Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
*****

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ
NIÊN KHĨA 2007-2011

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

ĐÀO NGUN PHƢƠNG THẢO

TP HỒ CHÍ MINH
NĂM 2011.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ.

SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐÀO NGUYÊN PHƢƠNG THẢO
CHUYÊN NGÀNH:
MSSV:


LUẬT HÌNH SỰ
3240169
2007 – 2011

NIÊN KHÓA:

GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: TS. VÕ THỊ KIM OANH
GIẢNG VIÊN KHOA LUẬT HÌNH SỰ

TP HỒ CHÍ MINH
NĂM 2011



Lời cảm ơn
Trong thời gian thực hiện khóa luận tác
giả đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ
nhiều cá nhân và cơ quan. Xin chân thành
cảm ơn những người đã tạo điều kiện để
khóa luận này được hồn thành.
Em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến cô
Võ Thị Kim Oanh, người đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt q
trình làm khóa luận.







MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Lời mở đầu
Chƣơng I: Nhận thức chung về quyền con ngƣời của ngƣời tham gia tố
tụng trong hoạt động xét xử hình sự. ................................................. 1
1.1.

Khái niệm về người tham gia tố tụng. ................................................... 1

1.1.1. Định nghĩa về người tham gia tố tụng. .................................................. 1
1.1.2. Đặc điểm người tham gia tố tụng ........................................................... 3
1.1.3. Phân loại người tham gia tố tụng. .......................................................... 5
1.1.4. Vị trí vai trị của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự.. ........................................................................................ 6
1.2.

Khái niệm về quyền con người của người tham gia tố tụng
trong xét xử hình sự. .............................................................................. 8

1.2.1. Khái niệm chung về quyền con người. ................................................... 8
1.2.2

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình
sự. ........................................................................................................... 14

1.2.3. Cơ sở cho việc bảo đảm quyền con người của người tham gia

tố tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. ....................................... 18
Chƣơng II: Pháp luật thực định về bảo đảm quyền con ngƣời của
ngƣời tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình
sự. ........................................................................................................... 26


2.1.

Bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự thơng qua các nguyên tắc cơ
bản trong tố tụng hình sự.. ..................................................................... 26

2.1.1.

Bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong
các nguyên tắc đặc thù của tố tụng hình sự. ........................................ 29

2.1.2. Bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong
các nguyên tắc chung ............................................................................. 36
2.2

Bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự thơng qua việc quy định quyền
và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. ................................................ 49

2.2.1. Nhóm quyền thể hiện đặc trưng cho địa vị pháp lí của người
tham gia tố tụng...................................................................................... 49
2.2.2

Nhóm quyền xuất phát từ vai trị và chun môn của người

tham gia tố tụng...................................................................................... 55

2.2.3

Những nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. ........................................ 58

2.3.

Bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự thơng qua việc quy định các
biện pháp cưỡng chế. ............................................................................. 61

2.3.1. Bảo đảm quyền con người trong việc quy định căn cứ áp dụng
biện pháp ngăn chặn............................................................................... 61
2.3.2. Bảo đảm quyền con người trong việc quy định thủ tục áp dụng
biện pháp ngăn chặn............................................................................... 66
2.3.3. Bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong
các quy định về các biện pháp cưỡng chế khác. .................................... 69
2.4.

Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng trong hoạt động
xét xử vụ án hình sự thơng qua các quy định chung về xét xử. ............. 71


2.4.1. Bảo đảm quyền con người trong việc quy định giới hạn xét
xử............................................................................................................ 71
2.4.2. Bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng thông
qua thủ tục kháng cáo. ........................................................................... 73
2.5.


Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng thơng qua việc
quy định trình tự tố tụng tại phiên tịa Hình sự. ..................................... 75

2.5.1. Thủ tục trước khi mở phiên tòa.............................................................. 76
2.5.2. Thủ tục tại phiên tòa. ............................................................................. 77
Chƣơng III: Thực tiễn bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời tham gia
tố tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và một số giải
pháp nâng cao. ...................................................................................... 89
3.1.

Thực tiễn bảo đảm quyền con người của người tham gia tố
tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. ............................................ 89

3.1.1.

Những kết quả đạt được của việc bảo vệ người tham gia tố
tụng trong hoạt động xét xử. ................................................................... 89

3.1.2. Những hạn chế về bảo đảm quyền con người của người tham
gia tố tụng trong hoạt động xét xử. ......................................................... 95
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc bảo đảm quyền
con người của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử
VAHS. .................................................................................................... 109
3.2.

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền
con người của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự. .......................................................................................... 117

3.2.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự. ..................................... 117

3.2.2. Các giải pháp khác nhằm nâng cao việc bảo đảm quyền con
người của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử hình
sự ............................................................................................................. 125


Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BLHS :
2. BLTTHS:
3. CQĐT:
4. CQTHTT:
5. NTHTT:
6. HĐXX:
7. TAND:
8. TTHS:
9. VAHS:
10. VKS:
11. VKSNDTC:
12. XHCN:

Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra
Cơ quan tiến hành tố tụng
Người tiến hành tố tụng
Hội đồng xét xử
Tịa án nhân dân

Tố tụng hình sự
Vụ án hình sự
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Bảo đảm quyền con người là một chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước
Việt Nam. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân tiến hành Cách mạng
Tháng Tám thành cơng, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay buổi đầu khai sinh
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định tơn trọng các quyền công dân và quyền con người trong Nhà nước Việt Nam mới:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng
ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự
do và mưu cầu hạnh phúc”.
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) của
dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ
không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà
còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người trong tố tụng hình sự (TTHS) mà tiêu
biểu là trong hoạt động xét xử với đặc tính quyền lực nhà nước rõ nét, lại là quyền dễ
bị xâm phạm và bị tổn thương nhất; hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động
chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của cơng dân. Chính vì
vậy, hoạt động TTHS, trong bất cứ nhà nước nào đều được xếp vào “nhóm nguy cơ
cao” khi người ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con người. Đứng trước xu thế toàn cầu
về quyền con người và đảm bảo nhân quyền trong tư pháp thì vấn đề bảo đảm quyền

con người trong TTHS nói chung, quyền con người của người tham gia tố tụng trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự (VAHS) nói riêng là một vấn đề mang tính thời sự và
cấp thiết. Hiệu quả của việc thực hiện vấn đề này trở thành một trong những thước đo
mức độ tiến bộ và dân chủ của mỗi xã hội, mỗi chế độ nhà nước.
Theo tinh thần cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ chính trị và Nghị quyết 49 ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 định hướng thì vấn đề bảo đảm quyền con
người của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử VAHS trở thành một trong
những vấn đề được ngành tư pháp và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng hàng đầu hiện
nay.
2.

Tình hình nghiên cứu


Nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người trong TTHS phải giải quyết một
khối lượng công việc khổng lồ. Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng trong hoạt
động xét xử VAHS là một đề tài có tính mới, mang ý nghĩa thời sự và có tính ứng dụng
cao. Tính tới thời điểm hiện tại, theo hiểu biết khiêm tốn của tác giả thì số lượng cơng
trình nghiên cứu về đề tài này là rất ít, thậm chi là rất hiếm. Hiện nay chỉ mới thấy
Luận văn cử nhân “Bảo vệ người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình
sự” năm 2007 của tác giả Nguyễn Thị Thường. Cịn lại, các cơng trình nghiên cứu các
đề tài có liên quan đến vấn đề này của các tác giả nổi tiếng cũng không phải là nhiều,
có thể kể đến như: bài viết chuyên khảo về “Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và định hướng tiếp tục hoàn thiện” của TS.Võ Thị Kim
Oanh; “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong tố tụng hình sự”
của PGS.TS.Nguyễn Thái Phúc; ThS. Đinh Thế Hưng với bài viết “Bảo vệ quyền con
người trong tố tụng hình sự”… so với đề tài tác giả đang nghiên cứu, những đề tài kể
trên hoặc ở góc độ rộng hơn, hoặc hẹp hơn.
Từ đó, có thể thấy được, tính tới thời điểm hiện tại, chưa có một cơng trình

nghiên cứu toàn diện và cụ thể nào về đề tài bảo đảm quyền con người của người tham
gia tố tụng trong hoạt động xét xử VAHS. Do đó mà việc nghiên cứu, tìm hiểu về đề
tài này là yêu cầu khách quan của cơng tác nghiên cứu.
3.
Mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và đối tƣợng nghiên
cứu của đề tài
 Mục đích nghiên cứu
Việc tìm hiểu, nghiên cứu trên cơ sở lý luận của vấn đề bảo đảm quyền con
người của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử VAHS; phân tích đánh giá
các quan điểm của pháp luật, những hạn chế về bảo đảm quyền con người của người
tham gia tố tụng trong thực tiễn xét xử và nguyên nhân của những hạn chế đó nhằm
hướng đến mục đích là đưa ra những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hơn những quy
định của pháp luật TTHS và nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ quyền con người
của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử VAHS.
 Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Hoạt động xét xử VAHS theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
2003 gồm có xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm. Tuy nhiên, xét xử tái thẩm và giám đốc thẩm chỉ là thủ tục xét xử đặc
biệt chứ không phải cấp xét xử thứ ba nên tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài


này ở việc tập trung tìm hiểu các vấn đề ở khía cạnh lí luận và thực tiễn liên quan đến
việc bảo vệ quyền con người của người tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm và phúc
thẩm.
Theo quy định của pháp luật TTHS, người tham gia tố tụng trong hoạt động xét
xử gồm có: bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người bào chữa, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích
của đương sự, người giám định, người phiên dịch. Nhưng do bị giới hạn bởi phạm vi
nghiên cứu của một luận văn cử nhân và xuất phát từ tính quan trọng, phổ biến của
việc bảo vệ quyền con người của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử VAHS

nên tác giả chỉ đề cập đến các chế định pháp luật cũng như các vấn đề thực tiễn có liên
quan đến việc bảo đảm quyền của bị cáo, người bị hại, người bào chữa, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch để nêu bật ý nghĩa nền tảng của công tác
bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử VAHS.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được tác giả nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về Nhà nước và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền XHCN, về bảo đảm quyền con
người, quyền công dân…
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: liệt kê, phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, quy nạp… để tiếp cận và
làm sáng tỏ nội dung của đề tài ở cả mặt lí luận và thực tiễn.
5.

Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài

Dưới góc độ là một cơng trình nghiên cứu khoa học ở phạm vi luận văn cử
nhân, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ trong việc giải quyết về mặt lí luận
một trong những nội dung mang tính thời sự và tồn cầu là vấn đề bảo đảm quyền con
người cũng như một trong những mục tiêu của cải cách tư pháp ở nước ta là bảo vệ
người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử VAHS.
Về mặt thực tiễn, luận văn chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp luật
TTHS hiện hành cũng như những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật với vấn đề bảo
đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong thực tiễn xét xử. Từ đó, tác giả
đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của vấn đề trên.



6.

Cơ cấu

Nếu không kể đến phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh
mục tài liệu tham khảo thì kết cấu của luận văn gồm các phần chính sau đây:
Chương I: Nhận thức chung về quyền con người của người tham gia tố tụng trong hoạt
động xét xử hình sự.
Chương II: Pháp luật thực định về bảo đảm quyền con người của người tham gia tố
tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự.
Chương III: Thực tiễn bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự và một số giải pháp nâng cao.


Chƣơng I:
NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI THAM GIA
TỐ TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÌNH SỰ
1.1.

Khái niệm về ngƣời tham gia tố tụng

1.1.1.

Định nghĩa về ngƣời tham gia tố tụng
Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết VAHS theo quy định của pháp

luật, trong đó bao gồm tồn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT),
người tiến hành tố tụng (NTHTT) và của những cá nhân, cơ quan, tổ chức khác tham
gia vào quá trình này. Những cơ quan, tổ chức, cá nhân đó được gọi là người tham gia
tố tụng. Nói cách khác, người tham gia tố tụng chính là những cá nhân, cơ quan tổ

chức khác cũng đóng vai trò là chủ thể của pháp luật TTHS bên cạnh CQTHTT và
NTHTT.
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã kế thừa hầu hết các quy định về người
tham gia tố tụng trong chương III của BLTTHS 1988 (bao gồm người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự, người giám định và người phiên dịch; quyền và nghĩa vụ của họ).
Mặc khác, theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính
trị về cải cách tư pháp thì BLTTHS 2003 cũng đã quy định chặt chẽ hơn về quyền và
nghĩa vụ của người tham gia tố tụng; tăng thêm các quyền hạn cho người bào chữa như
tham gia hỏi cung bị can, tranh luận tại phiên tòa; quy định về trách nhiệm của cơ quan
và NTHTT trong vấn đề đảm bảo việc thực hiện quyền của người tham gia tố tụng…
trong các quy định từ Điều 48 đến Điều 62.

1


Tuy nhiên cho tới hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định rõ
ràng và cụ thể khái niệm về người tham gia tố tụng. Pháp luật TTHS của Việt Nam
cũng giống như pháp luật TTHS của Đức và một số quốc gia khác: khơng có định
nghĩa chung về người tham gia tố tụng và cũng chỉ dừng lại ở mức liệt kê những người
tham gia tố tụng quy định quyền và nghĩa vụ pháp lí của họ.
Nhìn chung, từ thực tiễn của quá trình TTHS, ta có thể hiểu nơm na người tham
gia tố tụng là người là người cùng với CQTHTT và NTHTT có những hoạt động để
giải quyết VAHS theo những trình tự luật định. Dù vậy, việc đi đến thống nhất về mặt
câu chữ và thuật ngữ pháp lí cho khái niệm người tham gia tố tụng là hoàn toàn cần
thiết mà pháp luật hiện hành chưa giải quyết được vấn đề này nên dẫn đến nhiều hệ lụy
trong việc xác định tư cách của người tham gia tố tụng cũng như vấn đề bảo đảm
quyền lợi của họ.
Hầu hết các khái niệm về người tham gia tố tụng hiện nay đều xuất phát từ góc

độ quyền và nghĩa vụ. Theo Từ điển Thuật ngữ pháp lí thì “Người tham gia TTHS: bị
can, bị cáo, người bào chữa, người bị tạm giữ, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới vụ án, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự; người làm chứng, người giám hộ, người phiên dịch. Bộ luật tố tụng hình sự
quy định người tham gia TTHS có quyền và nghĩa vụ trong quá trình điều tra truy tố và
xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa
án có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người
tham gia tố tụng”[63].
Theo tác giả Lại Văn Trình trong luận án tiến sĩ Luật học “Bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” thì: người
tham gia tố tụng là người “mà quyền và lợi ích của họ có liên quan đến vụ án hoặc đến
quá trình tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm

2


chứng…”[48-tr.28]. Theo tập bài giảng luật TTHS thì “Người tham gia tố tụng là các
cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội và các cá nhân có năng lực
pháp lý để tham gia vào các quan hệ pháp luật hình sự, có quyền và nghĩa vụ tố tụng
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”[14-tr.93].
Như vậy, nghiên cứu về người tham gia tố tụng trong lĩnh vực TTHS có nhiều
khái niệm và định nghĩa khác nhau. Sự khác nhau này xuất phát từ những nhận thức và
mục đích nghiên cứu khơng giống nhau. Dù tồn tại những khác biệt trong các định
nghĩa nhưng tựu chung, theo tác giả, có thể đồng nhất chúng ở cách hiểu: người tham
gia tố tụng có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực pháp lý và tham gia vào các
quan hệ pháp luật TTHS với những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của
pháp luật TTHS.
1.1.2.


Đặc điểm ngƣời tham gia tố tụng
Khái niệm người tham gia tố tụng ở trên phản ánh các thuộc tính pháp lý đặc

trưng của từng loại đối tượng được quy định tại chương IV BLTTHS và đặc trưng cho
địa vị tố tụng của họ.
Tuy cùng góp phần vào việc giải quyết VAHS nhưng do tư cách pháp lí khác
nhau nên người tham gia tố tụng cũng có những đặc điểm khác biệt so với NTHTT.
Những đặc điểm đặc trưng của người tham gia tố tụng bao gồm:
Thứ nhất, về mặt năng lực pháp lý, người tham gia tố tụng phải là những tổ
chức hoặc cá nhân có năng lực pháp lý để tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS. Như
vậy, khơng phải bất kì ai cũng có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS với
tư cách là người tham gia tố tụng mà tư cách người tham gia tố tụng chỉ được đặt ra đối
với những cá nhân hay tổ chức đáp ứng được điều kiện: có năng lực pháp lý để tham
gia vào quan hệ pháp luật TTHS theo luật định.

3


Thứ hai, người tham gia tố tụng là một chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS.
Pháp luật đã quy định cho từng loại người tham gia tố tụng những quyền và nghĩa vụ
riêng biệt so với các chủ thể khác của quan hệ này để bảo vệ lợi ích cho chính mình
hay cho người khác. Mỗi người tham gia tố tụng có một địa vị pháp lý nhất định và có
quan hệ đối với các CQTHTT và NTHTT. Trong mối tương quan đó, người tham gia
tố tụng sẽ được các chủ thể khác của quan hệ pháp luật tố tụng bảo đảm cho quyền
được giải thích và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Nhờ những quy định về
quyền mà người tham gia tố tụng biết mình được làm gì và làm ra sao… để có thể chủ
động hơn trong khi tham gia tố tụng và tạo được ý thức pháp luật. Bên cạnh việc quy
định về quyền, pháp luật TTHS cũng quy định về những nghĩa vụ tương ứng cho người
tham gia tố tụng. Tất nhiên với những tư cách pháp lí khác nhau thì mỗi người tham
gia tố tụng cũng phải thực hiện những nghĩa vụ khác nhau, ví dụ như đối với người bị

hại thì việc khai báo về các tình tiết mà mình biết của vụ án vừa là quyền vừa là nghĩa
vụ, nếu từ chối khai báo mà khơng có lí do chính đáng thì có thể chịu trách nhiệm hình
sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự (BLHS) 1999 (khoản 4 Điều 51 BLTTHS); trong
khi đó, đối với bị cáo - người biết khá rõ các tình tiết mấu chốt của vụ án thì việc khai
báo khơng phải là nghĩa vụ của họ vì nó được ghi nhận thành quyền trình bày lời khai
theo Điều 10 của BLTTHS 2003: “…bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng
minh là mình vô tội”. Nghĩa vụ là điều bắt buộc phải thực hiện và trong pháp luật
TTHS thì đa phần các nghĩa vụ ln có các biện pháp cưỡng chế đi kèm để đảm bảo
việc thực hiện; cịn quyền thì việc thực hiện hay khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của chủ thể có quyền. Dù vậy, người tham gia tố tụng vẫn có nghĩa vụ chung đó là
nghĩa vụ tuân thủ các quy định trong BLTTHS.
Thứ ba, người tham gia tố tụng là những người được quy định trong BLTTHS
nên người tham gia tố tụng phải chịu sự điều chỉnh và chi phối bởi những quy định
này. Người tham gia tố tụng theo quy định tại chương IV BLTTHS 2003 bao gồm bị

4


can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người
làm chứng, người phiên dịch, người giám định xuất hiện trong quá trình giải quyết vụ
án với những vai trò khác nhau. Tuy nhiên, trong các quy định của mình, pháp luật tố
tụng đã tác động đến người tham gia tố tụng thông qua việc chỉ ra những quyền và
nghĩa vụ để họ thực hiện. Qua đó mà các CQTHTT, NTHTT có thể xác định được sự
thật khách quan của vụ án, việc công tố và xét xử có thể diễn ra trên cơ sở đúng người
đúng tội; tính nghiêm minh, cơng bằng và nhân đạo của pháp luật được đảm bảo.
Từ các đặc điểm trên có thể thấy được người tham gia tố tụng đóng vai trị quan
trọng trong việc giải quyết VAHS. Việc tham gia của họ trong hoạt động TTHS góp
phần bảo vệ công lý và đảm bảo công bằng xã hội.
1.1.3.


Phân loại ngƣời tham gia tố tụng
Người tham gia tố tụng theo chương IV BLTTHS được liệt kê thành 12 loại

người khác nhau: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch. Hiện nay, có nhiều quan điểm về việc phân chia 12 loại người này như: phân chia
căn cứ vào thời điểm tham gia tố tụng, phân chia căn cứ vào quyền hạn và nghĩa vụ khi
tham gia tố tụng, phân chia căn cứ vào vị trí vai trị khi tham gia tố tụng... Tuy nhiên,
theo quan điểm chủ quan của tác giả thì cách phân chia căn cứ theo vị trí, vai trị của họ
trong tố tụng như các tác giả của Tập bài giảng tố tụng hình sự của trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh năm học 2008-2009 là hợp lí nhất[14-tr.93-122]. Theo
đó, người tham gia tố tụng được chia thành ba nhóm:

5


Nhóm 1: nhóm người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích trong vụ án bao gồm:
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Nhóm 2: nhóm người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho người
khác (những người thuộc nhóm 1) và góp phần bảo vệ công lý bao gồm: người bào
chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự.
Nhóm 3: nhóm người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý: người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch.
Những người này có thể khơng cùng lúc xuất hiện trong một giai đoạn hoặc một
hoạt động của quy trình tố tụng vì ở từng giai đoạn, từng hoạt động thì yêu cầu những
người khác nhau để đáp ứng việc giải quyết vụ án, và có sự chuyển hóa tư cách địa vị
tố tụng. Có loại người tham gia tố tụng sẽ xuất hiện gần như xuyên suốt các giai đoạn

tố tụng nhưng cũng có loại người tham gia tố tụng chỉ xuất hiện ở một giai đoạn nhất
định nào đó.Ví dụ như tham gia vào hoạt động xét xử thì tư cách của người bị tạm giữ
hay bị can sẽ không còn mà chỉ xuất hiện bị cáo bên cạnh người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người bảo
vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người phiên dịch.
Vị trí vai trị của ngƣời tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử vụ

1.1.4.
án hình sự

Từ việc phân loại ở trên có thể thấy được khi tham gia vào hoạt động xét xử
VAHS, người tham gia tố tụng sẽ có vị trí, vai trị khác nhau tùy theo tư cách tham gia
tố tụng của họ. Đó là:

6


Đối với nhóm 1- nhóm người có quyền và nghĩa vụ pháp lí liên quan đến vụ ánmặc dù khơng phân tích vị trí, vai trị của từng người trong tố tụng nhưng có thể thấy
rằng vai trị của họ trong tố tụng là ngoài việc tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của mình thì họ cịn giúp CQTHTT, NTHTT hoàn thành nhiệm vụ của TTHS là giải
quyết tốt vụ án, đảm bảo sự công bằng của pháp luật là xét xử đúng người đúng tội,
công tác xét xử khách quan và dân chủ.
Nhóm 2- nhóm người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho người
khác và góp phần bảo vệ cơng lý (bảo vệ quyền lợi cho bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự…) gồm có người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi cho
đương sự. Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo ủy
quyền mời hoặc nhờ tham gia tố tụng nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo về mặt pháp lý. Như vậy, khi tham gia tố
tụng, người bào chữa đã hình thành quan điểm vụ án theo hướng có lợi cho thân chủ

mình. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng dù thực hiện chức năng bảo vệ thân chủ thì người
bào chữa vẫn phải đảm bảo công lý, tôn trọng phạm luật. Người bảo vệ quyền lợi cho
đương sự là người được CQTHTT chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đến
VAHS. Luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc những người đáp ứng được những điều
kiện cần thiết được Tòa án chấp thuận thì có thể trở thành người bảo vệ quyền lợi cho
đương sự tại phiên xét xử. Cũng như người bào chữa, họ tham gia việc bảo vệ quyền
lợi cho đương sự trong sự tuân thủ những quy định của pháp luật TTHS nhằm đảm bảo
cho việc xét xử diễn ra cơng bằng, khách quan và dân chủ.
Đối với nhóm 3- nhóm người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý (người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch) là những người tham gia tố tụng theo yêu
cầu của CQTHTT. Sự tham gia của họ vào hoạt động xét xử là một nghĩa vụ phục vụ
cho việc xác minh sự thật vụ án nhằm làm cho công tác xét xử đạt được hiệu quả, bản

7


án được tuyên sẽ mang tính thuyết phục cao hơn chứ khơng phải họ tham gia vì quyền
lợi thiết thân trực tiếp của họ.
Sự vơ tư của hai nhóm người này là điều kiện quan trọng để làm sáng tỏ sự thật
vụ án, đảm bảo cơng lí được thực thi, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của
những người tham gia tố tụng khác như bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi liên
quan,… đồng thời qua đó có thể đạt đến được tính nhân đạo và khoan hồng trong việc
quyết định hình phạt và ra bản án khi xác định được tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.
Từ việc phân tích trên, chúng ta có thể thấy được vai trò của người tham gia tố
tụng trong quá trình giải quyết VAHS. Họ là vừa là đối tượng tác động cả các hoạt
động trong tố tụng, vừa là chủ thể của các hoạt động đó. Nhờ họ mà các CQTHTT,
NTHTT tìm ra được sự thật khách quan của vụ án, giúp cơ quan xét xử đưa ra kết luận
bị cáo có tội hay khơng có tội, giúp cơ quan công tố và giám sát hoạt động tố tụng biết
được q trình giải quyết vụ án có cơng bằng, khách quan và dân chủ hay không. Song,

BLTTHS lại chưa cụ thể hóa được vị trí vai trị của từng người tham gia tố tụng nên
còn dẫn đến nhiều bất cập trong việc thực thi pháp luật TTHS. Vì vậy, để bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng thì pháp luật cần phải có những
quy định chi tiết và thống nhất về vấn đề nêu trên.
Khái niệm về quyền con ngƣời của ngƣời tham gia tố tụng trong

1.2.
xét xử hình sự
1.2.1.

Khái niệm chung về quyền con ngƣời
Bàn về quyền con người (hay còn gọi nhân quyền) có nhiều quan niệm khác

nhau. Trường phái pháp luật tự nhiên cho rằng: quyền con người là đặc quyền tự nhiên.
Đặc quyền tự nhiên này do pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực định.
“Quan niệm khác xem con người cũng như quyền con người trong tổng hoà các mối
quan hệ xã hội. Theo quan niệm này, nhân quyền là một giá trị nhân loại, đồng thời có

8


tính lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung mới qua các thời
đại khác nhau”[20-tr.10;12].
Quyền con người (tiếng Anh: Human rights) là những quyền tự nhiên của con
người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Quyền con người
được xem là một trong mười sáng kiến làm thay đổi thế giới, cùng với nông nghiệp,
phân tâm học, thuyết tương đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, World Wide Web, xà phịng,
số khơng, và lực hấp dẫn. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson
đã đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ. Các
chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản mà Jefferson

đã nêu, mà chính các chính phủ đó được lập ra để bảo vệ các quyền tự do đó – các
quyền mà mọi cá nhân hiển nhiên có do sự tồn tại của mình. Theo quan điểm của các
nhà triết học thời đại khai sáng của thế kỷ XVII và XVIII thì các quyền khơng thể tước
bỏ được là các quyền tự nhiên do Tạo hóa ban cho họ. Các quyền này không bị phá
hủy khi xã hội dân sự được thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào có thể
xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” các quyền này. Các quyền không thể tước bỏ bao gồm
quyền được sống, quyền tự do (các quyền tự do ngôn luận và thể hiện, quyền tự do tín
ngưỡng và nhận thức, quyền tự do lập hội) quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền được
bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt kê đầy đủ các
quyền mà các cơng dân có được trong một nền dân chủ. Các xã hội dân chủ đồng thời
thừa nhận các quyền dân sự như quyền được xét xử cơng bằng, và cịn lập nên các
quyền chủ chốt mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải duy trì. Vì các quyền này
tồn tại khơng phụ thuộc vào chính phủ, do đó chúng khơng thể bị luật pháp bãi bỏ cũng
như không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào đó. Ví dụ như điều sửa
đổi bổ sung đầu tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ không đưa ra quyền tự do tín ngưỡng hay
tự to báo chí cho dân chúng. Điều sửa đổi bổ sung đó nghiêm cấm Quốc hội thông qua
các luật vi phạm tới tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và quyền hội họp ơn hịa. Nhà

9


sử học Leonard Levy đã phát biểu: “Các cá nhân có thể tự do khi chính phủ của họ
khơng tự do”. Các nội dung chi tiết và các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền con
người cần phải thay đổi tùy theo xã hội, nhưng tất cả các nền dân chủ đều được giao
trọng trách trong việc xây dựng các cấu trúc xã hội lập hiến, lập pháp để bảo đảm cho
các quyền con người đó[57].
Học thuyết Mác-Lê Nin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư tưởng
nhân văn chân chính nhất của lồi người, là sự kế thừa một cách biện chứng giá trị tinh
hoa của nhân loại về con người và quyền con người. Các Mác đã xuất phát từ con
người là một thực thể thống nhất, một “sinh vật-xã hội ”. Do đó quyền con người là sự

thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” và “quyền xã hội.”[19-tr.14].
Ngày mùng 10 tháng 12 năm 1948, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc đã long
trọng tuyên bố bản Tuyên ngôn quyền con người... Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử
nhận loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền
con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Khoản 1 và 2 của bản tuyên ngôn nhân quyền
đã khẳng định rằng: Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng trong phẩm giá và
quyền lợi, và mỗi một cá nhân, không phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính, ngơn
ngữ, tơn giáo, chính kiến, nguồn gốc dân tộc hay xã hội... đều được hưởng mọi quyền
lợi và tự do, được công bố trong bản tuyên ngôn. Trong 21 khoản đầu của tun ngơn,
chúng ta có thể kể ra những quyền cơ bản sau đây: quyền được sống, được tự do và
được đảm bảo an ninh cá nhân, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị tra tấn
hay chịu những hình phạt độc ác, vơ nhân đạo hay chà đạp phẩm giá con người, quyền
được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, quyền
khơng bị bắt giữ, giam cầm hay đày ải trái phép; quyền không bị can thiệp vào đời
sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, quyền được đi lại, quyền được cư trú, quyền
được một quốc tịch, quyền được kết hôn và lập gia đình, quyền được sở hữu, quyền

10


được tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do hội
họp.
Theo Từ điển Tiếng Việt 1992, quyền là: “điều mà pháp luật hoặc xã hội công
nhận cho được hưởng, được làm, được địi hỏi”. Từ đó, có thể hiểu quyền con người là
những quyền mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho họ được hưởng.
Như vậy, trong tư tưởng nhân loại hiện đại thì con người và những gì thuộc về
con người là những giá trị, mục đích cao cả nhất đối với mọi tổ chức và tất cả các xã
hội. Khái niệm quyền con người là một khái niệm mở bởi nó có thể thay đổi theo sự
phát triển của con người và xã hội lồi người. Cũng vì lí do này mà việc bảo đảm thực
hiện quyền con người là một quá trình liên tục và phức tạp gắn chặt với từng hoàn cảnh

và điều kiện cụ thể. Nhưng tựu chung lại, để quyền con người có thể được nhìn nhận là
một giá trị cao cả thì Nhà nước phải là chủ thể đầu tiên có trách nhiệm thực hiện quyền
con người bằng hệ thống pháp luật dân chủ và tiến bộ. Dưới góc độ pháp luật TTHS,
bảo đảm quyền con người là vấn đề mang tính đa diện và phức tạp, vì thế để nâng cao
hiệu quả vấn đề bảo đảm quyền con người trong TTHS thì điều kiện cần là phải nắm
được bản chất và đặc điểm của quyền con người.
Về bản chất, quyền con người là những vấn đề thuộc riêng về con người nên
bản chất của quyền con người xuất phát từ chính bản chất của con người. Con người là
một thực thể tự nhiên-xã hội, là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội, cho nên
quyền con người cũng vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội. Do con người là
một thực thể sinh học xã hội, cho nên quyền con người vừa mang tính phổ biến vừa
mang tính đặc thù. Tính phổ biến của quyền con người có nghĩa quyền con người được
áp dụng phổ biến mọi nơi, cho mọi đối tượng. Tính đặc thù của quyền con người có
nghĩa, quyền này ở mỗi quốc gia, mỗi lãnh thổ do trình độ phát triển khác nhau mà có
đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện của quốc gia, lãnh thổ đó. Quyền con người
mang tính xã hội, nên trong xã hội có sự phân chia giai cấp nên nó vừa mang tính giai

11


cấp sâu sắc, vừa là một giá trị của nhân loại. Trong Nhà nước XHCN có sự kết hợp hài
hồ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợí ích tồn xã hội. Lợí ích cá nhân là
mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, đồng thời bảo đảm lợi ích của tập thể, của
cả cộng đồng xã hội. Tức là quyền con người phải được đặt trong mối quan hệ với
nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm
bảo lợí ích xã hội.
Như vậy, “quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người
mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hố xã hội nhất định.
Quyền con người vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội, vừa mang tính phổ
biến, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính nhân loại và thống

nhất với quyền dân tộc cơ bản”[44-tr.14].
Quyền con người có mối liên hệ mật thiết với quyền công dân. Các Mác cho
rằng quyền con người và quyền công dân luôn nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có
mối quan hệ biện chứng với nhau. “Quyền cơng dân chính là quyền con người trong
một xã hội cụ thể, trong một chế độ chính trị-xã hội nhất định với một nền pháp luật cụ
thể do Nhà nước đó thừa nhận quy định”[19-tr.24].
Hiến pháp 1992 của nước ta đã ghi nhận hai nguyên tắc đặc biệt quan trọng
nhằm bảo đảm quyền con người được thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước và
cơng dân đó là:
Ngun tắc thứ nhất: các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội
phải được tơn trọng (Điều 50 Hiến pháp).
Nguyên tắc thứ hai: Nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của công dân (Điều 51 Hiến pháp).

12


Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách
phát triển kinh tế - xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền
con người. Hiến pháp năm 1992, văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, đảm bảo mọi
cơng dân có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng trước
pháp luật; quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội; quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú trên đất nước Việt Nam; quyền khiếu nại
và tố cáo; quyền lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe... khơng phân biệt giới tính, sắc
tộc, tơn giáo. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các quyền
này, phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về nhân quyền[2].
Về đặc điểm, tác giả hoàn toàn nhất trí với quan điểm quyền con người mang
một số đặc điểm cơ bản được thống nhất thừa nhận mà T.S Luật học Võ Thị Kim Oanh
đã có lần tổng kết như sau[43-tr32-33]:
-


Quyền con người là những giá trị vừa gắn liền với cá nhân con người,

vừa gắn liền với lợi ích quốc gia dân tộc. Bởi, con người là công dân của một nhà
nước, là thành viên của một dân tộc, cộng đồng và không ai sống riêng rẻ ngồi cộng
đồng.
-

Quyền con người vừa mang tính chất tự nhiên, vừa mang tính xã hội vì

con người là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội. Quyền con người xuất phát
từ đặc điểm tự nhiên của con người nhưng con người lại tồn tại trong xã hội nên quyền
con người cũng mang tính xã hội và bị chi phối bởi các đặc tính của xã hội mà con
người tồn tại.
-

Quyền con người vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù. Vấn

đề bảo vệ quyền con người là vấn đề chung của toàn cầu nhưng mỗi quốc gia ghi nhận
và thực hiện vấn đề này ở những mức độ và cách thức khác nhau phụ thuộc vào tình
hình kinh tế, xã hội, chính trị của quốc gia đó.

13


×