điều 162 BLDS 2005.
Việc quy định thời gian khơng tính vào thời hiệu và bắt đầu lại thời hiệu
nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự trong việc thực thi bảo vệ quyền lợi của
mình - vì những lý do khách quan mà khơng thực hiện việc khởi kiện trong khoảng
thời gian luật định.
1.1.3. Khái niệm thời hiệu khởi kiện chia thừa kế
Trang 9


Thời hiệu khởi kiện về thừa kế là một loại thời hiệu quan trọng nằm trong
quy định của pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 645 BLDS 2005, thời hiệu
khởi kiện về thừa kế gồm thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia di sản, xác
nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác và thời
hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
chết để lại. Trên thực tế, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại ít có bất cập. Thế nhưng, đối với loại thời
hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế lại thường hay có xảy ra bất cập và tranh
chấp. Vì vậy, khóa luận chỉ tập trung khai thác vấn đề thời hiệu khởi kiện chia thừa
kế.
Do phong tục, tập quán và tâm lý trọng tình cảm của người dân Việt Nam
nên thông thường khi một người để lại di sản vừa chết, thì ít có trường hợp các thừa
kế u cầu phân chia di sản hay có tranh chấp về di sản, mà sau một khoảng thời
gian dài mới có tranh chấp xảy ra và khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia di sản. Thế
nhưng, do thời gian dài xảy ra nên di sản có thể khơng cịn ngun trạng như ban
đầu, bị hao mòn, hư hỏng hoặc tăng (giảm) giá trị hay người thừa kế di sản đã chết,

đồng thời việc thu thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp cũng gặp phải những khó
khăn nhất định. Do đó, pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế để giúp
giải quyết tranh chấp thuận lợi hơn, xác định đúng sự thật vụ án, chia đúng kỷ phần
thừa kế và đảm bảo quyền lợi cho các thừa kế5.
Trước đây, thời hiệu khởi kiện chia thừa kế được quy định trong Pháp lệnh
của Hội đồng Nhà nước số 44-LCT/HĐNN8 ngày 10/9/1990 về thừa kế (Pháp lệnh
thừa kế 1990), tại Điều 36 quy định: “Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở
thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản…”. Sau đó, các
quy định của pháp luật dân sự về sau tiếp tục kế thừa quy định trước đó, tại Điều
648 BLDS 1995 quy định: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể
từ thời điểm mở thừa kế” và tại Điều 645 BLDS 2005 quy định: “Thời hiệu khởi
kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản…là mười năm kể từ thời điểm mở thừa
kế”. Như vậy, quy định về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế khá ổn định qua các
năm, đều được quy định là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế cũng là một loại thời hiệu khởi kiện, do đó
cũng là một thời hạn nhất định do pháp luật quy định mà không do ý chí chủ quan
của các chủ thể trong quan hệ thừa kế quyết định. Đồng thời, các quy định về thời
gian khơng tính vào thời hiệu hay bắt đầu lại thời hiệu được áp dụng cho thời hiệu
5

Hoàng Thế Liên (Chủ biên)(2010), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự (tập III), Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.645.

Trang 10


cũng áp dụng cho thời hiệu khởi kiện chia thừa kế. Theo quy định tại Điều
645BLDS 2005 thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở
thừa kế. Nếu quá thời hạn mười năm thì người thừa kế khơng cịn được quyền khởi
kiện để yêu cầu chia di sản, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Do tính chất đặc thù của quan hệ thừa kế là quan hệ để lại di sản của người
chết và nhận di sản của những người còn sống, nên chỉ những người được hưởng di
sản mới được quyền khởi kiện. Việc khởi kiện trong thời hạn do pháp luật quy định
là nhằm đảm bảo quyền lợi cho các thừa kế khi có tranh chấp xảy ra. Nếu khơng
quy định thời hiệu thì việc chia thừa kế sẽ gây khó khăn cho tịa trong cơng tác xét
xử, cũng như cho chính các thừa kế khi u cầu Tịa án bảo vệ quyền thừa kế của
mình.
1.2. Ý nghĩa của quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế
Khi có tranh chấp về thừa kế xảy ra, căn cứ vào việc cịn hay khơng thời hiệu
khởi kiện Tòa án mới quyết định thụ lý, giải quyết vụ án, nếu thời hiệu khởi kiện đã
hết thì Tịa án không thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, nếu cịn thời hiệu khởi kiện thì
Tịa án phải thụ lý và giải quyết vụ án. Việc quy định thời hiệu khởi kiện chia thừa
kế mang nhiều ý nghĩa quan trọng đối với chủ thể trong quan hệ thừa kế, đối với xã
hội - trật tự công cộng và trong công tác quản lý Nhà nước.
Về phương diện chủ thể, việc quy định thời hiệu khởi chia thừa kế yêu cầu
các thừa kế phải hiểu và có trách nhiệm đối với việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của chính mình, cần khởi kiện trong khoảng thời gian pháp luật quy định để đảm
bảo được tính nhanh gọn, chính xác trong giải quyết tranh chấp và đảm bảo được
quyền lợi của các chính các thừa kế. Đồng thời, cũng thể hiện việc tôn trọng quyền
tự định đoạt của các thừa kế trong việc yêu cầu Tòa án chia di sản trong thời gian
sớm nhất để ổn định quan hệ thừa kế, sở hữu. Nếu các thừa kế không thực hiện
quyền khởi kiện của mình trong khoảng thời gian luật định, mặc dù khơng có bất kỳ
trở ngại nào cản trở việc thực hiện quyền này, thì có thể suy đốn rằng họ từ bỏ
quyền của mình. Khi thời hiệu khởi kiện đã chấm dứt, mặc dù các thừa kế có khởi
kiện thì Tịa án cũng khơng thụ lý chia di sản.
Về phương diện xã hội - trật tự công cộng, việc quy định thời hiệu khởi kiện
chia thừa kế nhằm ổn định các quan hệ thừa kế, tránh tình trạng tranh chấp kép dài
mà không đến hồi kết. Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, một mặt Nhà
nước cần thiết phải có cơ chế bảo vệ trong trường hợp quyền lợi hợp pháp của các
thừa kế bị xâm phạm, mặt khác các thừa kế cũng có nghĩa vụ phải tôn trọng sự phát

triển ổn định của các quan hệ dân sự, mà ở đây là quan hệ thừa kế trong xã hội.
Trang 11


Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp chia thừa kế chỉ áp dụng trong một khoảng
thời gian nhất định chứ không thể là mãi mãi, cụ thể được quy định tại Điều 645
BLDS 2005 là thời hiệu mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu không quy
định thời hiệu khởi kiện, mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ thừa kế sẽ bị đe dọa bởi
tính tranh chấp kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi và đời sống của các chủ thể trong
quan hệ.
Về phương diện quản lý Nhà nước, mà đặc biệt là về mặt tố tụng, việc quy
định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp được
nhanh chóng, đảm bảo thực hiện tốt công tác xét xử, thông qua việc thu thập chứng
cứ, chứng minh dễ dàng hơn. Bởi lẽ mọi thứ đều có thể thay đổi theo thời gian, thời
gian càng lâu việc thu thập chứng cứ để chứng minh càng khó khăn và phức tạp,
thậm chí khơng thể xác minh được, gây khó khăn trong hoạt động xét xử của Tịa
án. Do đó, quy định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế để đảm bảo cho công tác quản
lý tốt hơn và việc giải quyết tranh chấp cũng được nhanh gọn, chính xác.
1.3. Sơ lƣợc quy định của pháp luật Việt Nam về thời hiệu khởi kiện chia thừa
kế từ năm 1990 đến nay
1.3.1. Giai đoạn từ khi Pháp lệnh thừa kế 1990 có hiệu lực đến trước khi Bộ luật
dân sự 1995 có hiệu lực
Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế được quy định tại khoản 1 Điều 36 Pháp
lệnh thừa kế 1990: “Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người
thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản…”. Theo đó, các thừa kế chỉ có
quyền khởi kiện tại Tòa án trong thời gian do pháp luật quy định là mười năm, kể từ
thời điểm mở thừa kế. Trong thời gian mười năm đó, nếu có tranh chấp xảy ra thì
các thừa kế có quyền khởi kiện, nhưng khi q thời hạn mười năm thì khơng được
quyền khởi kiện nữa.
Cùng với việc quy định về thời hạn của thời hiệu khởi kiện chia thừa kế,

Pháp lệnh thừa kế 1990 cũng dự liệu trường hợp thời gian không tính vào thời hiệu:
“Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được quyền
khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì thời gian bị trở
ngại khách quan khơng tính vào thời hiệu khởi kiện” (khoản 3 Điều 36 Pháp lệnh
thừa kế 1990). Đây được xem là những tiến bộ trong công tác lập pháp, đảm bảo
cho người thừa kế phải ý thức được việc khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình,
nhưng nếu gặp những trường hợp trở ngại khách quan, khơng thể lường trước được
thì thời gian đó khơng tính vào thời hiệu khởi kiện, do đó thời hiệu khởi kiện chia
thừa kế sẽ được kéo dài hơn.
Trang 12


Đồng thời, Pháp lệnh thừa kế 1990 cũng đã quy định đối các trường hợp mà
thời điểm mở thừa kế trước ngày ban hành Pháp lệnh (30/8/1990) thì thời hiệu khởi
kiện được tính từ ngày cơng bố Pháp lệnh (10/9/1990)6. Như vậy, đối với trường
hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 30/8/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế
vẫn là mười năm, nhưng thời điểm để tính thời hiệu không phải thời điểm mở thừa
kế mà là ngày công bố Pháp lệnh thừa kế, tức là ngày 10/9/1990. Trường hợp thừa
kế được mở từ khi có Pháp lệnh thừa kế thì ngày bắt đầu thời hiệu khởi kiện là “thời
điểm mở thừa kế”. Việc quy định này nhằm mục đích giải quyết những tranh chấp
đã xảy ra trước đó nhanh chóng hơn mà vẫn đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
Tại điểm D mục 10 Nghị quyết 02/1990/NQ-HĐT của HĐTPANDTC ngày
19 tháng 10 năm 1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế
(NQ 02/1990) quy định: “Đối với người thừa kế là người chưa thành niên vào thời
điểm mở thừa kế thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế được tính từ ngày họ đủ 18 tuổi”.
Quy định này nhằm hướng đến việc bảo vệ quyền lợi của những người chưa thành
niên vào thời điểm mở thừa kế. Bởi lẽ người chưa thành niên là người khơng hoặc
có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ. Đây là lứa tuổi mới lớn, người chưa thành
niên nhận thức vấn đề chưa toàn diện và sâu sắc, khơng có đủ năng lực chủ thể để
tự mình định đoạt quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong khi quyền khởi kiện

yêu cầu chia di sản thừa kế là một quyền quan trọng liên quan tới tài sản thuộc sở
hữu của cá nhân, với đặc điểm là người thừa kế mới được quyền khởi kiện. Do đó,
tại NQ 02/1990 mới quy định thời hiệu khởi kiện bắt đầu từ khi người chưa thành
niên đủ 18 tuổi. Khi đó, người chưa thành niên đã trưởng thành, có cuộc sống kinh
tế độc lập, nhận thức vấn đề tồn diện hơn, có quyền được tự mình khởi kiện để bảo
vệ quyền lợi của chính mình mà khơng phải thông qua người đại diện.
Giai đoạn từ khi Pháp lệnh thừa kế 1990 có hiệu lực đến trước khi BLDS
1995 được ban hành tồn tại hai văn bản chủ yếu điều chỉnh về vần đề này là Pháp
lệnh thừa kế 1990 và NQ 02/1990. Qua đó, làm rõ thời hiệu mà các chủ thể được
quyền khởi kiện, giải quyết được những khó khăn và vướng mắc tồn tại trước đó.
1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực đến nay
BLDS 1995 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1996, kế thừa quy định về
thời hiệu khởi kiện chia thừa kế trước đó được quy định trong Pháp lệnh thừa kế
1990: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa
kế”7. Không quy định rõ ràng là thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu Tòa
6
7

Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990.
Điều 648 BLDS 1995.

Trang 13


án chia di sản thừa kế là mười năm, nhưng có thể hiểu thời hiệu khởi kiện về quyền
thừa kế mười năm được quy định tại Điều 648 BLDS 1995 bao gồm cả thời hiệu
khởi kiện chia thừa kế. Bởi lẽ, quyền thừa kế là bao gồm: quyền yêu cầu xác quyền
thừa kế của mình, bác bỏ quyền thừa kế của người khác và yêu cầu chia di sản thừa
kế.
Quy định thời hiệu mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế đối với thời hiệu

khởi kiện chia thừa kế tiếp tục được quy định trong BLDS 20058 và được sử dụng
cho đến ngày nay. Trong BLDS 2005 cũng đã có những quy định rõ ràng và đi xa
hơn so với BLDS 1995 về thời hiệu khởi kiện, cụ thể là quy định khoảng thời gian
khơng tính vào thời hiệu tại Điều 161 BLDS 2005, hạn chế phân chia di sản khi
việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người vợ hoặc chồng còn
sống tại Điều 686 BLDS 2005.
Trong các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS 1995 và BLDS 2005 cịn có
những quy định về trường hợp đặc biệt: thời gian khơng tính vào thời hiệu hay
trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Trước hết là Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 24 tháng 8 năm
1998 về giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 (NQ
58/1998) và sau đó đến năm 1999 Thơng tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTCVKSNHTC ngày 25 tháng 01 năm 1999 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội (TTLT 01/1999) được ra đời để hướng dẫn chi tiết NQ
58/1998. Trong Nghị quyết và Thông tư quy định đối với các giao dịch dân sự về
nhà ở xác lập trước ngày 01/7/1991 mà chưa khởi kiện tại Tịa án, thì khoảng thời
gian từ 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 khơng tính vào thời hiệu khởi kiện9. Như
vậy, đối với di sản là nhà ở mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 thì áp
dụng quy định tại Nghị quyết và Thông tư trên, tức là thời gian từ 01/7/1996 đến
01/01/1999 khơng tính vào thời hiệu khởi kiện chia thừa kế. Các thừa kế sẽ có
khoảng thời gian là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế cộng với hai năm sáu
tháng để yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế, nhưng khoảng thời gian khơng tính vào
thời hiệu này chỉ được áp dụng đối với thừa kế là nhà ở, không được áp dụng đối
với các loại di sản khác.
Tiếp tục kế thừa và làm rõ hơn quy định về thời gian khơng tính vào thời
hiệu khởi kiện chia thừa kế, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của HĐTPTANDTC
ngày 10 tháng 8 năm 2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các
8
9


Điều 645 BLDS 2005.
Khoản 2 Điều 17 NQ 58/1998 và khoản 1 mục IV TTLT 01/1999.

Trang 14


vụ án dân sự, hơn nhân và gia đình (NQ 02/2004) được ban hành quy định: “Khi
xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước
01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ 01/7/1996 đến 01/01/1999 khơng tính
vào thời hiệu khởi kiện”10. Đồng thời, NQ 02/2004 cịn có quy định về trường hợp
không áp dụng thời hiệu khởi kiện chia thừa kế, mà trước đó chưa có văn bản nào
quy định về vấn đề này: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở
thừa kế mà các đồng thừa kế khơng có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản
cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các
đồng thừa kế khơng có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do
người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa
kế. Khi có tranh chấp và u cầu Tồ án giải quyết thì khơng áp dụng thời hiệu khởi
kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung
để giải quyết”11. Khi thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đã hết, đương sự khơng cịn
được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, vậy di sản thừa kế giải quyết như
thế nào? Do đó, NQ 02/2004 được ban hành quy định trường hợp không áp dụng
thời hiệu khởi kiện để giải quyết bất cập trên. Trong phần này tác giả chỉ nêu khái
quát, khi đến phần nội dung sau sẽ nói rõ về vấn đề này.
Những bất cập về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế dần dần được giải quyết
sau khi hàng loạt những văn bản pháp luật được ra đời quy định ngày càng rõ về
vấn đề này. Tuy nhiên, đối với trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài
pháp luật quy định còn bất cập. Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27
tháng 7 năm 2006 về giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm
1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài (NQ 1037/2006) được ra đời để giải
quyết bất cập đó. Việc NQ 1037/2004 được ban hành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng

đối với những thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi phát sinh tranh
chấp, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm. Bởi vì, trước đây họ là những
chủ thể chưa được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết do NQ 58/1998 quy
định12, đến nay họ đã có quyền u cầu Tịa án bảo vệ quyền lợi cho mình. Những
quy định của NQ 1037/2006 là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết về vấn đề
thừa kế nhà ở đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà thời điểm mở thừa
kế trước 01/7/1991. Tại khoản 2 Điều 39 NQ 1037/2006 quy định: “Thời gian từ
ngày 01 tháng 7 năm 1996 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực khơng tính vào thời
hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về nhà ở
10

Đoạn 2 khoản A tiểu mục 2.2 phần 2 mục I NQ 02/2004/ NQ – HĐTP.
Khoản A tiểu mục 2.4 phần 2 mục I NQ 02/2004.
12
Khoản 2 Điều 2 NQ 58/1998 quy định: “Nghị quyết này không áp dụng đối với giao dịch được xác lập
trước ngày 01/7/1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngồi, cá nhân tổ chức nước ngoài tham gia”.
11

Trang 15


được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước
ngồi tham gia”, Nghị quyết này có hiệu lực 01/9/2006. Như vậy, khoảng thời gian
từ 01/7/1996 đến 01/9/2006 là khoảng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện
chia thừa kế đối với di sản là nhà ở mà thời điểm mở thừa kế trước 01/7/1991 có
người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.
Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế được pháp luật quy định khá ổn định về mặt
thời gian. Từ khi Pháp lệnh thừa kế ra đời cho đến các BLDS sau này đều quy định
thời hiệu khởi kiện là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Qua các năm, những
quy định về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế ngày càng được hoàn thiện, các lỗ

hổng pháp luật trước đó dần dần được khắc phục bằng việc ban hành những văn bản
pháp luật mới.
1.4. Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hiệu khởi kiện
chia thừa kế
1.4.1. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện chia thừa kế
Trong quy định pháp luật về thừa kế, thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện
đóng vai trị rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của những người thừa kế.
Khi xác định được thời điểm tính thời hiệu khởi kiện chia thừa kế, người thừa kế có
quyền khởi kiện u cầu Tịa án chia di sản để được hưởng kỷ phần thừa kế của
mình.
Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện chia thừa kế từ khi Pháp lệnh thừa
kế 1990 ra đời cho đến nay được xác định là thời điểm mở thừa kế. Tại khoản 1
Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990, Điều 648 BLDS 1995, Điều 645 BLDS 2005 đều
quy định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là “thời điểm mở thừa kế”. Tại khoản 1
Điều 633 BLDS 2005 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài
sản chết”. Người có tài sản chết có thể là chết về mặt sinh học hoặc chết về mặt
pháp lý, tùy vào từng trường hợp mà xác định thời điểm mở thừa kế khác nhau.
Thông thường, thời điểm được ghi trên giấy khai tử của người đã chết được xác
định là thời điểm mở thừa kế.
Ví dụ, theo Quyết định số 623/2008/DS-PT ngày 17/6/2008 của Tòa án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh: Ơng Qch Đường chết năm 1964 theo giấy chứng tử
số 1036 ngày 09/7/1964 của Ủy ban nhân dân quận 2, Sài Gòn (bút lục số 32a), và
bà Trần Thị Lành chết năm 1997 theo giấy chứng tử số 08 ngày 25/4/1997 của Ủy
ban nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, thời điểm mở thừa kế đối
với tài sản là căn nhà số 258/17/2A Nguyễn Cơng Trứ, phường Nguyễn Thái Bình,

Trang 16


quận 1 do ông Đường và bà Lành chết không để lại di chúc là ngày 25/4/1997 (ngày

bà Lành chết)13.
Tuy nhiên, nếu có nghi ngờ về ngày nêu trong giấy chứng tử, Tòa án thường
căn cứ vào các yếu tố khác thực tế hơn. Trường hợp đã biệt tích một khoảng thời
gian, sau đó mới có u cầu Tịa án tuyên bố là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là
ngày được xác định trong quyết định của Tòa án. Nếu khơng xác định được ngày
chết, thì ngày mà quyết định của Tịa án tun bố người nào đó chết có hiệu lực
pháp luật được coi là ngày người đó chết.
Khơng phải mọi trường hợp thời điểm mở thừa kế đều là mốc đề tính thời
hiệu khởi kiện. Đối với các tranh chấp về thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước
ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế 1990, thì thời điểm tính thời hiệu khởi kiện chia
thừa kế là ngày công bố pháp lệnh14. Pháp lệnh thừa kế được ban hành ngày
30/8/1990 và được công bố vào ngày 10/9/1990. Như vậy, đối với các tranh chấp về
thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 30/8/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia
thừa kế là mười năm, nhưng thời điểm tính thời hiệu khởi kiện khơng phải thời
điểm mở thừa kế mà được tính từ ngày cơng bố Pháp lệnh thừa kế 1990, tức ngày
10/9/1990.
Ví dụ, theo Bản án số 1531/2005/DSPT ngày 20/7/2005 của Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh: “Căn cứ vào Điều 636, 639, 648 của Bộ luật dân sự 1995,
Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại điểm 10 tiết a Nghị quyết
02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thời
điểm mở thừa kế trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện tính từ ngày này đến
ngày 10/9/2000. Ơng Tăng Tu chết ngày 03/8/1985. Như vậy, thời điểm mở thừa kế
trước ngày 10/9/199015.
Thời điểm mở thừa kế không phải trong mọi trường hợp đều là thời điểm bắt
đầu tính thời hiệu khởi kiện, nhưng là căn cứ quan trọng để xác định đúng thời điểm
bắt đầu thời hiệu.
Đối với các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất mà trên đất khơng có
nhà ở hoặc tài sản, thì thời điểm tính thời hiệu khởi kiện chia thừa kế được tính như
sau:
Đối với đất là di sản thừa kế mà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất theo Luật đất đai 1987 và thời điểm mở thừa kế trước ngày 30/8/1990 thì khơng
13

Đỗ Văn Đại (2009), Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.603.
14
Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990.
15
Đỗ Văn Đại (2013), Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.572.

Trang 17


lấy ngày 10/9/1990 làm thời điểm tính thời hiệu khởi kiện mà lấy ngày 15/10/1993
làm mốc để tính thời hiệu khởi kiện. Bởi lẽ, Luật đất đai 1987 và Pháp lệnh thừa kế
1990 chưa thừa nhận quyền sử dụng đất là di sản, mãi đến Luật đất đai 1993 (có
hiệu lực 15/10/1993) mới thừa nhận quyền sử dụng đất là di sản: “Hộ gia đình, cá
nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa
kế, thế chấp quyền sử dụng đất”16. Tuy nhiên, đến năm 1997 Thông tư liên tịch số
02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 28 tháng 7 năm 1997 hướng
dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền
sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật đất đai 1993 có hiệu lực thi
hành ngày 15/8/1997 lại hướng dẫn rằng: Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp đối với
đất có giấy chứng nhận theo Luật đất đai 1993 nên trong thực tế, các tranh chấp về
thừa kế đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai 1987 bị Tòa
án từ chối giải quyết. Sau đó, Thơng tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTCVKSNDTC-TCĐC ngày 03 tháng 01 năm 2002 hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa
án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất
được ban hành có hiệu lực từ ngày 18/01/2002 mới có hướng dẫn: Tịa án giải quyết
các tranh chấp đối với đất được cấp giấy chứng nhận theo Luật đất đai 1987. Như

vậy, khoảng thời gian từ ngày 15/8/1997 đến ngày 18/01/2002 là bốn năm bốn
tháng ba ngày là khoảng thời gian Tòa án khơng có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đối với đất có giấy chứng nhận theo Luật đất đai 1987.
Đối với đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai
1993 thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là thời điểm mở thừa kế.
Đối với đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai
2003 thì chia ra hai trường hợp: Nếu thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/2004
(ngày Luật đất đai 2003 có hiệu lực thi hành) nhưng ngày được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sau ngày 01/7/2004 thì thời điểm bắt đầu thời hiệu là ngày
được cấp giấy chứng nhận. Vì đất chưa được cấp giấy chứng nhận thì Tịa án khơng
có thẩm quyền giải quyết. Nếu thời điểm mở thừa kế và thời điểm được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đều sau 01/7/2004 thì sự kiện nào xảy ra sau sẽ lấy
ngày đó để xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu17.
- Đối với đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai
2013, thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là thời điểm mở
thừa kế.
16

Khoản 2 Điều 3 Luật đất đai 1987.
Nguyễn Thị Hoài Phương (2007), Thời hiệu khởi kiện vụ việc dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Báo cáo kết quả nghiên cứu – Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, tr.40 - 41.
17

Trang 18


- Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với quyền sử dụng đất mà trên đất có
nhà hay tài sản khác, thì việc tính thời điểm bắt đầu thời hiệu chia thừa kế đối với
quyền sử dụng đất được xác định như những phân tích trên, cịn đối với việc xác
định thời điểm tính thời hiệu khởi kiện đối với tài sản trên đất thì tùy vào từng loại

tài sản mà sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu phù hợp với tài sản
đó.
Thời điểm tính thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là vấn đề khá phức tạp.
Không phải trong mọi trường hợp đều có thể xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu
dễ dàng và chính xác được. Tùy vào từng loại di sản và thời điểm mở thừa kế mà
xác định chính xác thời điểm bắt đầu thời tính thời hiệu. Đặc biệt, đối với di sản là
quyền sử dụng đất thì vấn đề xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu lại càng phức tạp
hơn. Vì vậy, cần nhận thức đúng đắn các quy định của pháp luật để giải quyết đúng
đắn, phù hợp tinh thần pháp luật.
1.4.2. Những gián đoạn về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế
Về nguyên tắc, thời hiệu khởi kiện chia thừa kế phải đảm bảo tính liên tục.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, thời hiệu khởi kiện bị gián đoạn. Các
sự kiện làm gián đoạn thời hiệu khởi kiện được chia ra thành hai loại, bao gồm thời
gian khơng tính vào thời hiệu khởi kiện và hạn chế phân chia di sản.
1.4.2.1. Thời gian khơng tính vào thời hiệu khởi kiện chia thừa kế

BLDS 2005 quy định khoảng thời gian khơng tính vào thời hiệu khởi kiện
tại Điều 161 gồm các sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan và người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự có quyền khởi kiện mà chưa có người đại diện hoặc chưa có người đại
diện thay thế. Đây là các sự kiện mà khi phát sinh thì thời hiệu khởi kiện khơng
được tính trong khoảng thời gian xảy ra các sự kiện đó, khoảng thời gian trước khi
sự kiện xảy ra vẫn được tính vào thời hiệu.
“Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể
lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp
cần thiết và khả năng cho phép”18, đây là quy định nhằm đảm bảo cho các thừa kế
có khoảng thời gian hợp lý để thực hiện quyền khởi kiện của mình. Theo quy định
tại khoản 1 Điều 161 BLDS 2005 thì sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện khách
quan mà các thừa kế không thể nào lường trước được, mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết trong khả năng cho phép vẫn không thể khắc phục được hậu quả. Ví

dụ như bão, lụt, hạn hán,… Khi sự kiện bất khả kháng xảy ra trong khoảng thời gian
18

Khoản 1 Điều 161 BLDS 2005.

Trang 19


các chủ thể có quyền khởi kiện chia thừa kế (mười năm), là đã xâm phạm đến quyền
khởi kiện khiến các thừa kế không thể đảm bảo thực hiện quyền khởi kiện của mình
trong khoảng thời gian luật định. Do đó khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra, các
thừa kế phải chứng minh các điều kiện để xem là sự kiện bất khả kháng đã xảy ra,
thì khoảng thời gian tồn tại sự kiện đó sẽ khơng tính vào thời hiệu khởi kiện.
“Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động
làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự khơng thể biết về việc quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ
dân sự của mình”19, trở ngại khách quan cũng là những sự kiện khách quan xảy ra,
nhưng khác với sự kiện bất khả kháng thì khi trở ngại khách quan xảy ra các thừa kế
không thể biết được quyền lợi ích của mình bị xâm phạm. Nhưng sau khi trở ngại
khách quan xảy ra, các chủ thể mới biết được sự kiện đã xảy ra trước đó đã xâm
phạm đến quyền lợi của mình. Khi muốn xác định khoảng thời gian khơng tính vào
thời hiệu, các chủ thể phải chứng minh trở ngại khách quan đã xảy ra trong khoảng
thời gian mười năm, và chính vì trở ngại khách quan đó nên khơng thể khởi kiện
trong thời hạn của thời hiệu. Vì vậy, thời hiệu khởi kiện sẽ được kéo dài hơn so với
quy định.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự và người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự là những người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy
đủ, khơng có năng lực hay hạn chế năng lực hành vi dân sự, thiếu nhận thức và lý
trí, khơng có cuộc sống kinh tế độc lập, khơng có đủ năng lực chủ thể để tự mình
định đoạt quyền và lợi ích hợp pháp của mình và phải lệ thuộc vào người đại diện

nên rất khó có thể tự mình khởi kiện chia thừa kế20. Do đó, pháp luật quy định họ có
quyền khởi kiện thông qua người đại diện để đảm bảo quyền lợi cho họ. Trong
trường hợp chưa có người đại diện hoặc đã có người đại diện nhưng vì lý do nào đó
mà khơng thể tiếp tục đại diện cho họ nữa, thì khoảng thời gian đó khơng được tính
vào thời hiệu khởi kiện chia thừa kế. Bởi vì, khi khơng có người đại diện thì họ
khơng thể tự mình thực hiện việc khởi kiện được, nếu vẫn tính khoảng thời gian
khơng có người đại diện vào thời hiệu khởi kiện thì sẽ xâm phạm đến trước hết là
quyền khởi kiện và sau đó là quyền thừa kế của những người đó.
Điều 161 BLDS 2005 đã dự liệu những trường hợp thời gian khơng tính vào
thời hiệu mà khi một trong các sự kiện đó xảy ra, dù khoảng thời gian xảy ra dài

19

Khoản 1 Điều 161 BLDS 2005.
Lê Minh Hùng (2005), “Thời hiệu khởi kiện thừa kế - Thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện”, Khoa
học pháp lý, (số 05), tr.48.
20

Trang 20


hay ngắn, một năm hay thậm chí là năm năm, chỉ cần các thừa kế chứng minh sự
kiện đã xảy ra thì khoảng thời gian đó sẽ khơng tính vào thời hiệu khởi kiện.

Thời gian khơng tính vào thời hiệu khởi kiện chia thừa kế theo Nghị quyết
58/1998/NQ-UBTVQH10 và Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
Tại khoản 2 Điều 17 NQ 58/1998 quy định: “Thời gian từ ngày 1 tháng 7
năm 1996 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực khơng tính vào thời hiệu trong thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập
trước ngày 1 tháng 7 năm 1991”, NQ 58/1998 có hiệu lực vào ngày 01/01/1999.

Sau đó, đến năm 2004 NQ 02/2004 được ban hành quy định tại đoạn 2 điểm A tiểu
mục 2.2 mục 2 phần I:“Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời
điểm mở thừa kế trước ngày 1/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày
1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 khơng tính vào thời hiệu khởi kiện”. Như vậy, cả NQ
58/1998 và NQ 02/2004 đều quy định đối với các tranh chấp về thừa kế là nhà ở mà
thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 thì khoảng thời gian từ 01/7/1996 đến
01/01/1999 (hai năm sáu tháng) khơng tính vào thời hiệu khởi kiện. Khoảng thời
gian từ 01/7/1996 đến 01/01/1999 khơng tính vào thời hiệu khởi kiện chia thừa kế
chỉ áp dụng đối với di sản thừa kế là nhà ở thuộc sở hữu tư nhân, mà thời điểm mở
thừa kế trước 01/7/1991. Đối với các di sản là loại tài sản khác thì thời hiệu khởi
kiện vẫn tính liên tục, khơng trừ khoảng thời gian khơng tính vào thời hiệu quy định
tại NQ 58/1998 và NQ 02/200421.
Thế nhưng đối với trường hợp này, việc tính thời hiệu cũng khá phức tạp, có
hai cách tính thời hiệu như sau22:
Trường hợp thứ nhất, đối với các tranh chấp về thừa kế là nhà ở mà thời
điểm mở thừa kế xảy ra trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện là mười năm
tính từ ngày 10/9/1990, cộng thêm khoảng thời gian khơng tính vào thời hiệu khởi
kiện tại NQ 58/1998 và NQ 02/2004 là hai năm sáu tháng. Như vậy, thời hiệu khởi
kiện chia thừa kế sẽ kết thúc vào ngày 10/3/2003.
Trường hợp thứ hai, đối với các tranh chấp về thừa kế về nhà ở mà thời điểm
mở thừa kế xảy ra sau ngày 10/9/1990 nhưng trước ngày 01/7/1991 thì thời hiệu
khởi kiện vẫn được kéo dài thêm hai năm sáu tháng (01/7/1996 đến 01/01/1999),
nhưng khác với trường hợp thứ nhất ở chỗ, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện là
thời điểm mở thừa kế. Ví dụ, tranh chấp về thừa kế nhà ở có thời điểm mở thừa kế
xảy ra vào ngày 20/3/1991 thì thời hiệu khởi kiện kết thúc vào ngày 20/9/2003.
21

Chu Xuân Minh (2003), “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế”, Tòa án nhân dân, (số 09), tr.19.
Lê Minh Hùng (2005), “Thời hiệu khởi kiện thừa kế - Thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện”, Khoa
học pháp lý, (số 05), tr.41.

22

Trang 21


×