Hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành
Nguyễn Danh Sơn
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Dân sự; Mã số: 60 38 30
Người hướng dẫn: TS. Trần Lê Hồng
Năm bảo vệ: 2008
Abstract: Nghiên cứu các khái niệm, quan điểm khoa học về công nghệ, chuyển giao
công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ để xác định các đặc trưng của hợp đồng
chuyển giao cơng nghệ; nghiên cứu, tìm hiểu về các quy định pháp luật điều chỉnh hợp
đồng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam bao gồm: nghiên cứu thực trạng các quy định
pháp luật Việt Nam về hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng như thực tiễn áp dụng, từ
đó chỉ ra những tồn tại trong các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng chuyển giao
công nghệ; đề xuất kiến nghị, phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thành các quy
định pháp luật đáp ứng nhu cầu thực tiễn
Keywords: Chuyển giao công nghệ; Hợp đồng chuyển giao công nghệ; Pháp luật Việt
Nam; Quy định pháp luật
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập, việc Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội kinh doanh thuận lợi và tăng khả năng
thâm nhập thị trường các nước thành viên cho các doanh nghiệp của Việt Nam, là chìa khóa để
đưa nền kinh tế Việt Nam tiếp tục hội nhập với kinh tế quốc tế. Trong hơn một năm kể từ ngày
Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO vào ngày 28/11/2006 và sự kiện Hạ
viện Hoa Kỳ phê chuẩn quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam vào
ngày 09/12/2006, Việt Nam đã đón nhận rất nhiều dịng đầu tư nước ngồi mới vào Việt Nam,
đồng thời chứng kiến sự tăng trưởng và phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp, tập đoàn kinh
tế trong nước. Cùng với sự phát triển nhanh chóng cả về đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài,
các hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam cũng diễn ra mạnh mẽ cả về quy mô và số
lượng.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ sẽ là yếu tố quyết định sự
phát triển của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ý thức và hiểu rõ được tầm quan trọng của
công nghệ và chuyển giao công nghệ đối với sự phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã và đang luôn dành sự quan tâm đặc biệt trong lĩnh vực này, ngay từ những ngày đầu thực hiện
chính sách mở cửa. Việc xây dựng một hệ thống các quy định pháp luật hoàn chỉnh điều chỉnh
tổng thể hoạt động chuyển giao cơng nghệ, trong đó đặc biệt là các vấn đề liên quan đến hợp
đồng chuyển giao công nghệ là một nhu cầu tất yếu. Thông qua cơ chế pháp luật, việc kiểm soát
và điều tiết các hoạt động chuyển giao cơng nghệ có thể được thực hiện có hiệu quả, góp phần
vào việc chọn lọc được các cơng nghệ tiến bộ có giá trị từ nước ngồi, hạn chế tình trạng chảy
máu ngoại tệ do những công nghệ lạc hậu và đồng thời khuyến khích các hoạt động chuyển giao
cơng nghệ trong nước và từ Việt Nam ra nước ngoài.
Ở Việt Nam, nếu tính từ Quyết định số 175-CP ngày 29/04/1981 về ký kết và thực hiện
hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật, đã có rất nhiều các văn bản
pháp quy được ban hành điều chỉnh các vấn đề về chuyển giao công nghệ, đặc biệt là về hợp
đồng chuyển giao công nghệ, ví dụ, Pháp lệnh Chuyển giao cơng nghệ nước ngồi vào Việt Nam
ngày 05/12/1981, Bộ luật Dân sự 1995, Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/1998, Nghị định
11/2005/NĐ-CP ngày 2/02/2005 v.v..., bước đầu đã tạo ra được môi trường pháp lý thuận lợi cho
sự phát triển của hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và q trình đàm phán, ký kết và
thực hiện hợp đồng chuyển giao cơng nghệ nói riêng. Các văn bản pháp luật này, bên cạnh việc
quy định điều chỉnh các vấn đề có tính ngun tắc về chuyển giao công nghệ, đều luôn dành
những điều khoản điều chỉnh các vấn đề liên quan hợp đồng chuyển giao công nghệ như nội
dung hợp đồng chuyển giao công nghệ, các vấn đề liên quan đến đăng ký đến đăng ký, phê
chuẩn hợp đồng chuyển giao công nghệ v.v..., tạo cơ sở pháp lý bảo đảm các quyền và lợi ích
của các bên có liên quan trong giao dịch. Tuy nhiên, do thực tiễn và yêu cầu vào thời điểm ban
hành các văn bản pháp quy nói trên đã có nhiều thay đổi và khơng cịn phù hợp với hiện tại. Kế
thừa và khắc phục các thiếu sót của các quy định pháp luật trước đó, Luật Chuyển giao cơng
nghệ đã được ban hành vào ngày 22/11/2006 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2007, đã đáp ứng
ngày càng tốt hơn các yêu cầu đặt ra từ thực tiễn.
Nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất các vấn đề liên quan đến hợp đồng chuyển giao
công nghệ - loại hợp đồng có đối tượng rất đặc thù là cơng nghệ dưới cả góc độ pháp lý và thực
tiễn sẽ góp phần làm sáng tỏ nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chuyển
giao cơng nghệ, đồng thời có những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định của
pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chuyển
giao công nghệ nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung. Trong khn khổ của chương trình đào
tạo cao học luật và tính cấp thiết của các vấn đề như đã trình bày trên đây, người viết đã chọn đề
tài "Hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành" làm
đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và điểm mới của đề tài
Nghiên cứu về hợp đồng chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập
hiện nay là một vấn đề khá mới. Cho đến nay, chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao
công nghệ mới chỉ được nghiên cứu thơng qua một số cơng trình khoa học được trình bày trên
các tạp chí khoa học và một số luận văn thạc sĩ luật học như: luận văn thạc sĩ luật học tại Đại học
Luật Hà Nội - Đại học Panthéon Assas Paris II năm 2004 của tác giả Lê Ngọc Bích với đề tài
“Pháp luật về chuyển giao cơng nghệ - Thực trạng và phương hướng hồn thiện; luận văn thạc sĩ
luật học tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1998 của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương
với đề tài "Pháp luật về chuyển giao cơng nghệ ở Việt Nam". Các cơng trình nghiên cứu này đã
đưa ra được những phân tích, luận giải các vấn đề về công nghệ, chuyển giao công nghệ cũng
như đã chỉ ra được các bản chất pháp lý về hình thức và nội dung của hợp đồng chuyển giao
cơng nghệ theo các quy định pháp luật về chuyển giao công nghệ được ban hành trước thời điểm
năm 2005. Tuy nhiên, kể từ khi Luật Chuyển giao công nghệ được ban hành cho đến nay, chưa
có cơng trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện về hợp đồng chuyển giao cơng nghệ
theo các quy định mới và tình hình thực tiễn ở Việt Nam, để qua đó có thể chỉ ra và phân tích
được những ưu điểm và thiếu sót trong các quy định pháp luật hiện hành. Trên cơ sở định hướng
nghiên cứu và tiếp tục kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đó, người viết trình
bày một số quan điểm khoa học của mình nhằm góp phần làm sáng tỏ các nội dung:
- Hệ thống hóa các quan điểm khoa học về công nghệ - đối tượng của hợp đồng chuyển
giao cơng nghệ, đồng thời phân tích các vấn đề cơ bản nhất về chuyển giao công nghệ.
- Phân tích và làm rõ khái niệm và những đặc trưng cơ bản của hợp đồng chuyển giao
công nghệ về chủ thể ký kết, nội dung, nguyên tắc... để xác định đầy đủ về dạng hợp đồng này.
- Phân tích sâu về các vấn đề của hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của
pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng, qua đó đưa ra các đánh giá khách quan về các
nội dung tiến bộ cũng như các bất cập còn tồn tại nhằm đưa ra các đề xuất đối với việc hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng chuyển giao cơng nghệ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài luận văn nhằm các mục đích: Xác định khái niệm về công nghệ,
chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao cơng nghệ trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích
các cách tiếp cận khác nhau về các khái niệm này; trên cơ sở đó làm rõ bản chất pháp lý, các nội
dung chủ yếu, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật
hiện hành.
Để đạt được mục đích nghiên cứu này, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu các khái niệm, quan điểm khoa học về công nghệ, chuyển giao công nghệ
và hợp đồng chuyển giao công nghệ, để xác định các đặc trưng của hợp đồng chuyển giao công
nghệ.
- Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng chuyển
giao công nghệ ở Việt Nam bao gồm: nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật cũng như
thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ ra những tồn tại trong các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng
chuyển giao công nghệ; đề xuất kiến nghị, phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện các
quy định pháp luật này đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của
pháp luật hiện hành.
Để đảm bảo dung lượng của luận văn, người viết chỉ tập trung nghiên cứu những nội
dung cơ bản, chung nhất về hợp đồng chuyển giao công nghệ mà không đi sâu vào từng dạng
hợp đồng chuyên biệt.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, các phương pháp thống
kê, so sánh, phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng khi nghiên cứu đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Chương 2: Pháp luận hiện hành về hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ và một số
kiến nghị.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CƠNG
NGHỆ
1.1.1. Khái niệm cơng nghệ và vai trị của cơng nghệ
1.1.1.1. Khái niệm cơng nghệ
Thuật ngữ cơng nghệ (tiếng Anh là technology) có nguồn gốc từ hai thuật ngữ Hy Lạp
cổ là techne có nghĩa là kỹ năng hoặc cách thức cần thiết để làm một cái gì đó và logos có nghĩa
là khoa học, kiến thức hay sự nghiên cứu về một cái gì đó [28, tr. 13]. Như vậy, thực chất của
thuật ngữ cơng nghệ là việc ứng dụng những kỹ năng có được từ sự nghiên cứu, khám phá.
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận đối với khái niệm công nghệ, như khái niệm công nghệ
được đưa ra bởi Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (United Nation’s Industrial
Development Organization, viết tắt là UNIDO), Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á - Thái Bình
Dương (Economic and Social Commision for Asia anh the Pacific - viết tắt là ESCAP), Tổ chức
Sở hữu Trí tuệ thế giới (WIPO) và của các nhà khoa học Việt Nam, trong đó đáng chú ý là quan
điểm của GS. Đặng Hữu. Các khái niệm công nghệ theo các cách tiếp cận khác nhau có ý nghĩa
về mặt khoa học giúp nhận thức được bản chất của công nghệ.
Dưới giác độ pháp lý, công nghệ được đề cập đến trong Bộ luật Dân sự 2005 thông qua
việc đưa ra những đối tượng của hoạt động chuyển giao công nghệ tại Điều 755 Bộ luật Dân sự.
Theo đó, đối tượng chuyển giao cơng nghệ bao gồm: bí quyết kỹ thuật, kiến thức kỹ thuật về
công nghệ dưới dạng phương án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật,
bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, chương trình máy tính, thơng tin dữ liệu được chuyển giao, giải pháp hợp
lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ, cấp phép đặc quyền kinh doanh và các đối tượng khác do
pháp luật về chuyển giao công nghệ quy định. Chính vì vậy, khái niệm cơng nghệ chỉ được đề
cập cụ thể trong những văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động chuyển giao công
nghệ. Theo Luật Chuyển giao công nghệ, khái niệm công nghệ được xác định một cách cụ thể, rõ
ràng tại mục 2, Điều 3 của Luật này như sau: Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật
có kèm theo hoặc khơng kèm theo cơng cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản
phẩm. Đây là một khái niệm tuy ngắn gọn, súc tích nhưng rất đầy đủ.
Từ khái niệm cơng nghệ nêu trên, có thể rút ra một số nhận định mang tính lý luận về
các đặc trưng cơ bản của công nghệ, cụ thể:
- Tính hệ thống của cơng nghệ
Hệ thống được hiểu là sự liên kết chặt chẽ của nhiều thành tố để đạt được kết quả nhất
định. Khơng thể nhìn nhận công nghệ như những thành tố riêng rẽ, bởi công nghệ chỉ phát huy
tác dụng của nó nếu có sự phối hợp và liên hệ chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau của công
nghệ. Trên thực tế, việc chuyển giao từng thành tố của công nghệ không phủ nhận bản chất của
công nghệ phải là tập hợp cần và đủ các thành tố tương ứng tạo nên. Kinh nghiệm cho thấy
khơng ít trường hợp, sự tách rời của từng thành tố cơng nghệ vẫn có thể được chấp nhận nếu như
bên ứng dụng cơng nghệ có khả năng tự mình đáp ứng được những thành tố cịn lại. Từ việc
phân tích trên đây, có thể nhận thấy cơng nghệ bao hàm các thành tố sau:
Một là, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu (technoware - phần cứng). Phần này
được gọi là phần kỹ thuật của công nghệ, là những phương tiện vật chất để thể hiện công nghệ.
Hai là, kỹ năng, kinh nghiệm, bí quyết kinh doanh của con người (humanware). Thành
tố này rất quan trọng, giúp cho việc ứng dụng công nghệ đạt hiệu quả cao, nhanh chóng và với
chi phí hợp lý, đồng thời đảm bảo cơng nghệ có thể được tiếp nhận, thay đổi và cải tiến cho phù
hợp với hồn cảnh. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc áp dụng cơng nghệ
hay (cịn được gọi là thể chế, bao gồm việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và giải quyết
những địi hỏi của quy trình quản lý) cũng đóng một vai trị quan trọng. Mặc dù thể chế không
bao hàm những tri thức căn bản làm nên cơng nghệ nhưng nó lại đảm bảo cho sự áp dụng có hiệu
quả của cơng nghệ.
Ba là, tài liệu kỹ thuật bao gồm các thiết kế, bản vẽ, hướng dẫn nghiệp vụ, bí quyết kỹ
thuật… Thành tố này được coi là phần thông tin của công nghệ, thể hiện những tri thức cơng
nghệ được tư liệu hóa.
- Tính ứng dụng của cơng nghệ
Cơng nghệ phải có tính ứng dụng trên thực tế nhằm giải quyết những vấn đề nhất định
nhằm phục vụ lợi ích của con người, thể hiện ở chỗ: việc tuân theo công nghệ sẽ làm cho hoạt
động sản xuất đạt hiệu quả cao hơn như tăng năng suất, giảm chi phí, gia tăng tính năng của sản
phẩm hoặc để phát triển những công nghệ mới, sản phẩm mới. Khả năng ứng dụng của công
nghệ là động lực để phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ và hình thành thị trường cơng
nghệ.
- Tính trao đổi của công nghệ
Đặc trưng này cho thấy bản thân công nghệ có thể được tiếp nhận, dịch chuyển từ nơi
này sang nơi khác và giữa các cá nhân, tổ chức khác nhau. Sự trao đổi công nghệ là vô cùng
quan trọng nhằm đạt hiệu quả cao trong việc biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Tính trao
đổi của cơng nghệ là thuộc tính gắn liền với tính ứng dụng của cơng nghệ. Cơng nghệ có khả
năng ứng dụng thì mới nảy sinh nhu cầu tiếp nhận cũng như chuyển giao. Việc trao đổi công
nghệ sẽ cho phép bên chuyển giao có thể tiếp tục phát triển cơng nghệ mới, cịn bên nhận chuyển
giao sẽ được ứng dụng công nghệ tiên tiến với chi phí thấp hơn.
- Tính giới hạn của cơng nghệ
Tính giới hạn của cơng nghệ được hiểu là bản thân công nghệ đang áp dụng hoặc chưa
áp dụng cũng có thể sẽ nhanh chóng bị lạc hậu và được thay thế bởi những công nghệ mới tiên
tiến hơn. Tính giới hạn của cơng nghệ địi hỏi cơng nghệ phải ln được đổi mới, bắt kịp sự địi
hỏi của nền kinh tế xã hội. Chính vì cơng nghệ có tính giới hạn, mà việc triển khai áp dụng
nhanh cơng nghệ và phổ biến rộng rãi cơng nghệ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng
cường khả năng ứng dụng của công nghệ trong cuộc sống, đồng thời đảm bảo lợi ích cho chủ sở
hữu cơng nghệ. Điều này địi hỏi cần có những chính sách và pháp luật phù hợp để có thể khuyến
khích nghiên cứu, phát triển hoặc tiếp nhận những công nghệ mới và nhanh chóng ứng dụng
cơng nghệ để tạo ra những sản phẩm hàng hóa có giá trị cao.
Từ việc xem xét, phân tích những đặc trưng của cơng nghệ, có thể nhận thấy rằng, việc
đưa ra khái niệm mẫu mực về công nghệ là một thách thức không đơn giản. Mỗi một cách tiếp
cận khái niệm cơng nghệ đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, phù hợp với mục tiêu của
việc sử dụng khái niệm ấy mà thôi.
Để làm rõ hơn nội hàm của khái niệm công nghệ, thiết nghĩa cần phải phân biệt khái
niệm công nghệ với một vài khái niệm dễ gây nhầm lẫn như là khoa học và kỹ thuật.
Khoa học là "hệ thống tri thức về thế giới khách quan" [32, tr. 269]. Khoa học để chỉ
những hiểu biết của con người về thế giới được định hình bằng các khái niệm, các phạm trù và
quy luật. Giữa khoa học và cơng nghệ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khoa học đóng vai trị
là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển của cơng nghệ. Ngược lại, cơng nghệ có ảnh
hưởng đáng kể đến xu hướng nghiên cứu và là động lực của khoa học. Tuy cùng là sản phẩm trí
tuệ của con người, nhưng giữa khoa học và cơng nghệ có những sự khác biệt nhất định. Thứ
nhất, nếu như khoa học chỉ hướng tới việc tìm hiểu bản chất của thế giới thì cơng nghệ lại chú
trọng đến việc áp dụng những hiểu biết ấy để tạo ra những sản phẩm phục vụ lợi ích của con
người. Thứ hai, nghiên cứu khoa học là hoạt động ít hoặc thậm chí khơng bị hạn chế về thời gian
và khơng gian, thì ngược lại, những yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến công nghệ. Một công
nghệ dễ dàng bị thay thế bởi một công nghệ khác tiên tiến hơn, và nó có thể được bảo hộ ở
những chừng mực khác nhau nhằm hạn chế khả năng ứng dụng rộng rãi. Thứ ba, kết quả của
khoa học là việc phong phú thêm những hiểu biết về thế giới, còn kết quả của công nghệ là việc
sản xuất ra một sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm đang có hoặc chí ít là tăng cường hiệu suất
trong việc sản xuất sản phẩm sẵn có.
Cơng nghệ cũng khác với kỹ thuật. Kỹ thuật được hiểu là một kỹ năng để thực hiện một
số nhiệm vụ đặc thù [28, tr. 14]. Như vậy khái niệm kỹ thuật khá gần với khái niệm công nghệ.
Tuy nhiên, giữa cơng nghệ và kỹ thuật có những điểm khác nhau cơ bản. Ở giác độ thứ nhất,
công nghệ là sự phát triển cao của kỹ thuật, hay nói khác đi, cơng nghệ hàm chứa kỹ thuật tiên
tiến, có thể đem lại hiệu quả cao trong sản xuất. Một kỹ thuật là một kỹ năng, thông thường là
một kỹ năng cụ thể. Cịn một cơng nghệ được coi là một hệ thống thơng tin trọn gói và các bí
quyết cần thiết để sản xuất một sản phẩm hoặc thực hiện một số nhiệm vụ. Ở giác độ thứ hai,
công nghệ bao hàm cả kỹ thuật. Trong bốn thành tố của công nghệ, kỹ thuật chỉ hàm chứa trong
hai thành tố đầu tiên (máy móc và những kỹ năng, kinh nghiệm của con người).
1.1.1.2. Vai trị của cơng nghệ
Cơng nghệ có một vai trị quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc
gia và của cả thế giới. Một cách khái quát, công nghệ có những vai trị sau đây:
- Cơng nghệ góp phần làm giảm nguồn lực tiêu hao
Áp dụng công nghệ vào sản xuất, nguồn lực sẽ được sử dụng một cách hợp lý, tránh
lãng phí khơng cần thiết.
- Cơng nghệ giúp doanh nghiệp hợp lý hóa các khâu sản xuất, tăng cường hiệu quả kinh
doanh
Công nghệ không chỉ giải quyết những vấn đề kỹ thuật, mà nó cịn giúp cho các khâu
sản xuất, khâu quản lý được gắn kết với nhau hợp lý hơn, do đó hiệu quả sản xuất sẽ tốt hơn,
tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Ở Việt Nam, cơng nghệ cịn có những vai trị sau đây:
- Cơng nghệ góp phần làm giảm khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước tiên
tiến trên thế giới
- Bản thân công nghệ là một ngành sản xuất tiềm năng, rất phù hợp với tố chất của
người Việt Nam
1.1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển giao công nghệ
1.1.2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ
"Chuyển giao công nghệ" hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là việc đưa cơng nghệ từ nơi có
cơng nghệ đến nơi có nhu cầu nhận cơng nghệ, từ nơi có trình độ cơng nghệ cao đến nơi có trình
độ cơng nghệ thấp hơn một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia hoặc là sự dịch
chuyển toàn bộ hoặc một phần cơng nghệ từ nhóm người này sang nhóm người khác [21, tr. 11].
Đến nay, việc chuyển giao công nghệ hết sức phát triển và phổ biến, được thực hiện trong tất cả
các ngành sản xuất vật chất. Chuyển giao cơng nghệ khơng cịn diễn ra một chiều, từ những nước
phát triển đến những nước đang phát triển mà ngược lại, các nước đang phát triển cũng hoàn tồn
có khả năng chuyển giao cơng nghệ cho các nước phát triển ở một số lĩnh vực có thế mạnh.
Hiểu theo nghĩa rộng, chuyển giao công nghệ xảy ra khi một hoặc nhiều thành tố của
công nghệ được mở rộng phạm vi áp dụng (chuyển dịch về địa lý hoặc chủ thể sở hữu, sử
dụng…). Theo nghĩa hẹp, chuyển giao công nghệ được hiểu là chuyển giao quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng (một phần hoặc tồn bộ) cơng nghệ từ bên có quyền giao cơng nghệ sang bên
nhận cơng nghệ [10, Điều 3].
Xét dưới khía cạnh pháp lý, chuyển giao công nghệ là một giao dịch dân sự, và do tính
đặc thù của nó, nên Bộ luật Dân sự 2005 đã có hẳn một phần riêng để điều chỉnh giao dịch này.
Chuyển giao công nghệ được thực hiện trên ngun tắc bình đẳng, thỏa thuận và được xác lập
thơng qua cơ chế hợp đồng, gọi là hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Như vậy, một cách khái quát, khái niệm chuyển giao công nghệ được hiểu như sau:
Chuyển giao công nghệ là một giao dịch dân sự, được thực hiện qua cơ chế hợp đồng
mà theo đó, bên có quyền chuyển giao công nghệ sẽ chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng công nghệ cho bên tiếp nhận theo phương thức và các điều kiện do các bên thỏa thuận.
1.1.2.2. Phân loại chuyển giao công nghệ
Việc phân loại chuyển giao công nghệ có thể được tiến hành dựa trên nhiều tiêu chí
khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại phổ biến hiện nay.
Phân loại theo giới hạn địa lý
- Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
- Chuyển giao công nghệ từ nước ngồi vào Việt Nam.
- Chuyển giao cơng nghệ từ Việt Nam ra nước ngồi
Chuyển giao cơng nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài được hiểu là việc tổ chức.
Phân loại theo bản chất quyền đối với công nghệ được chuyển giao
- Chuyển giao giản đơn
Chuyển giao giản đơn là hình thức bên chuyển giao cơng nghệ cho phép bên nhận
chuyển giao quyền được sử dụng công nghệ trong một thời gian và không gian nhất định.
- Chuyển giao công nghệ không độc quyền
Chuyển giao công nghệ không độc quyền là hình thức bên chuyển giao cơng nghệ đồng
ý chuyển giao tồn bộ quyền sử dụng cơng nghệ cho bên nhận chuyển giao vô thời hạn, trong
phạm vi một không gian nhất định, nhưng không cho phép bên nhận chuyển giao quyền chuyển
nhượng lại cho bên thứ ba.
- Chuyển giao công nghệ độc quyền
Chuyển giao công nghệ độc quyền là hình thức bên chuyển giao trao tồn bộ quyền sử
dụng công nghệ cho bên nhận chuyển giao vô thời hạn, ở bất cứ nơi đâu và không kèm theo bất
kỳ hạn chế nào về chuyển chuyển giao lại cho các bên khác.
Phân loại theo nội dung công nghệ được chuyển giao
- Chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng các đối tượng của sở hữu công nghiệp
như các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa.
- Chuyển giao thơng qua việc mua bán, cung cấp các đối tượng của công nghệ.
- Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn.
Phân loại theo nguồn gốc công nghệ được chuyển giao
- Chuyển giao công nghệ theo chiều dọc
Là việc chuyển giao công nghệ từ khu vực nghiên cứu đến nơi sản xuất.
- Chuyển giao công nghệ theo chiều ngang
Là việc chuyển giao công nghệ từ nơi áp dụng này đến nơi áp dụng khác.
Phân loại theo tính trực tiếp hoặc gián tiếp của việc chuyển giao công nghệ.
- Chuyển giao trực tiếp: thông qua việc chuyển giao máy móc, thiết bị, tài liệu kỹ thuật
cho bên nhận chuyển giao. Bên tiếp nhận công nghệ là một chủ thể hiện hữu, là một bên của hợp
đồng chuyển giao công nghệ, đồng thời cũng là chủ sở hữu hoặc sử dụng công nghệ sau khi tiếp
nhận.
- Chuyển giao gián tiếp: là việc chuyển giao thông qua việc thành lập các liên doanh,
trong đó bên chuyển giao góp vốn bằng công nghệ. Trong trường hợp này, bên tiếp nhận công
nghệ về mặt pháp lý là bên Việt Nam, nhưng thực chất là liên doanh được thành lập mới là chủ
sở hữu hoặc sử dụng công nghệ.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
1.2.1. Khái niệm và những đặc trưng của hợp đồng chuyển giao cơng nghệ
Như trên đã phân tích, bản chất pháp lý của hoạt động chuyển giao công nghệ là giao
dịch dân sự giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao, do đó, cơ chế để thực hiện giao dịch
này là cơ chế hợp đồng, gọi là hợp đồng chuyển giao công nghệ. Theo cách tiếp cận truyền
thống, hợp đồng chuyển giao công nghệ được nhận diện dưới hai giác độ, khách quan và chủ
quan.
Theo phương diện khách quan, hợp đồng chuyển giao công nghệ là tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình chuyển giao công nghệ.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thỏa thuận của các
bên tham gia hợp đồng mà theo đó, cơng nghệ sẽ được chuyển giao từ bên có quyền chuyển giao
cơng nghệ sang bên tiếp nhận công nghệ. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có khái niệm chính
thức về hợp đồng chuyển giao cơng nghệ, đã phần nào cho thấy tính phức tạp của hợp đồng
chuyển giao công nghệ đã dẫn đến việc nhà làm luật lựa chọn một "giải pháp an toàn" là không
đưa ra định nghĩa mà chỉ quy định những yêu cầu cụ thể đối với hợp đồng chuyển giao công
nghệ như đối tượng, nội dung, phương thức thực hiện… Quy định như vậy sẽ dễ thực hiện,
nhưng có thể khơng khái quát được bản chất của hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Để làm rõ khái niệm hợp đồng chuyển giao công nghệ, theo người viết, cần phải xuất
phát từ những đặc trưng cơ bản của hợp đồng chuyển giao công nghệ và thơng qua những đặc
trưng này, có thể nhận diện một cách tương đối chính xác hợp đồng chuyển giao cơng nghệ và
phân biệt nó với những hợp đồng khác.
Hợp đồng chuyển giao cơng nghệ có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng chuyển giao công nghệ là có đối tượng là cơng nghệ, với tư cách là
một loại "tài sản" đặc thù. Pháp luật Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác thường xác định cụ
thể đối tượng của hợp đồng chuyển giao công nghệ theo các hình thái vật chất của cơng nghệ
(tức là sự thể hiện ra bên ngồi của cơng nghệ) như bí quyết kỹ thuật, quy trình sản xuất, …. Tuy
nhiên, ngay cả khi thể hiện như vậy, thì bản thân công nghệ cũng vẫn cứ là một tài sản vô hình,
bởi lẽ giá trị của nó khơng nằm ở trong chính những hình thái vật chất nêu trên mà là khả năng
đem lại những giá trị cao hơn trong sản phẩm được áp dụng những công nghệ ấy.
Do đặc trưng của cơng nghệ là tính hệ thống, nên việc hợp đồng chuyển giao cơng nghệ
cũng phải có những nội dung để đảm bảo tính hệ thống của cơng nghệ được chuyển giao, theo
đó, mục tiêu cao nhất là đảm bảo bên tiếp nhận cơng nghệ phải có được những lợi ích từ việc
chuyển giao cơng nghệ (có khả năng tiếp nhận, làm chủ công nghệ), nhưng đồng thời phải đảm
bảo những quyền lợi hợp pháp cho bên chuyển giao công nghệ theo thỏa thuận.
Thứ hai, hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được lập dưới hình thức văn bản. Trong
điều kiện hiện nay, khái niệm "văn bản" được hiểu khá rộng, nghĩa là ngoài văn bản truyền thống
(bản giấy, bản khắc…), những dạng thức khác của quá trình ghi chép ký tự cũng được coi là văn
bản như điện báo, telex, fax, hoặc các thông điệp dữ liệu khác. Hợp đồng chuyển giao công nghệ
bằng văn bản là công cụ pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên nếu xảy ra
tranh chấp.
Thứ ba, hợp đồng chuyển giao công nghệ gắn với một số hạn chế liên quan đến các thủ
tục đăng ký hoặc cấp phép. Với vai trò to lớn của công nghệ, hầu hết các quốc gia đều phải đối
mặt với một vấn đề: làm thế nào để khuyến khích phát triển cơng nghệ thơng qua hoạt động
chuyển giao công nghệ, nhưng không thể trở thành một "bãi rác cơng nghệ". Chính vì vậy, các
quốc gia thường có những chính sách nhằm khuyến khích chuyển giao hoặc nhận chuyển giao
một số dạng công nghệ, đồng thời hạn chế và ngăn cấm một số công nghệ khác thông qua những
quy định về đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ, cấp phép chuyển giao cơng nghệ.
Từ những phân tích trên đây, có thể xây dựng khái niệm hợp đồng chuyển giao công
nghệ như sau:
Hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thỏa thuận bằng văn bản phù hợp với những thủ
tục do pháp luật quy định giữa bên có quyền chuyển giao công nghệ và bên tiếp nhận công nghệ
mà theo đó, bên chuyển giao có nghĩa vụ chuyển giao một phần hoặc tồn bộ cơng nghệ, gắn
hoặc khơng gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp cho bên tiếp nhận, bên tiếp nhận phải thực
hiện các cam kết tương ứng với quyền nhận công nghệ.
Như vậy, trong hợp đồng chuyển giao cơng nghệ có hai bên là bên chuyển giao và bên
nhận chuyển giao.
Bên chuyển giao công nghệ là tổ chức hoặc cá nhân có quyền chuyển giao cơng nghệ.
Những điều kiện đối với bên chuyển giao công nghệ là những ràng buộc pháp lý mà bên chuyển
giao công nghệ phải tn thủ nhằm đảm bảo tính có hiệu lực của hợp đồng chuyển giao công
nghệ. Xét một cách chung nhất, bên chuyển giao công nghệ (sau đây gọi là bên chuyển giao)
phải thỏa mãn những điều kiện sau đây:
Thứ nhất, bên chuyển giao phải có đủ năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, bên chuyển giao phải có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ và có
khả năng chuyển giao cơng nghệ là đối tượng chuyển giao hoặc được chủ sở hữu công nghệ cho
phép chuyển giao.
Thứ ba, bên chuyển giao được pháp luật cho phép chuyển giao công nghệ.
Bên nhận chuyển giao công nghệ là những tổ chức, cá nhân tiếp nhận công nghệ được
chuyển giao. Xét về mặt lý luận, bên nhận chuyển giao không bị đặt ra nhiều điều kiện như bên
chuyển giao, nhưng phải đầy đủ năng lực hành vi dân sự và thỏa mãn một số điều kiện nhất định
nếu pháp luật có yêu cầu. Bên cạnh đó, bên nhận chuyển giao cũng phải chịu trách nhiệm pháp
lý nếu tiếp nhận những công nghệ bị cấm chuyển giao theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Phân loại hợp đồng chuyển giao cơng nghệ
Hợp đồng chuyển giao cơng nghệ có thể được phân loại tương ứng với từng cách phân
loại chuyển giao cơng nghệ đã được phân tích ở phần 1.1 của chương này. Bên cạnh những cách
thức phân loại như vậy, cịn có một số tiêu chí quan trọng khác có thể giúp nghiên cứu hợp đồng
chuyển giao cơng nghệ sâu sắc và cụ thể hơn, cụ thể như sau:
1.2.2.1. Phân loại theo tính độc lập của hợp đồng chuyển giao công nghệ
Hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập
Hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập là hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa bên
chuyển giao và bên nhận chuyển giao mà không phải là một phần của một giao dịch khác.
Hợp đồng chuyển giao công nghệ phụ thuộc
Đây là loại hợp đồng chuyển giao công nghệ mà bản thân nó là một bộ phận khơng thể
tách rời của một giao dịch khác như hợp đồng nhượng quyền thương mại hoặc hợp đồng mua
bán máy móc kèm theo chuyển giao cơng nghệ.
1.2.2.2. Phân loại theo thủ tục hành chính liên quan
Hợp đồng chuyển giao công nghệ không cần cấp phép
Là loại hợp đồng chuyển giao công nghệ mà các bên hồn tồn tự do thỏa thuận, khơng
cần sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được cấp phép
Là loại hợp đồng chuyển giao cơng nghệ mà hiệu lực của nó hoàn toàn phụ thuộc vào sự
chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2.3. Những nguyên tắc của hợp đồng chuyển giao công nghệ
1.2.3.1. Các nguyên tắc chung
Nguyên tắc chung là những nguyên tắc áp dụng chung cho hợp đồng dân sự. Những
nguyên tắc này là nền tảng của giao dịch dân sự. Nếu các bên không tuân thủ những nguyên tắc
này, hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu. Cụ thể, có các ngun tắc chung sau:
- Ngun tắc bình đẳng
- Nguyên tắc tự nguyện
- Nguyên tắc thiện chí, hợp tác
1.2.3.2. Các nguyên tắc chuyên biệt
Các nguyên tắc chuyên biệt được khảo cứu ở đây là những nguyên tắc riêng của hợp
đồng chuyển giao công nghệ gắn với bản chất của loại hợp đồng này, cụ thể bao gồm:
- Nguyên tắc đảm bảo tính bí mật của cơng nghệ (Non-disclosure and confidentiality)
- Nguyên tắc thông tin đầy đủ
1.2.4. Một số vấn đề cơ bản về nội dung hợp đồng chuyển giao công nghệ
Về bản chất, nội dung của hợp đồng là những thỏa thuận được ghi nhận trong các điều
khoản của hợp đồng, nên khi nói đến nội dung của hợp đồng, người ta thường cho rằng đó chính
là những điều khoản của hợp đồng ấy. Nội dung của hợp đồng bao gồm ba nhóm điều khoản là
điều khoản chủ yếu, điều khoản thông thường và điều khoản tùy nghi. Điều khoản chủ yếu là
những thỏa thuận không thể thiếu của hợp đồng, mà thiếu nó thì hợp đồng được coi là chưa giao
kết. Hợp đồng chuyển giao cơng nghệ có các điều khoản chủ yếu như: thỏa thuận về công nghệ
được chuyển giao hay nói cách khác là những thỏa thuận về đối tượng hợp đồng, phương thức
chuyển giao công nghệ, giá cả và phương thức thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia hợp đồng….
Điều khoản thông thường là những thỏa thuận mà các bên có thể ghi nhận hoặc không
ghi nhận vào hợp đồng, nhưng vẫn được thực hiện theo quy định của pháp luật. Hợp đồng
chuyển giao cơng nghệ có các điều khoản thơng thường như: Thời điểm, thời hạn có hiệu lực của
hợp đồng, Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Bên cạnh đó, trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, các bên cũng nên thỏa thuận
những điều khoản tùy nghi, chủ yếu là nội dung về việc giải quyết tranh chấp và áp dụng pháp
luật.
1.2.5. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng
chuyển giao công nghệ (hay ảnh hưởng đến hoạt động chuyển giao công nghệ)
Xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao
công nghệ là rất cần thiết về mặt lý luận. Xác định được những yếu tố ảnh hưởng đến hợp đồng
chuyển giao công nghệ sẽ góp phần: (i) Đảm bảo cho việc đánh giá tồn diện về hợp đồng
chuyển giao cơng nghệ như tính hiệu quả, những rủi ro… (ii) Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ;
Theo quan điểm của người viết, những yếu tố cơ bản sau đây đã và đang ảnh hưởng đến
việc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao cơng nghệ:
Thứ nhất, chính sách của Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ.
Thứ hai, xu hướng phát triển của công nghệ và thị trường công nghệ Việt Nam.
Thứ ba, khả năng tiếp nhận công nghệ, cải tiến công nghệ của bên nhận chuyển giao
Thứ tư, thị trường tiêu thụ của các sản phẩm áp dụng công nghệ.
Thứ năm, các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ
Chương 2
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
2.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM
2.1.1. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ
Kể từ khi Đảng và nhà nước chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ chế độ kinh tế tập
trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa thì vấn đề xây dựng hành lang pháp lý cho mọi mặt của đời sống kinh tế ln được
quan tâm, trong đó có lĩnh vực chuyển giao công nghệ, với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của
khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh. Nhằm thể chế hóa những chủ trương của Đảng,
kể từ năm 1990 đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về chuyển giao cơng nghệ nói chung và hợp
đồng chuyển giao cơng nghệ nói riêng lần lượt được ra đời, được bổ sung, thay thế nhằm đảm
bảo điều chỉnh sát và phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn
cụ thể. Các văn bản pháp lý này có nhiều mức độ hiệu lực khác nhau, từ văn bản luật đến các văn
bản dưới luật. Giai đoạn đầu tiên, từ những năm đầu đổi mới, Nhà nước ta đã chủ trương sẽ nhập
cơng nghệ là chủ yếu, bên cạnh đó khuyến khích phát triển cơng nghệ trong nước. Trong giai
đoạn này, một số văn bản luật và dưới luật đã ra đời để cụ thể hóa chủ trương đó. Chẳng hạn,
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành ngày 29/12/1987, Pháp lệnh Chuyển giao cơng
nghệ nước ngồi vào Việt Nam ngày 10/12/1988, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
ngày 28/1/1989… Các văn bản pháp luật này, mà chủ yếu là Pháp lệnh Chuyển giao cơng nghệ
nước ngồi vào Việt Nam đã tạo khuôn khổ pháp lý bước đầu, nhưng mới chỉ điều chỉnh một
dịng chuyển giao cơng nghệ duy nhất là từ nước ngoài vào Việt Nam, với hình thức chuyển giao
chủ yếu là thơng qua hoạt động đầu tư nước ngoài. Với sự điều chỉnh này, nước ta đã thu hút
được ngày càng nhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngồi, góp phần nâng cao năng lực công nghệ
và tăng cường khả năng cạnh tranh cho các hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam. Mặc dù vậy, các
văn bản pháp luật trong giai đoạn này vẫn thiếu những quy phạm điều chỉnh hợp đồng chuyển
giao công nghệ trong nước và hợp đồng chuyển giao công nghệ ra nước ngoài. Đồng thời, chúng
cũng bộc lộ nhiều bất cập như: Khái niệm về công nghệ và chuyển giao công nghệ chưa rõ ràng
và chưa đầy đủ; các điều khoản của hợp đồng quy định quá chi tiết làm giảm khả năng linh hoạt
trong thương lượng giao kết hợp đồng; thủ tục phê duyệt hoặc đăng ký hợp đồng còn rườm rà,
phức tạp, tốn nhiều thời gian...
* Một dấu mốc quan trọng của hệ thống văn bản pháp luật về hợp đồng chuyển giao
công nghệ là Bộ luật Dân sự năm 1995. Tại phần thứ 6, chương III về chuyển giao công nghệ đã
quy định các vấn đề rất cơ bản như: đối tượng chuyển giao công nghệ, nội dung chuyển giao
công nghệ, quyền chuyển giao công nghệ, công nghệ không được chuyển giao và các vấn đề về
hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đến ngày 01/7/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định
45/1998/NĐ-CP quy định rất chi tiết tất cả những cụm vấn đề về chuyển giao công nghệ và hợp
đồng chuyển giao công nghệ như: điều kiện chuyển giao công nghệ, nội dung chuyển giao công
nghệ, các công nghệ không được chuyển giao, hợp đồng chuyển giao công nghệ và quản lý nhà
nước về lĩnh vực chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, một số văn bản điều chỉnh về sở hữu
cơng nghiệp đã góp phần bổ sung cho các quy định về chuyển giao công nghệ liên quan đến các
đối tượng sở hữu công nghiệp như Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996, Nghị định 06/2001/NĐCP ngày 01/2/2001 sửa đổi, bổ sung Nghị định 63/CP… Mặc dù còn một số bất cập nhưng
những quy định trong những văn bản này đã tạo hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho
hoạt động chuyển giao cơng nghệ trong giai đoạn này và có nhiều bước phát triển đáng kể so với
giai đoạn trước đó [21, tr. 223-236].
Sau một thời gian áp dụng các văn bản nêu trên, nhiều quy định khơng cịn phù hợp nên
ngày 2/2/2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2005/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
11/2005/NĐ-CP, tạo một hành lang pháp lý thơng thống và hiệu quả hơn trong hoạt động
chuyển giao công nghệ, tạo "bước đệm" cho việc ra đời của Luật Chuyển giao công nghệ. Song
song với những quy định trên, ngày 10/5/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
16/2000/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ.
Trong hệ thống các quy định về chuyển giao công nghệ thời gian này, các vấn đề sau
của hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được tập trung giải quyết:
Thứ nhất, Hợp đồng chuyển giao công nghệ được yêu cầu ký kết dưới dạng văn bản.
Thời hạn hợp đồng chuyển giao công nghệ trong nước bị hạn chế là là 7 năm, nếu gia hạn thì
khơng q 3 năm. Đối với hợp đồng chuyển giao cơng nghệ từ nước ngồi, thời hạn được xác
định theo thời hạn đầu tư. Việc thanh toán trong hợp đồng chuyển giao công nghệ do các bên
thỏa thuận theo các phương thức sau đây: góp vốn liên doanh, trả theo kỳ vụ, trả gọn một lần
hoặc nhiều lần. Thời điểm tính giá thanh tốn và kết thúc tính giá thanh tốn do các bên thỏa
thuận, có thể trùng hoặc không trùng với thời hạn của hợp đồng. Tuy nhiên, việc thanh toán chỉ
được thực hiện sau khi hợp đồng chuyển giao cơng nghệ có hiệu lực. Giá chuyển giao công nghệ
do các bên thỏa thuận. Bên được chuyển giao có quyền chuyển giao lại cơng nghệ nếu được bên
chuyển giao đồng ý.
Thứ hai, các dạng chuyển giao công nghệ: chuyển giao kết quả nghiên cứu triển khai
công nghệ mới theo các loại hình chuyển giao sau đây:
+ Chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp là
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa và các đối tượng sở hữu
công nghiệp khác đang trong thời hạn được pháp luật Việt Nam bảo hộ và được phép chuyển
giao.
+ Chuyển giao các bí quyết về cơng nghệ, kiến thức dưới dạng phương án công nghệ,
các giải pháp kỹ thuật, quy trình cơng nghệ, tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật, công thức,
thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, phần mềm máy tính, thơng tin dữ liệu về cơng nghệ có
kèm hoặc khơng kèm theo máy móc, thiết bị.
+ Chuyển giao các giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới cơng nghệ.
+ Thực hiện các hình thức hỗ trợ chuyển giao cơng nghệ để bên nhận chuyển giao cơng
nghệ có được năng lực công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ với chất lượng được xác định
trong hợp đồng
Thứ ba, vấn đề phát triển công nghệ: bên nhận chuyển giao có quyền cải tiến, phát triển
cơng nghệ được chuyển giao mà không cần phải thông báo cho bên chuyển giao biết, trừ trường
hợp trong hợp đồng chuyển giao cơng nghệ có thỏa thuận khác.Việc chuyển giao những cải tiến,
phát triển đối với cơng nghệ được chuyển giao có thể theo thỏa thuận trong hợp đồng, thông qua
một hợp đồng bổ sung hoặc một hợp đồng mới trên cơ sở các bên bình đẳng và cùng có lợi.
Thứ tư, thiết bị kỹ thuật được chuyển giao: Nếu việc chuyển giao công nghệ thông qua
việc chuyển giao dây chuyền thiết bị sản xuất một phần, toàn bộ hoặc của một dự án đầu tư thì
phần chuyển giao cơng nghệ được lập thành một phần riêng của một hợp đồng nhận thiết bị. Chi
phí chuyển giao cơng nghệ phải được tính riêng. Nếu việc chuyển giao cơng nghệ có kèm theo
máy móc, thiết bị, phương tiện kỹ thuật thì trong hợp đồng phải có danh mục các máy móc, thiết
bị, phương tiện kỹ thuật ấy.
Thứ năm, quyền sở hữu công nghiệp trong chuyển giao công nghệ: Nếu việc chuyển
giao công nghệ kèm theo quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các đối tượng sở hữu cơng nghiệp và
các nội dung khác, thì phần chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công
nghiệp được lập thành một phần riêng trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Thứ sáu, đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ: các trường hợp hợp đồng chuyển
giao công nghệ phải đăng ký được quy định cụ thể:
+ Hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngồi vào Việt Nam;
+ Hợp đồng chuyển giao cơng nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài;
+ Hợp đồng chuyển giao cơng nghệ trong nước có giá trị từ 500 triệu đồng Việt Nam trở
lên. Những hợp đồng chuyển giao công nghệ có giá trị thấp hơn cũng có thể được đăng ký để
hưởng những chính sách ưu đãi của nhà nước về chuyển giao công nghệ.
Từ những quy định trên đây về hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong giai đoạn này,
có thể thấy pháp luật Việt Nam đã dần hồn chỉnh những quy định về hợp đồng chuyển giao
cơng nghệ. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, việc giới hạn thời hạn có hiệu lực của hợp đồng chuyển giao công nghệ đã trở
nên bất cập. Điều đó khơng những làm hạn chế sự tự do thỏa thuận của các bên trong hoạt động
chuyển giao cơng nghệ, mà cịn làm cho việc chuyển giao không phủ hợp với những nội dung
chuyển giao cụ thể, ví dụ có những cơng nghệ có thời gian chuyển giao lâu hơn 10 năm, hoặc
đang trong giai đoạn phát triển, hồn thiện. Bên cạnh đó, quy định này đã hạn chế quyền của bên
nhận chuyển giao nếu muốn có được những kết quả hồn thiện đối với cơng nghệ đã chuyển giao
từ phía bên chuyển giao sau thời hạn nói trên.
Thứ hai, vấn đề bồi thường thiệt hại trong chuyển giao công nghệ chưa được bảo đảm.
Quy định tại Điều 819 về chuyển giao công nghệ trong Bộ luật Dân sự 1995 đã khơng có quy
định về bồi thường thiệt hại hoặc trả thêm tiền bồi thường thiệt hại cho bên chuyển giao công
nghệ đã làm cho các nhà cung cấp công nghệ tiềm năng không sẵn sàng chuyển giao công nghệ
vào Việt Nam. Mặc dù các bên trong hợp đồng chuyển giao cơng nghệ hồn tồn có thể thỏa
thuận về những nội dung này, nhưng việc có những quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các bên là cần thiết.
Thứ ba, bất cập trong quy định về phương thức chuyển giao công nghệ. Bộ luật Dân sự
1995 tại Điều 806 về đối tượng chuyển giao cơng nghệ đã có sự nhầm lẫn giữa phương thức
chuyển giao và đối tượng chuyển giao. Không những thế, phạm vi các đối tượng chuyển giao
cũng tương đối hẹp, không phù hợp với thực tiễn và những chuẩn mực quốc tế về chuyển giao
công nghệ.
Thứ tư, yêu cầu không hợp lý của việc đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ. Các
trường hợp phải đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ không dựa trên sự tác động của công
nghệ được chuyển giao đối với nền kinh tế và xã hội mà dựa trên sự phân biệt về địa lý và giá trị,
tạo cảm giác "phân biệt đối xử" đối với các chủ thể trong và ngoài nước và "quyền chọn lựa"
không thỏa đáng về giá trị hợp đồng. Đồng thời, do sự yếu kém trong khâu thẩm định công nghệ,
các yêu cầu về đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ không phát huy thực sự được ý nghĩa
và vai trò của nhà nước trong quản lý hợp đồng chuyển giao công nghệ mà thực chất đã tạo thêm
"rào cản", làm chậm quá trình chuyển giao và tiếp nhận công nghệ của các bên tham gia.
* Bộ luật Dân sự 2005 ra đời đã đánh dấu một mốc mới trong sự phát triển của pháp
luật về chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ. Thay vì những quy định chi
tiết (trong 20 điều luật) của Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 chỉ quy định có tính chất
khái qt từ Điều 754 đến Điều 757 đã tạo khung pháp lý chỉ dẫn đến các văn bản pháp luật
chuyên ngành như pháp luật sở hữu trí tuệ và pháp Luật Chuyển giao cơng nghệ. Trong những
quy định này, Bộ luật Dân sự đã xác định rõ quyền chuyển giao công nghệ, đối tượng chuyển
giao công nghệ, các công nghệ cấm chuyển giao và hợp đồng chuyển giao công nghệ. Đáng ghi
nhận nhất là quy định về đối tượng chuyển giao công nghệ đã được ghi nhận chính xác và phù
hợp hơn.
Ngày 29/11/2005, Quốc hội đã thơng qua Luật sở hữu trí tuệ, có hiệu lực ngày
01/7/2006, trong đó có những quy định về quyền sở hữu công nghiệp, việc chuyển giao đối
tượng sở hữu công nghiệp. Nếu việc chuyển giao quyền sở hữu cơng nghiệp có trong chuyển
giao cơng nghệ thì những quy định của Luật sở hữu trí tuệ sẽ có hiệu lực điều chỉnh.
Luật Chuyển giao công nghệ được Quốc hội thơng qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực
vào ngày 1/7/2007 là một bước tiến rất quan trọng trong sự phát triển của pháp luật về chuyển
giao công nghệ. Với 7 chương, 61 điều, Luật Chuyển giao công nghệ đã quy định rất cụ thể tất
cả những vấn đề liên quan đến hoạt động chuyển giao cơng nghệ, trong đó hợp đồng chuyển giao
cơng nghệ là một nội dung rất quan trọng.
Bên cạnh những văn bản Luật chủ đạo trên, nhiều văn bản Luật khác cũng có những nội
dung đề cập đến những khía cạnh khác của hoạt động chuyển giao công nghệ và hợp đồng
chuyển giao công nghệ như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Khoa học và công nghệ, Luật
Cạnh tranh…
Như vậy cho đến nay, có thể nhận xét rằng những quy định dưới hình thức văn bản Luật
về chuyển giao cơng nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ ở nước ta đã tương đối hoàn
chỉnh. Tuy nhiên, một số nội dung của Hợp đồng chuyển giao công nghệ được điều chỉnh chưa
thống nhất và cần tiếp cận vấn đề tương quan giữa các văn bản này trong điều chỉnh.
2.1.2. Mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh về hợp đồng chuyển giao
công nghệ
Trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ cũng
như các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác, hầu như đều có tình trạng một vấn đề có nhiều
văn bản pháp luật cùng điều chỉnh. Do vậy, việc xem xét mối quan hệ về mặt hiệu lực nhằm áp
dụng một cách chính xác các quy định pháp luật là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, giữa các văn
bản này có hai loại quan hệ sau đây:
* Quan hệ theo chiều dọc: Trong mối quan hệ này, các văn bản khác nhau về cơ quan
ban hành và do đó, có thể khác nhau về phạm vi điều chỉnh và hiệu lực pháp lý. Ví dụ: mối quan
hệ giữa Luật Chuyển giao công nghệ với Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật
Chuyển giao công nghệ; mối quan hệ giữa Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật
Chuyển giao công nghệ và thông tư hướng dẫn thi hành của Bộ Khoa học và Công nghệ…
Trong mối quan hệ theo chiều dọc, văn bản pháp luật thấp hơn phải có các quy định
khơng được trái với văn bản pháp luật cao hơn. Trong trường hợp có quy định khơng phù hợp
với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, thì quy định ấy khơng có hiệu lực và phải được bãi bỏ
hoặc sửa đổi.
Để đảm bảo tính khái quát của văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao như Luật, một
số vấn đề được ghi nhận sẽ do các cơ quan như Chính phủ, Bộ quy định chi tiết trong các văn
bản dưới luật. Trong trường hợp này, các cơ quan được phân cơng có quyền quy định những vấn
đề một cách chi tiết và cụ thể hơn, nhằm đảm bảo việc áp dụng trên thực tế các quy định của
Luật được chính xác và dễ dàng hơn. Một điểm cần lưu ý trong việc cơ quan hành pháp quy định
chi tiết này là: không được mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi điều chỉnh của văn bản pháp lý cao
hơn, thực tế khơng ít trường hợp khơng đảm bảo ngun tắc này khi hướng dẫn thi hành luật
hiện nay.
* Quan hệ theo chiều ngang: Là quan hệ giữa các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp
lý tương đương. Trong nội dung điều chỉnh về hoạt động chuyển giao công nghệ, đó là mối quan
hệ giữa Bộ luật Dân sự, Luật khoa học và cơng nghệ, Luật sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công
nghệ và các văn bản luật khác có điều chỉnh những nội dung liên quan đến hoạt động chuyển
giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ như Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật
Doanh nghiệp…
Xem xét và làm rõ mối quan hệ giữa các văn bản luật trên trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội của hoạt động chuyển giao công nghệ là một việc làm hết sức phức tạp. Để làm rõ
được mối quan hệ này, cần phải lý giải một vấn đề, tại sao lại có nhiều văn bản cùng điều chỉnh
hoạt động chuyển giao công nghệ? Theo người viết, nguyên nhân cơ bản là do chuyển giao công
nghệ là một vấn đề tổng hợp, liên quan đến hầu hết các khía cạnh của đời sống xã hội nên địi hỏi
phải được chú ý một cách tương ứng. Trong đó, Luật Chuyển giao công nghệ chỉ điều chỉnh các
quan hệ cơ bản nhất trong hoạt động chuyển giao công nghệ.
Từ lý giải cơ bản trên đây, cần thiết xác định chính xác pháp luật áp dụng đối với các
nội dung trong hoạt động chuyển giao công nghệ, cụ thể:
Một là, Bộ luật Dân sự với tư cách là một văn bản luật có tính khái qt cao, điều chỉnh
những vấn đề cơ bản của giao dịch dân sự, do vậy, Bộ luật Dân sự thường được coi là văn bản
"luật khung" trong nhiều lĩnh vực dân sự, trong đó có lĩnh vực chuyển giao cơng nghệ. Cịn
những vấn đề pháp lý cụ thể sẽ do các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh. Tiếp cận dưới góc
độ ấy, hiện nay Bộ luật Dân sự 2005 chỉ dành 4 điều để quy định những vấn đề cơ bản nhất của
hoạt động chuyển giao cơng nghệ, thay vì 25 điều một cách chi tiết trong Bộ luật Dân sự 1995
như trước đây.
Do vậy, những quy định của các văn bản luật chuyên ngành như Luật Chuyển giao cơng
nghệ, Luật sở hữu trí tuệ… có thể đầy đủ hơn, quy định chi tiết hơn những quy định trong Bộ
luật Dân sự, nhưng không được trái với những nguyên tắc trong Bộ luật Dân sự như định nghĩa
về đối tượng chuyển giao công nghệ, các công nghệ không được chuyển giao…
Hai là, giữa các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh những vấn đề khác nhau nhưng
có liên quan đến nhau, cần tuân thủ nguyên tắc ưu tiên luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp,
sau đó mới đến luật chuyên ngành điều chỉnh những vấn đề liên quan. Ví dụ: trong hoạt động
đầu tư có kèm theo chuyển giao công nghệ, trước tiên cần được điều chỉnh bởi Luật Đầu tư,
riêng những vấn đề về chuyển giao công nghệ sẽ được sự điều chỉnh bởi Luật Chuyển giao công
nghệ.
Ba là, giữa các văn bản điều chỉnh cùng một vấn đề, thì cần xác định rõ chỉ dẫn áp dụng
pháp luật được ghi nhận trong những văn bản ấy. Tại Điều 4 Luật Chuyển giao cơng nghệ có quy
định về việc áp dụng pháp luật như sau: "Hoạt động chuyển giao công nghệ phải tuân theo quy
định của Luật này và các quy định khác của pháp luật; trường hợp hoạt động chuyển giao công
nghệ đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó". Trong khi đó tại
Điều 5 Luật Sở hữu trí tuệ có quy định: "Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về sở
hữu trí tuệ của Luật này với quy định của luật khác thì áp dụng quy định của Luật này". Do vậy,
đối với trường hợp chuyển giao đối tượng quyền sở hữu cơng nghiệp có kèm theo chuyển giao
cơng nghệ thì những vấn đề liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp sẽ do Luật sở hữu trí tuệ
điều chỉnh. Nếu Luật sở hữu trí tuệ khơng quy định, thì những vấn đề về chuyển giao công nghệ
sẽ do Luật Chuyển giao công nghệ điều chỉnh.
Thứ tư, nếu giữa văn bản pháp luật trong nước và điều ước quốc tế có quy định khác
nhau, về nguyên tắc sẽ ưu tiên áp dụng những quy định trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Điều này đảm bảo cho các quan hệ pháp luật được điều chỉnh phù hợp với chuẩn
mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
2.2.1. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng chuyển giao công nghệ
2.2.1.1. Đối tượng chuyển giao công nghệ
Hợp đồng chuyển giao cơng nghệ có đối tượng là cơng nghệ được chuyển giao, thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo quy định tại Điều 7 Luật Chuyển giao công nghệ, đối