Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Tư trưởng triết học mạnh tử đặc điểm và ý nghĩa lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.28 KB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM DUY BÌNH

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM DUY BÌNH

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM ĐÌNH ĐẠT

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu độc lập của
bản thân, dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Đình Đạt. Nội dung trong luận
văn là trung thực và chưa được tác giả nào cơng bố.
Tác giả

PHẠM DUY BÌNH


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ ....................................................... 8
1.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HĨA XÃ
HỘI HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ ................................. 8

1.1.1. Đặc điểm kinh tế, chính trị - xã hội Trung Quốc thời Xuân thu Chiến quốc....................................................................................................... 8
1.1.2. Sự phát triển văn hóa, khoa học Trung Quốc thời Xuân Thu Chiến Quốc.................................................................................................... 17
1.1.3. Cuộc đời và sự nghiệp – tiền đề chủ quan hình thành tư tưởng triết
học Mạnh Tử ................................................................................................. 24
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ ....30

1.2.1. Vấn đề thế giới và con người trong kinh sách cổ Trung Quốc với việc
hình thành tư tưởng triết học Mạnh Tử ......................................................... 30
1.2.2. Tư tưởng triết học Khổng Tử - tiền đề trực tiếp hình thành tư tưởng
triết học Mạnh Tử .......................................................................................... 38
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 48
Chương 2: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM, GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý
NGHĨA LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ ................... 51

2.1. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ ............. 51

2.1.1. Nội dung tư tưởng triết học Mạnh Tử ................................................. 51
2.1.2. Những đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng triết học Mạnh Tử .............. 77
2.2. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
MẠNH TỬ ................................................................................................... 94


2.2.1. Giá trị trong tư tưởng triết học Mạnh Tử ............................................ 94
2.2.2. Hạn chế trong tư tưởng triết học Mạnh Tử.. ..................................... 106
2.3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ ....... 110
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 124
PHẦN KẾT LUẬN CHUNG .................................................................... 127
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 131


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ quá độ từ xã hội chiếm hữu nô lệ
suy tàn sang xã hội phong kiến sơ kỳ ở Trung Hoa cổ đại. Chính trong thời
đại lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra những vấn đề triết học,
chính trị xã hội, luân lý đạo đức, kinh tế, pháp luật, qn sự, ngoại giao…
kích thích lịng người, khiến các bậc tài sĩ đương thời quan tâm lý giải, để
tìm ra các phương pháp giải quyết “cứu đời, cứu người”, đã làm xuất hiện
nhiều nhà tư tưởng vĩ đại và các trường phái triết học lớn. Hầu hết, họ đứng
trên lập trường của giai cấp mình, tầng lớp mình mà phê phán xã hội cũ, xây
dựng xã hội tương lai và tranh luận, phê phán, đả kích lẫn nhau. Bởi vậy lịch
sử gọi đây là thời kỳ “Bách gia chư tử”, “Bách gia tranh minh”. Thời kỳ

này, đánh dấu sự ra đời của Nho giáo do Khổng Tử sáng lập, Mạnh Tử được
xem là bậc “Á thánh” của hệ tư tưởng này. Mạnh Tử là một trong những nhà
tư có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ và cho đến
cả ngày nay. Tư tưởng triết học Mạnh Tử chứa đựng những nội dung rất lớn,
về chính trị - xã hội, giáo dục đạo đức, đặc biệt là tư tưởng “nhân nghĩa” mà
hầu như mọi cuốn sách về lịch sử triết học Trung Quốc đều đề cập. Phải nói
rằng, loại trừ những yếu tố duy tâm thần bí thì tư tưởng triết học Mạnh Tử
chứa đựng nhiều yếu tố đạo đức tích cực, hướng con người tới sự thống nhất
chân - thiện - mỹ.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà trên lĩnh vực tư tưởng, sự
nối tiếp giữa quá khứ và hiện tại, sự giao lưu giữa Đông và Tây trở nên phổ
biến cấp thiết. Chính vì thế, việc đánh giá vai trị của Nho giáo nói chung, tư
tưởng triết học của Mạnh Tử nói riêng, trong lịch sử tư tưởng và ảnh hưởng
của nó trong xã hội ngày nay có một ý nghĩa to lớn. Trải qua hơn hai nghìn
năm trên đất Việt Nam, những đánh giá về Nho giáo, về tư tưởng triết học


2

của Mạnh Tử ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử có khác nhau. Chính vì lẽ
đó, chúng ta cần phải có cách nhìn nhận, khách quan về hệ tư tưởng Nho
giáo nói chung, triết học của Mạnh Tử nói riêng, chỉ ra những điểm tích cực
để tiếp thu, kế thừa nhằm phục vụ thiết thực cho sự phát triển của đất nước
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và tồn cầu hóa hiện nay. Đặc
biệt, đối với mặt tích cực trong tư tưởng triết học của Mạnh Tử vẫn được
Đảng và Nhà nước ta chắt lọc kế thừa, bởi nó là sự biểu hiện tư tưởng “nhân
nghĩa” trên nhiều lĩnh vực, kinh tế, chính trị - xã hội, giáo dục.
Từ lâu, Đảng ta đã đề ra việc kế thừa nền văn hóa truyền thống và tiếp
thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng tiếp thu tinh hoa văn hóa

nhân loại, trong đó có những yếu tố tích cực của học thuyết Khổng – Mạnh
trên lập trường mácxít vì sự nghiệp của cách mạng Việt Nam. Đối với nước
ta hiện nay, sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân đang đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn mang tính
cấp bách cần thiết. Cơng cuộc ấy, địi hỏi chúng ta phải biết tiếp thu những
tinh hoa tri thức nhân loại về xây dựng nhà nước, tổ chức xã hội, xây dựng
pháp luật, cũng như xây dựng đạo đức mới.
Đề cập tinh thần trên, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
đã rút ra bài học sau ba mươi năm đổi mới đó là “Trong quá trình đổi mới
phải chủ động, khơng ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa phát huy truyền thống dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với
Việt Nam” [30, 69], v.v…
Với tất cả những lý do trên tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng triết học
Mạnh Tử - Đặc điểm và ý nghĩa lịch sử”, làm luận văn thạc sĩ triết học.


3

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng triết học Mạnh Tử có ý nghĩa thiết thực đối với sự phát triển
của xã hội truyền thống và xã hội hiện đại. Chính với ý nghĩa lí luận ấy mà
tư tưởng này đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước
cũng như thế giới. Mặc dù, cách tiếp cận nói chung khơng giống nhau và ý
kiến đánh giá của các nhà khoa học về tư tưởng triết học của Mạnh Tử còn
nhiều điểm khác nhau, song có thể khái qt các cơng trình theo những
hướng sau:
Hướng thứ nhất: Bao gồm các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Mạnh
Tử trong tổng thể nền văn hóa Trung Quốc và nhân loại. Tiêu biểu cho

hướng này là tác phẩm: Sử ký của Tư Mã Thiên, Nxb. Văn học, Hà Nội,
1988 với thiên Mạnh Tử, Tuân Khanh liệt truyện; Lịch sử văn minh Trung
Hoa của Will Durant (bản dịch của Nguyễn Hiến Lê), Nxb. Văn hóa Thơng tin, 2002 trong tác phẩm, chương I, phần II, mục 3: Mạnh Tử bậc
thầy của các vua chúa; Lịch sử văn hóa Trung Quốc do Đàm Gia Kiện (chủ
biên), (bản dịch của Trương Chính – Phan Văn Các - Thạch Giang), Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; cuốn Lịch sử văn hóa Trung Quốc, 2 tập, do
Trung tâm phương Đơng, Thượng Hải xuất bản năm 1993; Đại cương lịch
sử văn hóa Trung Quốc do Ngơ Vinh Chính, Vương Miện Q (chủ biên),
Nxb.Văn hóa - Thơng tin, xuất bản năm 1994… Những tác phẩm này các
tác giả nghiên cứu khá công phu với nội dung phong phú, đa dạng về lịch
sử, văn hóa, con người Trung Hoa. Trong đó, các cơng trình luôn dành phần
nghiên cứu về Mạnh Tử và tư tưởng của ơng.
Hướng thứ hai: Các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Mạnh Tử nằm
trong dòng phát triển của lịch sử triết học Trung Quốc. Trong những cơng
trình này, các nhà tư tưởng đều dành một phần trình bày, đánh giá tư tưởng
triết học của Mạnh Tử. Chính vì vậy, tư tưởng của Mạnh Tử thể hiện trong


4

các cơng trình này sâu sắc hơn, hồn thiện hơn. Trước hết, phải đề cập quan
tâm đến Khổng học đăng của Phan Bội Châu, Khai Trí, Sài Gịn, xuất bản
năm 1973, quyển II, chương I. Trong chương này, tác giả đã trình bày khá
kỹ tư tưởng Mạnh Tử từ tâm tính luận, đến tư tưởng chính trị, tư tưởng kinh
tế, tư tưởng giáo dục và chỉ ra sự khác biệt giữa tư tưởng Mạnh Tử với tư
tưởng Khổng Tử; Cuốn Nho giáo, quyển thượng của Trần Trọng Kim,
Trung tâm học liệu, Bộ giáo dục, Sài Gòn, 1971, với thiên VIII, tác giả đã
phân tích tồn bộ tư tưởng của Mạnh Tử bằng tinh thần đề cao, coi trong
từng câu chữ và ý tưởng của thánh hiền; Đại cương triết học Trung Quốc, 2
tập của Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Thanh niên, 2004; Lịch sử triết học

Trung Quốc, tập 1, của Phùng Hữu Lan (bản dịch của Lê Anh Minh), Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Lịch sử triết học phương Đông của Nguyễn
Đăng Thục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001; Đại cương lịch sử triết học
Trung Quốc do Dỗn Chính (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất
bản năm 1997 và tái bản có sửa chữa, bổ sung năm 2004; Lịch sử triết học
phương Đơng do Dỗn Chính (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội,
xuất bản năm 2015. Những tác phẩm này các tác giả đã làm rõ bối cảnh xã
hội thời Xuân thu – Chiến quốc với tư cách là tiền đề khách quan hình thành
các trường phái triết học ở Trung Quốc giai đoạn này, trong đó có triết học
của Mạnh Tử. Các tác giả cũng đã phân tích làm sáng tỏ tiền đề luân lý đạo
đức, nội dung học thuyết tính thiện, tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử ở
những mức độ khác nhau. Đặc biệt, cuốn Lịch sử triết học phương Đơng do
Dỗn Chính (chủ biên) đã phân tích khá sâu sắc tư tưởng triết học của Mạnh
Tử và có những ý kiến đánh giá có giá trị về tư tưởng này.
Hướng thứ ba: Các cơng trình nghiên cứu riêng biệt về tư tưởng triết
học Mạnh Tử đó là các tác phẩm và tài liệu của các tác giả chuyên nghiên
cứu, dịch thuật và giới thiệu riêng về tư tưởng triết học của ông. Bao gồm:


5

Cuốn Mạnh Tử (quyển thượng và quyển hạ), Đoàn Trung Cịn dịch, do Trí
Đức Tịng Thơ, Sài Gịn, 1950; Đây là hai tác phẩm chính thể hiện tồn bộ
tư tưởng triết học Mạnh Tử, tác giả nghiên cứu chủ yếu trong hai tác phẩm
này; Mạnh tử Quốc văn giải thích, Nguyễn Hữu Tiễn và Nguyễn Đôn Phục
dịch thuật, Nxb.Tp Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1992; Trong các tác phẩm
trên tác giả tiến hành dịch thuật và chú giải sách Mạnh Tử từ nguyên bản
tiến Hán, trong bộ Tứ thư. Cuốn Mạnh Tử của Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Văn
hóa, 1996, tác giả đã hệ thống lại tư tưởng của Mạnh Tử về tư tưởng chính
trị, tư tưởng kinh tế - xã hội, tính thiện, tồn tâm dưỡng tính và luyện khí.

Những cơng trình nghiên cứu một khía cạnh trong tư tưởng triết học
của Mạnh Tử, như học thuyết tính thiện, tư tưởng nhân nghĩa, vấn đề con
người … Các tác phẩm: Học thuyết tính thiện của Mạnh Tử với việc giáo
dục đạo đức ở nước ta hiện nay của Phạm Đình Đạt, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010; Bùi Xuân Thanh, “Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh
Tử và bài học lịch sử của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, 2007; Nguyễn Thị Giang, “Tư
tưởng Mạnh Tử về giáo duc, Luận văn thạc sĩ, 2015, v.v..
Ngồi ra, các bài viết về một khía cạnh trong tư tưởng triết học Mạnh
Tử còn thể hiện khá đa dạng trên một số tạp chí: Về học thuyết luân lý và
đạo đức của Nho giáo của Minh Anh – Tạp chí Triết số 8, tháng 8 – 2004;
“Góp phần tìm hiểu tư tưởng chính trị xã hội của Mạnh Tử” của Dỗn
Chính, Tạp chí Triết học số 7 – 2001; Mạnh Tử - Tư tưởng sách lược của
Trí Tuệ, Nxb. Mũi Cà Mau, 2003; “Từ tư tưởng “nhân nghĩa” đến đường lối
“nhân chính” trong học thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử” của Bùi
Xuân Thanh, Tạp chí Triết học, số 2 – 2008. Quan niệm của Nho giáo về
nghĩa và lợi của Hoàng Tăng Cường – Tạp chí Triết học số 4, tháng 8 –


6

2000; Nhân – nhân nghĩa và nhân chính trong “Luận ngữ” và Mạnh Tử của
Hồng Thị Bình – Tạp chí Triết học số 8, tháng 11 – 2001.
Những tác phẩm trên, tác giả đã phân tích khá sâu sắc triết học Mạnh
Tử, tập trung vào những tư tưởng về chính trị - xã hội, đạo đức nhân sinh, đề
cập nhân, nghĩa, mối tương quan giữa những phạm trù đạo đức.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu theo hướng mang đến sự rõ
ràng, hệ thống sâu sắc từng lĩnh vực, tư tưởng Mạnh Tử, nhất là triết lý nhân
sinh của ông. Từ đó, chúng ta có thể thấy vị thế của Mạnh Tử trong lịch sử
triết học Trung hoa cổ đại. Có thể nói, tư tưởng triết học của Mạnh Tử là đề

tài muôn thuở cho các nhà nghiên cứu về ông. Cho nên, những công trình
trên, dù ở mức độ đậm nhạt khác nhau, nội dung khác nhau nhưng vẫn luôn
là nguồn tài liệu quý giá để tác giả tham khảo, kế thừa và hồn thành luận
văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Mục đích của luận văn nhằm nghiên cứu và trình bày một cách có hệ
thống tư tưởng triết học của Mạnh Tử. Từ đó, rút ra đặc điểm và ý nghĩa lịch
sử đối với sự nghiệp đổi mới Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện, hồn thành những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày bối cảnh lịch sử - xã hội thời Xuân thu - Chiến
quốc và tiền đề lý luận hình thành tư tưởng triết học Mạnh Tử
Thứ hai, trình bày, phân tích nội dung, rút ra những đặc điểm chủ yếu
của tư tưởng triết học Mạnh Tử.
Thứ ba, làm rõ giá trị và hạn chế, từ đó, rút ra ý nghĩa lịch sử trong tư
tưởng triết học của Mạnh Tử.


7

Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được tập trung nghiên cứu trong hai
tác phẩm chính của Mạnh Tử đó là Mạnh Tử thượng và Mạnh Tử hạ. Cùng
với những nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu về tư tưởng triết học
Mạnh Tử.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên

cạnh đó, luận văn cịn sử dụng các phương pháp khoa học như phân tích và
tổng hợp, logic – lịch sử, so sánh và đối chiếu,… để nghiên cứu, trình bày
luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ những
nội dung cơ bản về tư tưởng triết học Mạnh Tử.
Về ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu luận văn là một tư liệu bổ
ích, có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học
tập triết học Mạnh Tử.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, lý do chọn đề tài, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm 2 chương 5 tiết.


8

Chương 1
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ
1.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ,
VĂN HĨA XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẠNH TỬ

1.1.1. Đặc điểm kinh tế, chính trị - xã hội Trung Quốc thời
Xuân thu - Chiến quốc
Triết học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, trong quá trình
hình thành và phát triển luôn chịu sự chi phối, ảnh hưởng sâu sắc của
những điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội nhất định. Lịch sử triết học hàng
ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng khơng có một học thuyết, một
trường phái triết học nào nảy sinh trên mảnh đất trống khơng, mà đều hình
thành, phát triển trên nền tảng, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội

nhất định. C.Mác đã từng viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ
trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dịng sữa
tinh tế nhất, q giá và vơ hình được tập trung lại trong những tư tưởng
triết học” [64, 156]. Triết học Trung Quốc cổ đại nói chung, tư tưởng triết
học Mạnh Tử nói riêng cũng khơng ngoại lệ. Những tư tưởng này được
sinh ra và phát triển rực rỡ gắn liền với thời kỳ lịch sử - xã hội Xuân thu –
Chiến quốc. Nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng của Trung Quốc cũng đã
khẳng định: “Phàm đã gọi là một học thuyết quyết khơng thể là một cái gì
từ trên trời rơi xuống. Nếu nghiên cứu tỉ mỉ hơn chúng ta tất sẽ tìm ra được
nhiều nguyên nhân đã xảy ra trước và hậu quả về sau của nó” [92, 53].
“Nhà tư tưởng thường chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh trong đó nhà tư
tưởng sống. Cảnh trí xung quanh khiến cho nhà tư tưởng có ý thức về cuộc
sống theo một lối nào, và triết học của nhà tư tưởng, do đó, sẽ có những


9

quan điểm nhất mạnh hay không đề cập tới, làm thành những nét đặc biệt
của một triết học” [46, 32].
Những luận điểm trên cho thấy điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội
thời Trung Quốc cổ đại trở thành một trong những cơ sở khoa học của việc
hình thành tư tưởng triết học của Mạnh Tử.
Tư tưởng triết học Trung Quốc có mầm mống từ thời tiền sử, nhưng
đến thời Xuân thu – Chiến quốc mới thực sự trở thành một hệ thống. Xuân
thu – Chiến quốc, về niên đại được xem là bắt đầu từ năm 770 tr.CN và kết
thúc vào năm 221 tr.CN; về triều đại là thời Đông Chu (770 – 256 tr.CN).
Đây là giai đoạn lịch sử được đánh dấu bằng sự kiện Hạo Kinh bị các tộc
Hiểm Doãn, Tây Nhung tàn phá, nên Chu Bình Vương phải dời đơ về phía
Đơng, đến Lạc Ấp (Lạc Dương, Tỉnh Hà Nam bây giờ), đánh dấu một giai
đoạn mới của nhà Chu, sử sách gọi là thời Chu mạt, Đông Chu hay Xuân thu

– Chiến quốc và kết thúc khi nhà Tần diệt Chu, Tần Thủy Hoàng lên ngôi
thống nhất Trung Hoa (năm 221 tr.CN), lập ra nhà nước phong kiến đầu tiên
ở Trung Quốc. Đây là thời kỳ giao thoa giữa hình thái kinh tế - xã hội chiếm
hữu nơ lệ suy tàn và hình thái kinh tế - xã hội phong kiến sơ kỳ, một xã hội
đầy biến động, phức tạp và đồng thời, cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của
Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực.
Về kinh tế, thời Xuân thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ
thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Sự ra đời của đồ sắt có thể coi như một
cuộc cách mạng trong cơng cụ sản xuất. Trong sách Quốc ngữ, Chu ngữ có
viết: “Đồng thau để đúc kiếm, kích …, sắt để đúc cuốc, cào và quả cân” [94,
283]. Nó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất cổ đại
Trung Quốc phát triển trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp,
thủ công nghiệp và thương nghiệp.


10

Về nơng nghiệp là ngành kinh tế giữ vai trị đặc biệt quan trọng, lâu
đời trong đời sống xã hội Trung Quốc. Để tồn tại và phát triển, người Trung
Quốc buộc phải không ngừng cải tiến công cụ sản xuất, phát triển sản xuất
nông nghiệp. Từ đồ sắt, phát minh mới về kỹ thuật khai thác và sử dụng đồ
sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến công cụ và kỹ thuật sản
xuất nông nghiệp. Thời kỳ này hệ thống thủy lợi đã trải khắp khu vực
Trường Giang. Diện tích đất đai canh tác ngày càng được mở rộng. Kỹ thuật
trồng trọt cũng được cải tiến, tạo điều kiện tăng năng suất trong lao động
nông nghiệp. Vì vậy, đã giảm bớt sức lao động cơ bắp của con người, năng
suất lao động tăng.
Từ những tiến bộ vượt bậc trong sản xuất nông nghiệp do sự xuất hiện
của đồ sắt, tất yếu dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong quan hệ sản xuất cổ
truyền ở thời Xuân thu. Người ta thấy không cần thiết phải chia lại ruộng đất

công theo định kỳ, căn cứ vào đất tốt hay xấu như trước nữa. Thì giờ đây,
cơng xã đã giao hẳn đất cơng cho từng gia đình nơng nơ cầy cấy trong thời
hạn lâu dài. Vì thế, họ có điều kiện lưu canh, luân canh để tăng năng suất
cây trồng. Mặt khác, nhờ công cụ sản xuất bằng sắt phát triển và thủy lợi mở
mang, ruộng đất do nông nô khai hoang biến thành ruộng tư ngày một nhiều.
Bọn q tộc có quyền thế chiếm của cơng xã làm ruộng tư. Chế độ “tỉnh
điền” cũng dần tan rã, chế độ tư hữu ruộng đất từng bước hình thành. Chế
độ tư hữu về ruộng đất được xác lập tại nhiều nước còn được pháp luật nhà
nước thừa nhận và bảo vệ.
Về thủ công nghiệp, đồ sắt ra đời thay thế đồ đồng không chỉ thúc đẩy
nông nghiệp phát triển mà cịn thúc đẩy sản xuất thủ cơng nghiệp phát triển.
Với tính ưu việt của đồ sắt như, bền hơn, cứng hơn, sử dụng tiện lợi hơn đồ
đồng nên việc sử dụng công cụ bằng sắt ngày càng trở nên phong phú, đa
dạng và phổ biến. Quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công trong


11

sản xuất thủ cơng nghiệp nhanh chóng đạt tới trình độ chuyên nghiệp cao,
mở ra cơ hội cho một loạt ngành nghề thủ công ra đời, phát triển như nghề
luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ gốm, v.v.. Vào cuối
thời Xn thu, nước Ngơ dựng lị luyện sắt, số thợ lên đến 300 người. Nước
tấn trưng mua sắt để đúc đỉnh hình. Trong sách Chu lễ đã viết: “thợ mộc
chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ thuộc da chiếm năm phần,
thợ nhuộm chiếm năm phần, thợ nề chiếm hai phần…”[17, 250]. Thợ thuyền
tuy nhiều nhưng vì trình độ cịn thấp nên họ chưa có ảnh hưởng gì lớn trong
đời sống chính trị - xã hội.
Về thương nghiệp, cùng với sự phát triển nông nghiệp và thủ công
nghiệp phát triển đã tạo cơ sở cho thương nghiệp phát triển hơn trước. Tiền
tệ đã ra đời. Trong xã hội hình thành một tầng lớp thương nhân giàu có,

danh tiếng, như Phạm Lãi, Huyền Cao (nước trịnh), Tử Cống ( vốn học trò
của Khổng Tử)… Tuy nhiên, do thực trạng khó khăn lúc bấy giờ cản trở rất
lớn đến việc giao lưu, bn bán như: tình trạng xã hội rối ren, lãnh thổ chia
năm xẻ bảy, phương tiện giao thông thô sơ, đường sá hiểm trở… nên việc
kinh doanh khơng phải ai cũng làm được, địi hỏi phải là những con người
tháo vát, quyết đoán dám mạo hiểm. Đặc biệt, trong quan niệm cổ truyền,
người Trung Quốc với tư duy “nông bản, thương mạt”, “trọng nông, ức
thương” ln xem thường, khinh rẻ nghề bn bán. Chính vì thế, thương
nghiệp lúc này chưa thực sự phát triển, chưa có tác động, ảnh hưởng lớn đối
với đời sống kinh tế - xã hội. Song sự hình thành của nó đã tạo ra trong cơ
cấu giai cấp - xã hội, một tầng lớp mới. Tầng lớp này, dần dần xuất hiện một
loạt quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo lên tranh giành
quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị xã hội, những biến đổi về kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến
những biến đổi về chính trị. Nếu như thời Tây Chu chế độ tơng pháp cịn


12

được tôn nghiêm, cai trị xã hội chủ yếu dựa vào lễ và tập tục; quý tộc, chủ
nô tùy tiện dùng hình phạt khắc nghiệt trừng trị những kẻ làm trái ý mình.
Điều đó, có tác dụng tích cực giúp nhà Chu tồn tại, hưng thịnh trong một
thời gian dài thì đến thời Xn thu chế độ tơng pháp nhà Chu khơng cịn
được tơn nghiêm, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa
thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết thống ngày càng mờ
nhạt, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không cịn được tơn trọng như trước. Những
biến đổi, rạn nứt trên đã làm cho trật tự quyền hành của Thiên tử - Chư hầu
– Khanh đại phu chỉ còn là hình thức trên danh nghĩa. Thực chất, lúc này
thiên tử nhà Chu hầu như khơng cịn quyền uy gì với các nước chư hầu.
Thiên tử khơng cịn đủ thực quyền xét xử những cuộc chấp giữa các nước.

Nhân cơ hội này, nhiều nước đua nhau động binh, mượn tiếng, lấy cớ khôi
phục chế độ tông pháp chế độ nhà Chu với khẩu hiệu “tôn vương bài di”,
nhưng thực chất là bảo vệ, khẳng định, mở rộng quyền lực chính trị, kinh tế
của mình, thơn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ.
Các cuộc chiến tranh trong thời Xuân thu đã đẩy người dân đến cùng
khổ, mất mát. Họ, phải gánh chịu sưu cao, thuế nặng, thiên tai thường xuyên
xảy ra, nạn cướp bóc nổi lên khắp nơi làm cho đời sống nhân dân càng thêm
khốn khổ. Dân lưu vong đồng trong ruộng ngồi bỏ hoang. Khơng những
thế các lãnh chúa, quý tộc đã không từ một thủ đoạn nào để chiếm đoạt
ruộng đất, cưỡng bức, đàn áp dân lành.
Kết quả, của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự biến đổi trong kết
cấu giai tầng của xã hội. Nhiều tầng lớp mới xuất hiện, mới cũ đan xen và
mâu thuẫn với nhau ngày càng gay gắt dẫn đến sự thay đổi về quyền lợi.
Mâu thuẫn chính trong thời kỳ này là mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ với
giai cấp quý tộc; giữa bộ phận bảo thủ và bộ phận cấp tiến ngay trong lòng
giai cấp quý tộc, giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với


13

giai cấp quý tộc thị tộc Chu; giữa nông dân công xã thuộc các bộ tộc bị
người Chu nô dịch với nhà Chu và tầng lớp địa chủ mới lên đang ra sức bóc
lột, tận dụng sức lao động của họ. Đó chính là những mâu thuẫn của thời kỳ
lịch sử đang địi hỏi xóa bỏ chế độ nơ lệ thị tộc, thành lập một xã hội mới đó
là xã hội phong kiến.
Thời Chiến Quốc (475 - 221 TCN) là giai đoạn lịch sử Trung Quốc bị
chia làm bảy nước lớn mạnh là Tề, Sở, Tần, Hàn, Triệu, Yên, Ngụy cho đến
khi nhà Tần tiêu diệt sáu nước, thống nhất thiên hạ lập ra nước Tần vào năm
221 TCN. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh và mâu thuẫn xã hội ngày càng
diễn ra gay gắt và có phần phức tạp hơn, nhưng về kinh tế vẫn có bước phát

triển mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ, v.v..
Trong nông nghiệp, nghề luyện sắt đã không ngừng được mở rộng về
quy mô, nâng cao về kỹ thuật đã đạt tới trình độ khá cao. Sự phát triển của
nghề luyện và nung đúc sắt đã tạo ra nhiều công cụ sản xuất như lưỡi cày,
liềm. cuốc, rìu, dao được sử dụng phổ biến. Các nước đều hình thành những
trung tâm luyện sắt lớn như trung tâm Hàm Đan ở nước Triệu, Đường khê ở
nước Hàn, Lâm Truy ở nước Tề… Điều đó, có ý nghĩa quyết định trực tiếp
đến sự phát triển, mở rộng của kỹ thuật thủy lợi và canh tác, khai khẩn đất
đai càng phát triển. Các cơng trình thủy lợi được xây dựng khắp nơi từ lưu
vực Hoàng Hà tới lưu vực Trường Giang, từ Biển Đông đến vùng Tứ
Xuyến. Từ năm 256 đến 251 tr.CN, Thái thú Lý Băng của quận Thục nước
Tần và con trai là Nhị Lang đã chỉ huy dân binh Tú Xuyên xây dựng bờ đập
Đơ Giang, cơng trình thủy lợi chủ chốt, một kỳ tích trong lịch sử thủy lợi thế
giới. Ngồi đập Đơ giang tiêu biểu, thời Tần cịn kênh đào Trịnh Quốc do
một người tên là Trịnh Quốc thiết kế, có tác dụng dẫn nước từ huyện Kinh
(Thiểm Tây) vào Lạc Thủy, dài hơn 3.000 dặm, biến hơn 200 vạn mẫu đất
phèn chua của bình nguyên Quan Trung thành đất canh tác, đạt sản lượng


14

cao. Đặc biệt, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc đã chú ý đến
vấn đề giao thông vùng Tây Nam để giải quyết vấn đề vận chuyển quân
lương, ông đã sai Sứ lộc đào kênh Linh ở huyện hưng An – Quảng Tây dài
hơn 30 dặm với thiết kế rất khoa học, giữ vị trí huy hồng trong lịch sử hàng
hải thế giới…
Về thủ công nghiệp, cùng với sự phát triển nông nghiệp là sự phát triển
của nghề thủ công, như nghề làm gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, nghề
chạm trổ vàng bạc… Người Trung Quốc đã dùng khuôn kim loại để đúc tiền.
Và những người chuyên nghề đúc sắt giàu có tiếng ngang quốc vương.

Về thương nghiệp, tiền tệ bằng kim loại ra đời. sự ra đời của tiền bằng
kim loại đã trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành sinh hoạt xã hội,
kinh tế Trung Quốc lúc bấy giờ, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ việc trao đổi,
bn bán hàng hóa hưng thịnh. Đô thành các nước và một số thành ấp lập
trên những trục lộ giao thông trọng yếu đã biến những nơi, như Hàm Dương
nước Tần, Thọ Xuân nước Sở, Lâm Truy nước Tề, Khai Phong của nước
Ngụy… đã trở thành những trung tâm kinh tế sầm uất.
Về chính trị - xã hội, do chiến tranh với tính chất tàn khốc, diễn ra
triền giữa các nước chư hầu đã đẩy cuộc sống của nhân dân lao động ngày
càng cùng cực, đau khổ, trật tự xã hội đảo lộn. Mạnh Tử đã thốt lên rằng:
“Một cuộc chiến đấu xảy ra vì sự tranh giành đất đai, làm cho người ta chết
đầy đồng. Một cuộc chiến đấu xảy ra vì sự tranh đoạt thành trì, làm cho
người ta chết khắp thành” (Tranh địa dĩ chiến, sát nhân doanh dã. Tranh
thành dĩ chiến, sát nhân doanh thành) [67, 26-27]. Càng về cuối thời Chiến
quốc, tình cảnh của người dân càng bi đát: “nước Vệ bắt lính tới 1 phần 5
dân số, nước Tần bắt ông già 73 tuổi ra tòng quân, nước Tề thu thuế của dân
tới 2 phần 3 hoa lợi, ruộng đất bỏ hoang, có kẻ đói quá, phải đổi con cho
nhau mà ăn thịt” [11, 34]. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển mạnh của nền


15

kinh tế hàng hóa, sự biến đổi của đời sống xã hội đã phá vỡ chế độ công xã
nông thôn. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần thành quan hệ sở
hữu thống trị, chế độ thu thuế tính theo số lượng ruộng đất ra đời, thay thế
cho chế độ thu thuế dựa vào sản lượng. Đặc biệt, việc mua bán ruộng đất tự
do diễn ra mạnh mẽ và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã mở đường, tạo cơ
hội cho việc tích tụ, tập trung ruộng đất vào tay lãnh chúa, địa chủ thắng
trận, giàu có. Và, hậu quả tất yếu dẫn đến với đa số nông dân là mất ruộng
đất, phải đi cày thuê, cấy mướn, trở thành những tá điền, cố nông suốt đời và

thậm chí nhiều đời. Chế độ bóc lột mới bằng cách phát canh thu tơ xuất
hiện. Trong lịng xã hội đã nảy sinh những yếu tố của quan hệ sản xuất mới,
đó là chế độ phong kiến quận, huyện. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt,
đã đẩy xã hội đến nguy cơ đảo lộn nghiêm trọng. Thực tiễn địi hỏi cần phải
có sự thay đổi về đường lối chính sách cai trị mới có thể cứu vớt nguy cơ
thời cuộc. Giai cấp thống trị đã nhận thấy điều đó nên đã tiến hành một số
biện pháp cải cách nhằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đó là phong
trào “biến pháp” diễn ra trong suốt thời Chiến quốc ở một số nước như nước
Ngụy, nước Triệu, nước Hàn, nước Tề, nước Tần…suốt thời Chiến quốc.
Trong hàng loạt các “biện pháp” thì chủ trương pháp trị của Thương
Ưởng là có hiệu quả nhất đối với nhà Tần. Vào năm 359 đến 350 TCN, ông
đề xuất cải cách về luật pháp với những nội dung như: xóa bỏ chế độ “tông
pháp”, xây dựng chế độ quận huyện; tổ chức liên gia, thực hiện chính sách
cáo gian, khuyến khích khai hoang, cày cấy nuôi tầm dệt lụa; thực hiện
thưởng phạt nghiêm minh. Đến năm 350 tr.CN Thương Ưởng tiếp tục đẩy
mạnh cải cách, nhưng lần này chủ yếu thiên về hành chính và tài chính như
khuyến khích khai hoang, thực hiện một thứ thuế thống nhất và công bằng
cho mọi người, thống nhất đồ đo lường … Tư tưởng xuyên suốt trong phép
trị nước của Thương Ưởng là đề cao pháp luật. Theo ông, pháp luật phải tôn


16

nghiêm, ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành,
ai có tội thì phạt và phạt nặng. Nhờ những cải cách và sử dụng pháp trị của
Thương Ưởng, chỉ trong một thời gian ngắn nước Tần đã trở thành nước
hùng mạnh nhất trong “thất hùng”. Cục diện thời Chiến quốc đã làm nảy
sinh những thủ đoạn ngoại giao và quân sự dùng để đối phó lẫn nhau giữa
các nước, gọi là thuật “hợp tung” và “liên hồnh”. Trong đó, theo kế “hợp
tung” của Tơ Tần, tức là hợp nhiều nước nhỏ đánh nước mạnh, Trong khi đó

ở phía Đơng nước Tần theo kế “liên hồnh” của Trương Nghi, là tơn một
nước mạnh để đánh những nước yếu, giúp nước Tần lần lượt đánh bại sáu
nước, như Ngụy, Tề, Sở, Yên, Hàn và Triệu, chấm dứt cuộc chiến tranh liên
miên tàn khốc, thống nhất Trung Quốc, xác lập chế độ phong kiến trung
ương tập quyền đầu tiên vào năm 221 TCN. Đó là đế chế Tần. Nó gắn liền
với một tư tưởng triết học có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ là Pháp gia mà
người đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử, đã giúp nước Tần thành công trong
sự nghiệp thống nhất Trung Quốc.
Sự ra đời của đế chế Tần chứng tỏ sức mạnh của việc sử dụng tư
tưởng pháp trị của Pháp gia trong việc thống nhất đất nước của nhà Tần.
Đáng tiếc, nhà Tần đã quá đề cao việc độc tôn pháp luật, đẩy hình pháp đến
hình thái cực đoan nhất, với chế độ pháp trị độc tài nhất. Nhà Tần không chú
ý đến việc giáo hóa đạo đức. Trong khi đó, với những chính sách hà khắc và
để đạt được mục đích thống nhất về tư tưởng và chính trị trong xã hội, nhà
Tần đã chủ trương “chôn nho, đốt sách”, cấm tất cả học thuyết đương thời,
chỉ cho giữ lại và truyền bá sách về y học, nông học, chiêm tinh, cùng với
việc gây chiến tranh chinh phạt, huy động bằng bạo lực hàng chục vạn nông
dân xây Vạn Lý Trường Thành, đã phá hoại cơ sở kinh tế và vùng chính trị
của nước Tần, nhà Tần đứng đầu là Tần Thủy Hồng đã tự làm mình sụp đổ
nhanh chóng. Cuộc khởi nghĩa nông dân hùng mạnh do Lưu Bang lãnh đạo


17

đã lật đổ nhà Tần, xây dựng lên chính thể của một triều đại mới, đó là nhà
Hán, năm 206 TCN.
1.1.2. Sự phát triển văn hóa, khoa học Trung Quốc thời Xuân
Thu – Chiến Quốc
Cùng với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những thành tựu
rực rỡ về văn hóa và khoa học khá phong phú của Trung Quốc thời Xuân

thu - Chiến quốc như văn học, thiên văn, địa lý, y học, sinh vật học …đã
góp phần khơng chỉ thúc đẩy q trình sản xuất xã hội phát triển và đó cũng
là tiền đề rất quan trọng góp phần làm nảy sinh các tư tưởng triết học Trung
Quốc cổ đại nói chung và quan điểm triết học của Mạnh Tử nói riêng.
Về văn hóa, nếu sự ra đời của công cụ lao động bằng sắt là cuộc cách
mạng trong sản xuất thì chữ viết là thành tựu văn hóa rực rỡ nhất mở ra thời
kỳ nở rộ của hầu hết những thành tựu văn hóa. Theo truyền thuyết, từ thời
Hồng Đế đã có chữ viết. Theo nhiều tài liệu khảo cổ cho thấy vào đời Ân,
nền văn tự Trung Hoa đã có bốc từ. Đó là thứ văn tự sớm nhất của Trung
Quốc ghi lại những điều bói tốn, coi việc cúng bái. Sự ra đời của bốc từ gắn
liền với loại chữ viết cổ gọi là văn giáp cốt. Kinh thi đã ghi chép lại: khi thì tự
nói với mình, khi thì nói với người khác, tức là nói có văn tự ghi chép. Chữ viết
trên mai rùa gọi là văn giáp cốt, còn những điều người ta ghi lại gọi là bốc từ.
Bản chất của chữ viết giáp cốt là sự thể hiện ra ý chí của thượng đế về những
việc mà người ta cầu khẩn. Bằng văn tự, lịch sử Trung Quốc cổ đại đã được ghi
nhận lại, trở thành phương tiện để kết nối quá khứ với hiện tại, là bằng chứng
sống động đưa con người trở về với những giá trị cổ xưa. Do vậy, chữ viết là
cơ sở để phản ánh thế giới quan sơ khai của người Trung quốc cổ đại.
Thời Tây Chu số lượng chữ viết đã tăng lên nhiều, có kim văn (chữ
viết trên đồ đồng), Chung đỉnh văn (chữ viết trên chuông đỉnh) và thạch cổ
văn( chữ viết khắc trên đá). Thời Xuân thu – Chiến quốc chữ viết ở các nước


18

khơng hồn tồn giống nhau do đất nước chưa thống nhất. Đến khi Tần
Thủy Hồng lên ngơi, với chính sách thống nhất văn tự, Lý Tư đã cải tiến
chữ viết thống nhất gọi là tiểu triện. Sau đó chữ viết tiếp tục được cải biến
và đến đời Hán hình thành chữ viết như ngày nay.
Về thiên văn và lịch pháp, từ đời hoàng đế, Nghiêu, Thuấn người

Trung Quốc đã biết quan sát thiên văn. Tài liệu sớm nhất trên thế giới
nghiên cứu về thiên văn đó là những ghi chép về nhật thực và nguyệt thực
bằng chữ giáp cốt của đời Thương. Ngồi ra họ cịn chia một năm làm 12
tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày, cách vài năm có thêm
tháng nhuận và một tuần có 10 ngày, từ Giáp đến Quý ứng với 10 can. Thế
kỷ thứ IV TCN nhà thiên văn Trung Hoa là Thạch Thân nước Ngụy, Can
Đức nước Sở có ghi chép các vì sao, bao gồm 800 tinh tú. Trong đó, có vị
trí của 120 vì tinh tú đã được xác định. Sách Xuân thu cũng ghi chép lại
trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực. Ngồi ra, người ta cịn tìm thấy
cuốn “Ngũ tinh chiêm về thiên văn” viết vào năm 170 TCN. Những biên
niên sử ở thế kỷ thứ II TCN, đã nói đến cuộc du lịch trên bộ mà người
Trung Quốc cổ xưa đã chế tạo và sử dụng la bàn. Cuốn “Cam thạch tinh
kinh” là bản ghi chép các hành tinh cổ nhất trên thế giới mà người Trung
Quốc cổ đại đã sáng tạo ra. Dựa theo vị trí của 28 ngơi sao trên xích đạo
thiên cầu lúc bấy giờ, người ta phân chia toàn bộ bầu trời thành 28 “túc”.
Theo vị trí mặt trời đối chiếu với các “túc”, người ta phân biệt được các chi
tiết của một năm như: lập xuân, xuân phân; lập thu, thu phân; lập hạ, hạ
chí; lập đơng, đơng chí.
Thời Xuân thu người Trung Quốc đã biết tính 19 năm thì có 7 năm
nhuận. Từ thời Lỗ Văn Cơng, Hồn Cơng đã biết dùng thổ kh để đo bóng
mặt trời định ra hạ chí và đơng chí mà tìm ra. Trong thời kỳ này, con người
cịn biết tính chính xác nhị chí, tam phân. Đến thời Xuân thu – chiến quốc


19

có Lục lịch, chỉ khác nhau ở tháng bắt đầu của năm cịn đơng chí và hạ chí
giống nhau.
Chính thành tựu về thiên văn, đã giúp con người chuyển từ thế giới
quan thần thoại sang thế giới quan triết học và nhận ra mối quan hệ giữa con

người và thiên nhiên. Đây là cơ sở vững chắc khẳng định sự tác động của
thành tựu khoa học đến tư duy triết học.
Về toán học, ở Trung Quốc cổ đại đã đạt được một trình độ tương đối
cao. Tốn học số đếm xuất hiện vào thời kỳ nền văn minh mới bắt đầu, được
xuất phát từ sự tích lũy của con người trong q trình săn bắt các lồi vật và
để phân chia thức ăn người ta bắt đầu hình thành nên số đếm đến ba và
mười, sau quá trình phát triển mới hình thành số phù hiệu và ghi số. Dựa
vào số đếm con người đã biết dùng que tính làm cơng cụ tính tốn. Que tính
là những que trịn được làm bằng gỗ, tre, xương, ngọc, sừng, sắt. Đến đầu
Xuân thu - Chiến quốc người ta đã biết dùng phép tính cộng, trừ, nhân, chia
một cách hồn bị. Trong hình học, các nhà khoa học đã tìm ra cách tính diện
tích của tam giác vng, bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương
của hai cạnh góc vng. Họ cũng đã biết tính tốn diện tích các hình, đo
lường, cân đo và nghiên cứu các dạng chuyển động cơ học, cũng như rất
thạo luyện kim, đúc đồng thau, rèn sắt.
Về nông học và sinh vật học, do có nền sản xuất nông nghiệp lâu đời
nên dân Trung Quốc cổ đại đã sớm có những tri thức phong phú và những
thành tựu về nơng học và sinh vật học. Đó là sự tổng kết trình độ nền văn
minh nơng nghiệp lâu đời của Trung Hoa. Những ghi chép trong Kinh Thi
tập hợp thành một tuyển tập thi ca gồm 305 bài, được sáng tác trong khoảng
thời gian hơn 500 năm, Từ thời Tây Chu đến thời Xuân thu nói tới 200 loại
thảo mộc đã chứng tỏ sự hiểu biết phong phú về các loài sinh vật của người
Trung Quốc cổ. Trên cơ sở những kinh nghiệm lao động sản xuất nông


20

nghiệp của nhiều thế hệ, người Trung Quốc cổ đã xây dựng được cả một hệ
thống các phương pháp bón phân cho đất, phương pháp trồng trọt theo thời
vụ và kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền”.

Về y học, y học truyền thống Trung Quốc được hình thành trong quá
trình thực tiễn chữa bệnh và đời sống sản xuất nông nghiệp của nhân dân.
Người ta cho rằng y học xuất hiện từ thời Hoa Hạ. Đến thời Chiến Quốc
cũng đã đạt được những thành tựu lớn. Những tri thức y khoa học Trung
Quốc cổ đại qua kinh nghiệm thực tiễn phong phú và lâu dài đã tổng kết lại
trong cuốn sách có giá trị khoa học lớn về y học như “Hồng Đế nội
kinh”và“Thần Nơng bổn thảo kinh”. Nội dung của cuốn sách này trình bày
cách giải phẩu về cơ thể, sinh lý, mạnh học, nguyên nhân gây bệnh, bệnh lý,
chuẩn đốn, tư liệu dự phịng, dưỡng sinh… Các nhà y học Trung Quốc thời
kỳ này đã biết giải phẫu cơ thể người, biết nội tạng và hệ thống tuần hoàn
khá rõ. Họ còn đi sâu nghiên cứu các nguyên nhân của bệnh tật, các phương
pháp chuẩn đoán bệnh như: nghe, nhìn, hỏi, bắt mạch. Đồng thời, học cũng
áp dụng các phương pháp trị bệnh như: Châm cứu, bấm huyệt, sắc thuốc
bằng lá cây để uống. Họ cũng nói tới các phương pháp giữ sức khỏe như:
giữ vệ sinh, thuật dưỡng sinh, v.v..
Thời Chiến quốc đã có y qn trong chính phủ, quan trọng nhất là tật
y, chữa bệnh đau đầu, ghẻ, sốt rét,… cách khám bệnh truyền thống là bắt
mạnh, nhìn sắc mặt, “nghe tiếng tả hình”. Các loại thuốc chữa bệnh thường
là sắc uống và ngâm với rượu, có nhiều danh nhân như Y Hoãn (Tấn), Biển
Thước (Tề) người đầu tiên phát minh ra phép bắt mạnh và đã có nhiều
phương thuốc và cịn có nhiều sách y học.
Về văn học, văn xuôi sớm nhất trong Chu thư của bộ thượng thư và
các văn khắc trên đồ đồng. Đến thời Xuân thu – Chiến quốc văn xuôi phát
triển mạnh. Văn tự sự có Tả truyện, Quốc ngữ, Quốc sách đã mô tả sự kiện


×