Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.06 MB, 175 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƢƠNG BÍCH THỦY

TRÁCH NHIỆM CỦA CHA, MẸ
ĐỐI VỚI CON CHUNG KHI LY HÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRÁCH NHIỆM CỦA CHA, MẸ
ĐỐI VỚI CON CHUNG KHI LY HÔN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Bùi Minh Hồng
Học viên: Trƣơng Bích Thủy
Lớp: Cao học Luật dân sự và Tố tụng dân sự, khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học do bản
thân tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của TS. Bùi Minh Hồng.
Các thơng tin, tài liệu, trích dẫn, báo cáo sử dụng trong luận văn được thu thập một
cách khách quan, trung thực, đảm bảo độ tin cậy, chính xác và số liệu minh chứng
có nguồn gốc rõ ràng. Các ý kiến, quan điểm không thuộc ý tưởng hoặc kết quả
tổng hợp của chính bản thân đều được trích dẫn đầy đủ.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình khoa học nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả luận văn

Trƣơng Bích Thủy

năm 2020


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS


Bộ luật Tố tụng Dân sự

HN&GĐ

Hôn nhân và Gia đình

BLGĐ

Bạo lực gia đình

BTTH

Bồi thường thiệt hại

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

THA

Thi hành án


THADS

Thi hành án dân sự

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

Nxb

Nhà xuất bản

Tr

Trang


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHA,
MẸ ĐỐI VỚI CON CHUNG KHI LY HƠN ........................................................10
1.1. Ly hơn và hậu quả của ly hôn đối với con chung ...................................... 10
1.1.1. Khái niệm ly hôn.......................................................................................10
1.1.2. Hậu quả pháp lý và xã hội của việc cha mẹ ly hôn đối với con chung ....11
1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của cha,

mẹ đối với con chung khi ly hôn ......................................................................... 13
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn ..........13
1.2.2. Đặc điểm về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn .......15
1.2.3. Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi
ly hơn trong Luật Hơn nhân và Gia đình ...........................................................19
1.3. Sự hình thành và phát triển của quy định về trách nhiệm của cha, mẹ đối
với con chung khi ly hôn ở Việt Nam qua các thời kỳ ...................................... 20
1.3.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945 ..................................20
1.3.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay .........................21
1.4. Quy định về trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung khi ly hôn trong
pháp luật của một số quốc gia ............................................................................ 26
1.4.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ..........................................................................27
1.4.2. Singapore..................................................................................................31
1.4.3. Campuchia................................................................................................33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................36
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON CHUNG KHI LY HÔN; THỰC TIỄN ÁP DỤNG
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ......................................37
2.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của cha, mẹ đối
với con chung khi ly hôn ..................................................................................... 37
2.1.1. Xác định người trực tiếp nuôi con ............................................................37
2.1.2. Trách nhiệm của người trực tiếp nuôi con ...............................................39
2.1.3. Trách nhiệm của người không trực tiếp nuôi con ....................................43
2.2. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hơn nhân và
gia đình về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn ................ 48


2.2.1. Đánh giá chung ........................................................................................48
2.2.2. Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về trách
nhiệm của cha mẹ đối với con chung khi ly hôn và một số kiến nghị hoàn thiện

pháp luật.............................................................................................................51
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................77
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình vận động và phát triển của xã hội, “ly hôn” được xem là một
hiện tượng đặc biệt, chịu sự tác động trực tiếp từ xã hội. Xã hội biến đổi làm cho
đời sống gia đình có xu hướng mở rộng phạm vi và mức độ mâu thuẫn trong các
lĩnh vực của đời sống hơn nhân và gia đình. Hiện nay, vấn đề “ly hôn” ngày càng
trở nên phổ biến và được xã hội đặc biệt quan tâm vì các hệ lụy và hậu quả nặng nề
của vấn đề này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của toàn xã hội. Khi mục
đích hơn nhân của các bên vợ, chồng khơng đạt được thì ly hơn được coi là cách
thức hiệu quả để góp phần giải quyết các vấn đề bế tắc của cả hai. Tuy nhiên, hậu
quả pháp lý và xã hội của ly hôn lại làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến những đứa trẻ
là con chung, đặc biệt là các em trong độ tuổi chưa thành niên cần nhiều tình cảm
u thương, chăm sóc của cả cha lẫn mẹ nhưng lại phải chịu cảnh gia đình ly tán,
nếu không được bảo vệ sẽ dễ đánh mất cả tuổi thơ và tương lai. Đối với những
người con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có
khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni sống bản thân sẽ phải sống ra sao,
nếu khơng cịn được sự quan tâm, ni dưỡng của cha và mẹ. Chính vì thế, cha, mẹ
có quyền ly hơn với nhau bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của Tịa án
nhưng khơng ai có quyền chối bỏ trách nhiệm của mỗi người đối với con chung,
ngay cả khi hơn nhân khơng cịn tồn tại trên thực tế.
Trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn được quy định khá
đầy đủ và chi tiết trong Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 và một số văn bản

pháp luật hiện hành khác có liên quan. Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố, lối
sống và đạo đức xã hội, mỗi cá nhân muốn tồn tại đều phải đối mặt với những áp
lực, thách thức bởi nhiều loại thang,bậc giá trị; cũng như với sự đề cao giá trị vật
chất; sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của các bậc cha, mẹ đối với con chung, do đó, khi
ly hơn, việc thực thi trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung theo quy định của
Luật Hơn nhân và Gia đình cịn có những bất cập, khó áp dụng vào thực tiễn, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng và không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp về mọi
mặt của các con chung khi cha mẹ chúng ly hôn.
Xuất phát từ những lý do như trên, tôi đã quyết định chọn đề tài "Trách nhiệm
của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn" để làm luận văn Thạc sĩ, nghiên cứu một
cách có hệ thống việc áp dụng pháp luật Hơn nhân và Gia đình về thực thi trách
nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn nhằm phát hiện ra những bất cập,


2
vướng mắc trong quá trình giải quyết và trên cơ sở đó góp thêm ý kiến cho việc áp
dụng pháp luật, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con trẻ. Việc nghiên cứu đề tài
này là cần thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn về việc thực thi trách nhiệm của cha,
mẹ đối với con chung khi ly hôn, đặt trong bối cảnh Việt Nam đang trong tiến trình
hội nhập quốc tế về nhiều mặt, trong đó, đưa ra các giải pháp thích hợp để hạn chế
những bất cập của pháp luật, đảm bảo việc thực thi trách nhiệm của cha, mẹ đối với
con chung khi ly hôn một cách hiệu quả trong các vụ việc, vụ án ly hơn trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn là một đề tài
vừa mang lại ý nghĩa giá trị pháp lý, vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc, nhận được
sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu luật học và được tiếp cận, thảo luận
ở nhiều khía cạnh khác nhau, cụ thể như sau:
Nhóm các luận án, luận văn:
Bùi Minh Giang (2013) "Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn theo
pháp luật Việt Nam", Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc

gia Hà Nội. Tác giả của luận văn muốn phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau ly hôn. Trên
cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật và tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của con cái cũng như đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng trong việc ni
dưỡng, chăm sóc con. Tuy nhiên, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn pháp lý về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con theo
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000.
Ngơ Thị Hường (2006), “Chế định cấp dưỡng trong luật hơn nhân và gia
đình - vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học luật
Hà Nội. Công trình nghiên cứu này, tác giả tập trung nghiên cứu một số nội dung
của thực hiện chế định cấp dưỡng trong Hơn nhân và Gia đình, từ lý luận đến thực
tiễn. Tuy nhiên, chưa đề cập và đi sâu phân tích tồn diện các khía cạnh liên quan
đến trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn.
Hồ Thị Nga (2007), “Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hơn”, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội và Đặng Thị Thanh Nhàn (2012),
“Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hơn”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Các cơng trình nghiên cứu này, tác giả tập trung
nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền và lợi ích hợp


3
pháp của các con khi cha mẹ ly hôn, nêu rõ sự cần thiết khách quan phải bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các con khi cha mẹ ly hơn. Phân tích việc áp dụng
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
con khi cha, mẹ ly hôn và thực trạng thực hiện vấn đề này hiện nay. Đề xuất các
giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật Hơn nhân và Gia đình về bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn cũng như các biện pháp cần thiết nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn một cách hiệu quả
trên thực tế. Tuy nhiên, các luận án này được nghiên cứu và trình bày trên cơ sở

Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn đã hết hiệu lực. Do
đó, một số bất cập mà tác giả thể hiện đã được giải quyết bởi pháp luật hiện hành.
Lê Tuyết Nhung (2014), “Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật hiện hành”,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Cơng
trình nghiên cứu này, tác giả chỉ dừng lại ở khía cạnh liên quan đến một số nội dung
của việc cấp dưỡng trong Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000, chưa đi sâu phân
tích tồn diện các khía cạnh liên quan đến trách nhiệm của cha, mẹ đối với con
chung khi ly hôn quy định trong pháp luật hiện hành.
Xa Kiều Oanh (2014), “Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ
chồng ly hơn”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh. Cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã phân tích những vấn đề pháp lý và thực
tiễn phát sinh trong quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ đối với con. Từ các quy định
của pháp luật Hơn nhân và Gia đình hiện hành, các vấn đề thực tế, có liên hệ đến
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài từ đó đề xuất kiến nghị hồn
thiện pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con
chung khi cha, mẹ ly hơn.
Nhóm sách giáo trình
Nguyễn Ngọc Điện (2002), “Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và Gia đình
Việt Nam”, Tập I, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách này tác giả
đã nêu ra những quy định pháp luật về Hôn nhân và Gia đình, các vấn đề liên quan
đến kết hơn, ly hôn, tuy nhiên không đề cập nhiều về việc trách nhiệm của cha mẹ
đối với con chung khi ly hôn.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), “Giáo trình Luật
Hơn nhân và Gia đình Việt Nam” (tái bản có sửa đổi, bổ sung năm 2018), Nxb.
Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh; Trường Đại học
Luật Hà Nội (2009), “Giáo trình Luật Hơn nhân và Gia đình”, Nxb. Cơng an


4
nhân dân, Hà Nội. Trong 2 giáo trình trên đều đã đề cập đến khái niệm, lý luận

chung, nguồn và chủ thể của Hơn nhân và Gia đình. Đây là những kiến thức cơ
bản quan trọng để làm nền tảng lý luận cho tác giả trong việc nhận thức về vấn đề
trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn, từ đó chỉ ra thực tế áp
dụng, những vướng mắc cũng như hướng đề xuất khắc phục phù hợp trong thực
tiễn áp dụng pháp luật đối với việc quy định trách nhiệm của cha, mẹ đối với con
chung khi ly hơn.
Nhóm sách chun khảo, tạp chí:
Lê Vĩnh Châu (chủ biên) (2018), “Sách tình huống (bình luận bản án) Luật
Hơn nhân và Gia đình”, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam, Thành phố Hồ
Chí Minh, tr.393 - tr.449. Trong cuốn sách này, tác giả tập trung bình luận một số
án dân sự, án hơn nhân gia đình, thơng qua thực tiễn xét xử của Tịa án đối chiếu so
sánh việc áp dụng các quy định pháp luật đối với từng vụ việc liên quan đến Hôn
nhân và Gia đình, qua đó kiến nghị đề xuất một số giải pháp thích hợp để hạn chế
những bất cập của pháp luật. Đây là những kiến thức quan trọng đặt nền tảng cho
tác giả trong việc nhận thức những nội dung cơ bản trong việc nghiên cứu, hoàn
thiện đề tài của mình.
Lê Thị Mận (2017), “Bàn về việc xét nguyện vọng của con khi cha mẹ ly hơn”,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2017, tr.11 - tr.16. Trong bài viết này, tác giả đã nêu
thực trạng và hậu quả ly hơn, qua đó đào sâu xem xét nguyện vọng của con khi cha
mẹ ly hơn, để có những căn cứ xem xét một cách triệt để việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của con chung trước khi có Giải đáp 01/GĐ - TATC ngày 05/01/2018.
Bùi Thị Mừng (2020), “Giải quyết vấn đề liên quan đến con chung khi cha,
mẹ ly hơn”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 1/2020, tr.6 - tr.13. Trong bài viết này, tác
giả nêu quan điểm: “…Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con là một nguyên tắc
quan trọng xuyên suốt các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết vấn đề
con chung khi cha, mẹ ly hôn. Nguyên tắc này được cụ thể hóa theo tinh thần của
Hiến pháp về bảo vệ quyền trẻ em. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương, vì vậy cần
được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt”. Để bảo vệ tốt nhất quyền của con khi cha, mẹ ly
hôn, trong bài viết tác giả đã tập trung vào việc đánh giá về các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành trong giải quyết vấn đề con chung khi cha, mẹ ly hôn; chỉ

ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn giải quyết vấn đề con chung; đồng thời
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con khi cha, mẹ ly hôn.


5
Lê Thị Nga (2020), “Luận bàn về một số vấn đề trong Luật Hơn nhân và gia
đình năm 2014”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10/2020, tr.37 - tr.40. Trong bài viết
này, tác giả nêu nhận định về quyền kết hôn, quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản
giữa vợ và chồng, xác định cha, mẹ, con, quyền, nghĩa vụ nhân thân giữa các
thành viên gia đình; cơ chế pháp lý về bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ bà mẹ, trẻ
em, người yếu thế, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của gia đình với lợi ích của cá
nhân, tổ chức khác. Tuy nhiên, khi áp dụng các quy định của Luật Hơn nhân và
Gia đình năm 2014 vẫn còn một số vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu, hồn
thiện. Trong bài viết của mình, tác giả tập trung vào phân tích, bình luận về một số
bất cập của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014, từ đó đưa ra những kiến nghị
cụ thể.
Trương Minh Tấn (2017), “Quyền, nghĩa vụ thăm nom con theo quy định của
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 23/2017, tr.15.
Trong bài viết này, tác giả đề cập đến quyền, nghĩa vụ thăm nom con, bởi lẽ sau khi
ly hôn, tuy quan hệ vợ chồng chấm dứt nhưng quan hệ cha, mẹ con vẫn cịn tồn tại.
Do vậy, cha, mẹ vẫn phải có trách nhiệm trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục
con để quyền lợi của con được bảo đảm. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cũng như pháp
luật một số quốc gia trên thế giới đặt ra cơ chế thăm nom con nhằm tạo điều kiện để
bên không trực tiếp nuôi con có thể thực hiện trách nhiệm của mình đối với con cái,
qua đó kiến nghị hướng hồn thiện pháp luật cụ thể hơn nhằm góp phần bảo vệ tối ưu
quyền lợi chính đáng của con - đối tượng dễ bị tổn thương khi cha mẹ ly hôn.
Ngô Thị Anh Vân (2018), “Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (368), tháng 8/2018, tr.46 - tr.54. Trong bài viết này,
tác giả đã phân tích những vấn đề pháp lý và thực tiễn phát sinh trong quan hệ cấp

dưỡng giữa cha, mẹ đối với con. Từ các quy định của pháp luật Hôn nhân và Gia đình
hiện hành, các vấn đề thực tế, có liên hệ đến pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
Hoa Kỳ, bài viết nêu một số đề xuất để việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là sự kết
hợp một cách hài hoà giữa quyền lợi của con và khả năng thực tế của cha, mẹ.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu khoa học nói trên, mặc dù, đã phân
tích những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chung
khi ly hơn nhưng chưa đi sâu phân tích, đánh giá toàn diện các quy định cụ thể về
trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn, qua đó, đảm bảo quyền bình
đẳng ngang nhau của mỗi bên cha và mẹ trong thực hiện trách nhiệm của mỗi người
đối với con chung khi ly hôn, đặc biệt là đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các con,


6
tạo điều kiện phát triển tốt nhất và hoàn thiện nhân cách của trẻ, giảm thiểu những
hậu quả nặng nề do vấn đề ly hôn của cha và mẹ. Cho đến nay, đa số các cơng trình
nghiên cứu khoa học chỉ tập trung nghiên cứu, xem xét, khai thác một số nội dung
liên quan đến vấn đề thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chung
khi ly hơn cũng như thực tiễn xét xử của Tịa án trong việc giải quyết các vụ việc ly
hôn như vấn đề giao con cho ai nuôi, vấn đề cấp dưỡng, thăm nom… và chỉ rõ
những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng quy định pháp luật đối với từng nội
dung nêu trên, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn về mặt pháp luật cũng
như việc thực thi, áp dụng pháp luật trên thực tiễn. Các cơng trình này đều có phạm
vi nghiên cứu khác nhau, mức độ khác nhau, nhưng chưa có cơng trình nào tập
trung nghiên cứu chuyên biệt dưới dạng đề tài luận văn Thạc sĩ về vấn đề trách
nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014 một cách tồn diện. Chính vì những lý do đã nêu, tơi đã quyết định chọn
đề tài này để làm cơng trình nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của mình và cơng
trình nghiên cứu này chưa trùng lặp với bất cứ đề tài nào trước đây. Tuy nhiên, các
tài liệu, cơng trình nghiên cứu nêu trên vẫn là những tài liệu, cơng trình nghiên cứu
quan trọng được tác giả tham khảo và lựa chọn một số nội dung có liên quan để

tổng hợp đưa vào đề tài luận văn trong quá trình triển khai thực hiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu nhằm góp phần làm sáng tỏ những quy định về trách
nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn. Do đó, tác giả tập trung phân tích,
làm rõ những bất cập, hạn chế về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly
hơn theo Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 thơng qua việc phân tích các bản án
ly hơn trong thực tiễn xét xử để mang đến cái nhìn tồn diện từ lý luận đến thực
tiễn, từ đó tác giả kiến nghị có sự học hỏi, kế thừa các tài liệu nước ngồi với mục
đích cuối cùng là nhằm hồn thiện pháp luật Hơn nhân và Gia đình về vấn đề trách
nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn.
Xuất phát từ mục đích trên, đề tài phải hoàn thành một số nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề cơ bản, sự cần thiết khách quan trong việc
quy định về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn để tìm ra những
hạn chế của lĩnh vực pháp luật này.
Thứ hai, tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật Hơn nhân và Gia đình về trách
nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn nhất là cách hiểu khác nhau giữa


7
các Tòa án trong việc xác định trách nhiệm của cha hoặc mẹ đối với con chung khi
ly hôn nhằm phát hiện những vướng mắc phát sinh. Đồng thời, tác giả đưa ra một số
kiến nghị cụ thể trong việc áp dụng pháp luật Hơn nhân và Gia đình về trách nhiệm
của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn cho từng trường hợp bất cập trên.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề cơ bản, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp
luật về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn trong Luật Hơn nhân
và Gia đình hiện hành có so sánh đối chiếu Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000.
Làm rõ các nội dung pháp lý quan trọng về ly hôn, hệ quả pháp lý của ly hôn

và những quy định pháp luật về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly
hôn: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định về trách nhiệm của cha, mẹ đối
với con khi ly hôn; xác định cụ thể trách nhiệm của bên trực tiếp và bên không trực
tiếp đối với con khi ly hôn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn sẽ tồn tại
nhiều vấn đề pháp lý còn vướng mắc tuy nhiên với luận văn Thạc sĩ này, tác giả chỉ
nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề cơ bản về trách nhiệm của cha, mẹ đối với
con chung khi ly hôn theo quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 như:
Xác định trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung phát sinh khi ly hôn; việc giao
con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng hay xem xét nguyện vọng của con khi ly hôn; trách
nhiệm của người trực tiếp nuôi con và người không trực tiếp nuôi con (cấp dưỡng,
thăm nom con). Đồng thời, luận văn trình bày thêm pháp luật Hơn nhân và Gia đình
của Việt Nam ở các giai đoạn lịch sử cũng như quy định pháp luật về Hơn nhân và
Gia đình của một số quốc gia trên thế giới, qua đó, tác giả có thêm cái nhìn tồn
diện từ lý luận đến thực tiễn, đưa ra một số kiến nghị có sự học hỏi, kế thừa các tài
liệu nước ngồi, nhằm hồn thiện pháp luật Hơn nhân và Gia đình về vấn đề trách
nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu, để hồn thành đề tài luận văn tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: phương pháp phân tích;
phương pháp tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu;
phương pháp diễn giải, quy nạp; tham khảo ý kiến của các chuyên gia và những
người làm công tác thực tiễn v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.


8
Kết cấu luận văn chia làm hai chương. Trong từng chương có sử dụng các
phương pháp cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, chứng minh: được sử dụng trong tồn bộ luận văn:

Gồm phân tích các quy định của pháp luật về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con
chung khi ly hơn và phân tích những bất cập, hạn chế của pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật trong cả hai chương.
- Phương pháp so sánh luật học, lịch sử: chủ yếu được sử dụng tại cả hai
chương, dùng để đối chiếu giữa các quy định pháp luật hiện hành với các quy định
pháp luật thời kỳ trước, giữa quy định pháp luật và áp dụng pháp luật ở Việt Nam
với quy định pháp luật và áp dụng pháp luật ở nước ngồi, từ đó, có thể đưa ra được
cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề nghiên cứu, qua đó thấy được mối liên hệ và
điểm mới tiến bộ cũng như những điểm còn hạn chế, cũng như lý giải vì sao có sự
khác biệt và rút ra kinh nghiệm giải quyết những vướng mắc, bất cập. Ngồi ra,
luận văn cịn sử dụng phương pháp so sánh các số liệu qua từng năm trong mục 2.1
về báo cáo thống kê của ngành Tòa án.
- Phương pháp bình luận án được sử dụng trong mục 2.1, mục 2.2 để làm rõ
hơn thực trạng áp dụng pháp luật, phân tích, nhận định rõ nguồn gốc và cách giải
quyết cho từng vấn đề.
- Phương pháp tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt luận văn để tổng hợp
những quy định về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn. Ngồi ra
cịn sử dụng phương pháp tổng hợp để rút lại vấn đề, đề xuất các kiến nghị, kết luận
của từng chương và kết luận của luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn nêu được những vấn đề cơ bản về trách nhiệm của cha, mẹ đối với
con chung khi ly hơn theo pháp luật HN&GĐ, qua đó, chứng minh quan điểm đúng
đắn, chính xác của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực thi trách nhiệm của mỗi
bên cha, mẹ đối với con chung nhằm bảo vệ quyền lợi về mọi mặt của các con
chung trong lĩnh vực Hơn nhân và Gia đình.
Từ những quy định của pháp luật về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con
chung khi ly hôn, luận văn khẳng định Nhà nước thừa nhận đây là trách nhiệm
chung của cả cha và mẹ đối với con chung khi ly hôn. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng việc thực thi pháp luật về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly
hôn theo các quy định pháp luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, luận văn nêu lên

được những ưu điểm cũng như phát hiện bất cập, hạn chế của pháp luật để từ đó đề


9
ra các giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn. Trên nền tảng đó, nhà nước ta
hồn thiện các chế định tư pháp, tăng cường quyền tiếp cận công lý của công dân,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, nội
dung của luận văn bao gồm hai chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con
chung khi ly hôn.
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của cha,
mẹ đối với con chung khi ly hôn, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật.


10
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHA, MẸ
ĐỐI VỚI CON CHUNG KHI LY HƠN
1.1. Ly hơn và hậu quả của ly hôn đối với con chung
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân, là mặt bất thường nhưng không thể
thiếu của quan hệ HN&GĐ. Khi tình yêu thương giữa vợ, chồng đã hết, mâu thuẫn
ngày càng trầm trọng, mục đích hơn nhân khơng đạt được thì ly hơn được đặt ra
nhằm giải phóng cho vợ, chồng thốt khỏi những xung đột, bế tắc trong đời sống
hôn nhân. Nhà nước không buộc nam, nữ yêu nhau phải kết hôn với nhau thì cũng

khơng thể buộc vợ chồng phải cùng chung sống và duy trì quan hệ hơn nhân khi
tình cảm u thương, gắn bó giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân không thể
đạt được. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan
vỡ. Khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, thực chất quan hệ vợ chồng đã
hồn tồn mất hết ý nghĩa thì "tự do ly hơn khơng có nghĩa là làm tan rã những mối
quan hệ gia đình mà ngược lại nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở
dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong xã hội văn minh"1.
Việc cấm hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân,
V.I. Lênin đã khẳng định: “Người ta không thể là một người dân chủ và xã hội chủ
nghĩa nếu ngay từ bây giờ khơng địi quyền hồn tồn tự do ly hơn, vì thiếu quyền
tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ nữ. Tuy hồn tồn
chẳng khó khăn gì mà khơng hiểu được rằng khi ta thừa nhận cho phụ nữ tự do bỏ
chồng khơng có nghĩa là ta khuyên tất cả họ bỏ chồng”2.
Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân vợ chồng theo bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án3. Quyền ly hơn của vợ chồng phải
đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước nhằm hạn chế, ngăn chặn những hiện
tượng vợ chồng lạm dụng quyền tự do ly hôn gây hậu quả xấu cho gia đình và xã
hội. Như vậy, khi nhận thấy cuộc hôn nhân sai lầm, quan hệ vợ chồng căng thẳng,
nặng nề thì ai cũng có thể đứng ra u cầu Tịa án chấm dứt quan hệ đó. Tịa án sẽ
nhìn nhận, xem xét tồn diện vấn đề và đưa ra quyết định cuối cùng. Đảm bảo
quyền tự do ly hôn là một nội dung quan trọng của nguyên tắc hơn nhân tự nguyện,
1

V.I. Lênin (1980), Tồn tập, tập 25, Nxb. Tiến bộ, Maxtcơva, tr.335.
V.I. Lênin (1980), tldđ (1), tr.350.
3
Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.
2



11
tiến bộ đã được ghi nhận tại Điều 36 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa tại
Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy nhiên, tự do ly hôn không phải là tự do một
cách tùy tiện mà phải dựa vào những căn cứ luật định là quan hệ vợ chồng lâm vào
"tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân
khơng đạt được"4 và ly hơn chỉ có giá trị pháp lý khi được Tịa án cơng nhận.
1.1.2. Hậu quả pháp lý và xã hội của việc cha mẹ ly hôn đối với con chung
Trẻ em là hạnh phúc, là niềm vui của cha, mẹ. Khi gia đình tan vỡ do việc
cha, mẹ ly hơn thì chính trẻ em là người chịu thiệt thịi nhất. Quyết định ly hơn có
thể khiến cho người lớn hài lòng nhưng đối với con trẻ lại là nỗi bất hạnh, buồn
tủi, thậm chí có thể trở thành cơn bão, đẩy các em vào sóng gió. Đối với những số
phận không may mắn, người xung quanh chỉ có thể cảm thơng, giúp đỡ, an ủi một
phần mà chẳng thể nào bù đắp được những mất mát to lớn trong tâm hồn và tình
cảm của các em.
Khi cha, mẹ ly hôn, quan hệ hôn nhân chấm dứt, tuy nhiên quan hệ huyết
thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ và con vẫn tồn tại. Do đó, cha, mẹ vẫn
phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con. Cha, mẹ là người sinh thành ra
các con, thì cha, mẹ phải có trách nhiệm chăm sóc, ni dưỡng các con khi chúng
chưa thể tự lo cho bản thân mình mà khơng phụ thuộc vào hồn cảnh gia đình.
Nếu như, khi cùng chung sống dưới một mái nhà, cả cha và mẹ đều có nghĩa
vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, ni dưỡng con5, thì nay, khi ly hôn,
trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung có sự thay đổi, do con chỉ được sống với
một người (cha hoặc mẹ, là người có khả năng bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho
con) nên cách thức thực hiện trách nhiệm của cha, mẹ có một số thay đổi, đặc biệt là
đối với người không trực tiếp nuôi con. Đứa con chỉ nhận được sự chăm sóc, ni
dưỡng trực tiếp bởi một người, cịn người kia thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
một cách gián tiếp qua việc thăm nom, cấp dưỡng cho con. Đây là sự cố gắng bù
đắp chứ không thể lấp đầy khoảng trống về mặt tình cảm của những đứa trẻ cịn
ngây thơ. Bởi vì, chúng chỉ mới là những đứa trẻ rất ngây thơ và có quyền được
sống trong gia đình hạnh phúc có cả cha và mẹ6. Nhưng dù không muốn, đứa trẻ chỉ

được sống với một người. Ở lứa tuổi đang cần sự dỗ dành, chăm sóc của mẹ cùng
sự dạy dỗ, giáo dục của cha lại phải sống với một người thì chắc chắn trong tâm hồn
4

Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.
Khoản 1 Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2014.
6
Điều 15 Luật Trẻ em năm 2016.
5


12
trẻ sẽ có sự thiếu hụt và lệch lạc. Và khơng ít trẻ đã lâm vào tình trạng rụt rè, thiếu
tự tin, khơng hịa nhập được với các bạn bè cùng lứa.
Đối với người con, khi không cùng được sống với cả cha và mẹ là một thiệt
thịi khơng gì bù đắp được. Sự thiệt thịi, mất mát khơng chỉ dừng lại ở việc con
không được sống cùng cả cha và mẹ mà ngay cả sự gần gũi, gắn bó giữa các anh,
chị, em trong gia đình cũng bị chia rẽ. Khi một người khơng đủ khả năng chăm sóc
cho tất cả các con thì họ buộc phải lựa chọn đứa con nào ở với mình để quyền lợi
của chúng được đảm bảo hơn và khi đó, các anh, chị, em sẽ phải chia lìa nhau.
Quyết định khó khăn đó cũng là để bảo đảm cuộc sống vật chất cho con, nhưng lại
làm mất đi một cuộc sống vui vẻ với tình cảm yêu thương, quấn quýt nhau giữa các
anh, chị, em trong một gia đình.
Những hậu quả pháp lý của ly hôn sẽ kéo theo những hậu quả về mặt xã hội
rất nặng nề, ảnh hưởng tới cuộc sống và sự phát triển của các em.
Trước hết, hậu quả về mặt xã hội của việc cha, mẹ ly hôn đối với con chung
là những trẻ em này sẽ bị đưa vào cuộc chiến giằng co giữa cha và mẹ để tranh
giành quyền nuôi con chung khi ly hôn. Thông thường, khi ly hôn, vợ chồng sẽ
không ai chịu trách nhiệm phần lỗi về mình, do đó, cả hai sẽ tìm cách che giấu
khuyết điểm của bản thân cũng như đổ hết phần lỗi về người kia, dựa vào việc

chứng minh yếu tố lỗi đó để u cầu Tịa án được giành quyền trực tiếp nuôi con 7.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp cả hai thuận tình ly hơn, khơng ai đổ lỗi cho ai và
thống nhất thỏa thuận cùng nhau ni dạy con, tìm cách đền bù thiệt thịi cho con
nhưng chỉ khác là họ không thể cùng chung sống với nhau như một gia đình đúng
nghĩa. Thật vậy, dù thực tế ai đúng, ai sai hay cả hai đều sai thì trong tâm lý trẻ thơ,
chúng chỉ muốn biết những điều tốt đẹp, hãnh diện về cha, mẹ chứ không phải là
những điều xấu, những lý do đã khiến cho cha, mẹ chúng rời bỏ nhau. Vì vậy,
những điều tiêu cực kia sẽ làm mất dần hình ảnh đẹp của người cha, người mẹ trong
mắt các con, nhất là khi chúng đối diện với những khó khăn và thử thách của cuộc
sống. Ảnh hưởng này sẽ khiến các em có cái nhìn tiêu cực về HN&GĐ. Các em sẽ
khơng tìm được một mái ấm gia đình hạnh phúc8. Ý nghĩa và đặc tính của hơn nhân
cũng sẽ được diễn dịch một cách lệch lạc khi các em nhìn vào hình mẫu cha, mẹ
mình và đời sống HN&GĐ của cha, mẹ khi ly hôn. Những hậu quả tiêu cực này có
7

Xem thêm:“Hậu họa từ cơn nóng giận lúc giành con”, truy cập lần cuối ngày 25/7/2020.
8
Xem thêm: “Tan đàn xẻ nghé”, truy cập lần
cuối ngày 25/7/2020.


13
thể dẫn đến những diễn biến phức tạp trong cuộc sống sau này của trẻ như không
hạnh phúc với cuộc sống như trước hoặc có những hành vi cư xử liều lĩnh, thiếu suy
nghĩ, không cần để ý đến hậu quả như tệ nạn phá thai và ly hôn…
Khi cha, mẹ ly hơn, con thường có tâm trạng lo lắng, bất an, có cảm giác bị
cha, mẹ mình bỏ rơi. Cũng có trường hợp trẻ tự kết tội mình có phần nào trách
nhiệm trong việc ly hôn của cha, mẹ. Sự buồn bã, suy nhược, cách ly, mất ngủ,
cùng với những cơn ác mộng và những nỗi sợ hãi, ám ảnh ban đêm… đều là những
nguyên nhân làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống tinh thần của một đứa trẻ 9.

Kết quả học tập của trẻ cũng có phần sụt giảm. Đôi khi đứa trẻ chuyển sự thô bạo
trong gia đình sang những quan hệ xã hội. Trong những trường hợp khác, chúng
chọn thái độ của một người lớn trưởng thành sớm, chúng già giặn và khơng cịn sự
hồn nhiên như bạn bè cùng lứa.
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là thế hệ kế thừa
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu không được sự quan tâm của xã hội, sự
bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của đất nước khơng thể trở thành những
cơng dân có ích cho xã hội mai sau. Những trẻ có cha, mẹ ly hơn phải chịu nhiều
thiệt thịi so với các bạn bè đồng lứa, hơn nữa, chúng vẫn còn chưa thể tự chăm sóc
cho bản thân, vì vậy, cha, mẹ cần quan tâm đặc biệt đến đối tượng này. Mặt khác,
chúng đang trong quá trình phát triển về nhân cách và nhận thức, nên cần sự yêu
thương, quan tâm, giáo dục và dạy dỗ của cha, mẹ. Đây cũng là lứa tuổi dễ bị lợi
dụng, dễ sa ngã trước những cám dỗ, cạm bẫy của xã hội nên sự quan tâm, sự định
hướng của cha, mẹ và người lớn giữ vai trò đặc biệt quan trọng và là yếu tố quyết
định tương lai của mỗi đứa trẻ.
Chính vì thế, cha, mẹ có quyền ly hơn với nhau bằng một bản án, quyết định
có hiệu lực của tịa án nhưng khơng ai có quyền chối bỏ trách nhiệm của mình đối
với con chung, ngay cả khi hơn nhân khơng cịn tồn tại.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của
cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn
Dưới góc độ pháp lý, cha, mẹ và con là những chủ thể quan hệ pháp luật
HN&GĐ, theo đó, pháp luật quy định rất cụ thể những trách nhiệm mà họ phải đảm
9

Xem thêm: Phạm Thị Thu Hoa, Đồng Thị Yến (2011), "Thực trạng ảnh hưởng của cha mẹ ly hôn đến đời
sống tâm lý thanh thiếu niên qua khảo sát tại huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương", Tạp chí Tâm lý học, số 10
(151), tr.12 - tr.19.



14
bảo thực hiện đối với con chung khi ly hôn. Các quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ và
con mang những đặc điểm giống như các quan hệ pháp luật HN&GĐ nói chung. Tuy
nhiên, nội dung quan hệ pháp luật trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly
hơn cịn mang một yếu tố rất đặc trưng của gia đình Việt Nam, đó là xuất phát từ tình
cảm yêu thương gắn bó giữa cha, mẹ với con cái; giữa các thành viên trong gia đình,
tất cả trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung đều hướng tới việc đảm bảo cho sự
phát triển lành mạnh và toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần của con khi ly hơn.
Để có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi
ly hơn, trước hết, ta cần tìm hiểu nội dung của thuật ngữ “trách nhiệm”. Theo Từ
điển Tiếng Việt, “trách nhiệm” là một từ Hán - Việt (責任)10, có nhiều cách hiểu
khác nhau: Một là “nhận cái việc ấy là phần việc của mình, mà gánh lấy” hoặc
trách nhiệm thể hiện một sự dấn thân, một sự cam kết của một chủ thể này với một
chủ thể khác. Hai là “trách nhiệm” theo nghĩa là nghĩa vụ, nhiệm vụ, bổn phận,
quyền hạn như là “bổn phận phải thực hiện, nó cịn là điều không được làm, được
làm, phải làm và nên làm hoặc là những gì mà họ buộc phải làm và phải chịu sự
giám sát của người khác”11. Ba là trách nhiệm “thường được hiểu là khả năng của
con người ý thức được những kết quả hoạt động của mình, đồng thời là khả năng
thực hiện một cách tự giác những nghĩa vụ được đặt ra cho mình” 12. Bốn là “trách
nhiệm là sự thực hiện bổn phận, nghĩa vụ của chủ thể đối với người khác, với xã hội
một cách tự giác. Trách nhiệm đối lập với vô trách nhiệm, gắn liền với chịu trách
nhiệm”13. Nhìn chung, các cách hiểu trên đều tiếp cận trách nhiệm theo nghĩa là
nghĩa vụ, nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn. Với nghĩa này, “trách nhiệm” là nghĩa
vụ, bổn phận phải làm, nên làm, được làm hoặc khơng được làm, có thể từ sự tự
nguyện, tự giác hay buộc phải thực hiện do yêu cầu, đòi hỏi của các quy phạm xã
hội (pháp luật, đạo đức…).
Trong các ngôn ngữ phương Tây, phần nào giúp chúng ta hiểu đúng bản chất
của nó. Về mặt ngữ nghĩa, “responsibility” (tiếng Anh), “responsabilité” (tiếng
Pháp) có nguồn gốc tiếng la-tinh - “respondere” (responsus), có nghĩa là sự bảo đảm,
chịu trách nhiệm, ràng buộc với một cam kết trọng thể, với một lời hứa, một sự cam

10

Đào Duy Anh (2013), Hán - Việt từ điển giản yếu, Nxb. Văn hóa thông tin, tr.716.
Đỗ Minh Hợp (2017), “Tự do và trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh”, Tạp chí Triết học, số 12, tr.27 - 33.
12
Nguyễn Văn Phúc (chủ biên) (2008), Tự do và trách nhiệm trong hoạt động của con người, trong: Phạm Văn Đức
và các cộng sự, Công bằng xã hội trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.330 - 331.
13
Cao Minh Công (2012), Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ,
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, tr.43.
11


15
đoan14. Trong tiếng Pháp phổ thông, từ “trách nhiệm” được định nghĩa như là
“nghĩa vụ phải bảo đảm cho một số hành vi”. Và thuật ngữ “trách nhiệm” có thể
được dùng tương đương với thuật ngữ “nghĩa vụ” (obligation), “bổn phận” (devoir),
dù các khái niệm này không phải lúc nào cũng tương đồng. Trong tiếng Anh, ngồi từ
“responsibility”, ngơn ngữ pháp lý thường dùng từ “liability” để chỉ “trách nhiệm”.
Từ này tương đương với “nghĩa vụ” (obligation), “nợ phải trả” (debt).
Như vậy, có thể nói rằng khái niệm “trách nhiệm” cũng không thể tách rời
khỏi “nghĩa vụ”. Theo cách định nghĩa trên thì “trách nhiệm” có nhiều điểm tương
đồng với “nghĩa vụ”, nhưng nó cũng hàm chứa một điểm khác biệt quan trọng, đó là
yếu tố “hậu quả”. Với trách nhiệm pháp lý, tức trách nhiệm đã được điều chỉnh và
bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, các “hậu quả” này sẽ là
“hậu quả bất lợi” được áp đặt lên những người phải chịu trách nhiệm pháp lý. Trách
nhiệm pháp lý luôn là một chế định quan trọng đối với mọi hệ thống luật, bảo đảm
cho sự tuân thủ pháp luật của các thành viên trong xã hội. Trách nhiệm của cha, mẹ
đối với con chung khi ly hôn là một trách nhiệm pháp lý xuất hiện khi có sự vi phạm
pháp luật, là hậu quả của hành vi vi phạm và thể hiện sự răn đe của Nhà nước đối với

những hành vi vi phạm. Chính vì thế, pháp luật quy định trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ của cha, mẹ đối với con vừa dựa trên những chuẩn mực về đạo đức mà nền tảng
của nó xuất phát từ những yếu tố tình cảm, huyết thống, nuôi dưỡng nhưng vẫn phải
đảm bảo theo quy tắc thống nhất theo sự điều chỉnh của pháp luật.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu: “Trách nhiệm của cha, mẹ đối với
con chung khi ly hôn là tổng hợp các biện pháp, cơ chế, cách thức được pháp luật
quy định nhằm đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ phải làm vì lợi
ích của con chung trên thực tế, đảm bảo cho các quyền cơ bản của con không bị
xâm phạm, hạn chế hoặc bị ảnh hưởng xấu do việc ly hôn của cha, mẹ gây ra, cũng
như đảm bảo việc xử lý nghiêm khắc, kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của con”.
1.2.2. Đặc điểm về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn
Khi ly hôn, trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung được Luật HN&GĐ
và BLDS điều chỉnh. Trong đó, Luật HN&GĐ có nhiều quy định mang tính đặc thù
hơn về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung.
14

Christoph EBERHARD (2008), “La responsabilité en France: Une approche juridique face à la
complexité du monde”, in Edith Sizoo (dir), Responsabilité et cultures du monde. Dialogue autour d’un défi
collectif, Éditions Charles Léopold Mayer, Paris, tr.160.


16
Từ khái niệm đã nêu ở phần trên ta có thể rút ra một số đặc điểm về trách
nhiệm của cha mẹ đối với con chung khi ly hôn như sau:
Thứ nhất, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung
dựa trên những sự kiện đặc biệt là huyết thống hoặc nuôi dưỡng nên mang tính chất
lâu dài bền vững. Cho nên, dù hơn nhân trên thực tế đã chấm dứt nhưng trách nhiệm
của cha, mẹ đối với con chung vẫn tồn tại, đây là điểm khác biệt so với trách nhiệm
dân sự phát sinh thông qua sự thoả thuận theo hợp đồng dân sự hoặc theo quy định

pháp luật như bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ tồn tại trong một thời hạn xác
định. Do đó, về nguyên tắc chung, trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly
hôn được xác lập từ khi con chung được sinh ra cho đến khi con đã thành niên, bởi
lẽ, con sinh ra trong giai đoạn chưa thành niên rất cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục của cả cha và mẹ. Hơn thế nữa, việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em là trách
nhiệm của gia đình và tồn xã hội nên trẻ có cha, mẹ ly hơn cũng có quyền được
hưởng những quyền mà mọi trẻ em bình thường khác được hưởng như học tập, vui
chơi, sự quan tâm, chăm sóc…, mặc dù chúng chưa đủ sức khỏe và trình độ tham
gia vào các quan hệ lao động phức tạp để tự nuôi sống bản thân. Hơn nữa, pháp luật
cũng quy định người chưa thành niên chưa có đủ quyền và nghĩa vụ của một công
dân độc lập15, nên các em cần có người đại diện theo pháp luật, để xác lập thực hiện
các giao dịch dân sự hoặc tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Vì vậy, các em
chưa thể sống độc lập và cần sự ni dưỡng, dìu dắt của cha, mẹ và người thân. Bên
cạnh đó, đối với con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình, mặc dù phù hợp
với các quy định của pháp luật là một công dân độc lập nhưng bị khiếm khuyết về
nhận thức nên khơng có khả năng lao động. Nếu khơng có tài sản để tự ni mình
thì họ cũng không biết nương tựa vào ai để tồn tại. Do đó, họ khơng thể tự chăm sóc
mình nên pháp luật vẫn quy định việc cha, mẹ chăm sóc ni dưỡng con trong
trường hợp này là nghĩa vụ bắt buộc, qua đó, nâng cao trách nhiệm của những
người làm cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn. Quy định này thể hiện tính nhân
văn sâu sắc, tính nhân đạo của pháp luật HN&GĐ. Còn với trường hợp con đã thành
niên bị tàn tật vẫn có khả năng lao động hoặc có tài sản để đảm bảo cuộc sống của
họ như một người con thành niên bình thường thì cha, mẹ có thể coi như đã chấm
dứt trách nhiệm của mình. Vì cả trên phương diện thực tế và pháp lý thì họ đều đã
có đầy đủ khả năng để trở thành một con người độc lập trong xã hội.
15

Điều 21 BLDS năm 2015.



17
Thứ hai, trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn tn theo
ngun tắc bình đẳng. Điều này đã được Luật HN&GĐ quy định rõ khi xây dựng
các chế định về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con. Pháp luật chỉ dựa vào sự tồn
tại của quan hệ cha, mẹ và con, chứ không phân biệt tính chất của quan hệ đó, do
vậy, trách nhiệm của cha, mẹ gắn với tư cách của cha, mẹ chứ khơng lệ thuộc vào
tình trạng hơn nhân của cha, mẹ. Theo đó, cha, mẹ dù khơng cịn tồn tại hơn nhân
trên thực tế nhưng họ vẫn phải đảm bảo việc thực thi trách nhiệm chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục con chung là ngang nhau. Khi Tòa án giải quyết việc ly hôn, đồng
thời cũng giải quyết vấn đề con chung, nhưng không phải là giải quyết theo hướng
phân công cho một bên cha hoặc mẹ phải thực hiện trách nhiệm chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục con, mà Tịa án cần áp dụng các quy phạm pháp luật để đảm bảo cả
cha và mẹ đều cùng thực hiện đầy đủ trách nhiệm của cả hai. Điều này vừa đảm bảo
trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung, vừa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
con chung khi cha, mẹ ly hôn. Cả cha hoặc mẹ không thể cùng nhau thực hiện việc
chăm sóc, ni dưỡng con chung như trước vì trách nhiệm này phải được thực hiện
bởi người trực tiếp ni con. Do đó, người khơng trực tiếp ni con chỉ có thể thực
hiện gián tiếp qua việc thăm nom và cấp dưỡng nuôi con. Như vậy, khi ly hôn, dù
không cùng chung sống nhưng cha, mẹ vẫn phải đảm bảo việc thực thi trách nhiệm
của mình đối với con chung là bình đẳng, ngang nhau, tuy nhiên cách thức thực
hiện trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn có một số thay đổi do
con chỉ được chăm sóc, ni dưỡng trực tiếp bởi một người (là người có khả năng
bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho con) và người kia thực hiện trách nhiệm của
mình một cách gián tiếp qua việc thăm nom, cấp dưỡng cho con; trừ trường hợp
cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên theo quyết định của Tòa án.
Thứ ba, trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn có mối quan hệ
chặt chẽ, tương ứng với nhau không thể tách rời. Luật HN&GĐ quy định các quyền
của cha, mẹ cũng đồng thời chính là nghĩa vụ của họ hay nói khác đi trong quyền có
nghĩa vụ và ngược lại, vì thế Luật dùng thuật ngữ “nghĩa vụ và quyền” thay cho việc

chỉ dùng “nghĩa vụ” hoặc “quyền”. Mặt khác, việc dùng thuật ngữ “trách nhiệm”
của cha, mẹ là nhằm mục đích nhấn mạnh nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chung
khi ly hôn, đồng thời, thể hiện sự thay đổi triệt để về cách nhìn của những người làm
luật hiện đại so với những người làm luật cổ về nghĩa vụ và quyền của cha, mẹ đối
với con. Bởi vì cha, mẹ sinh ra con, trước hết, phải đặt nghĩa vụ ni dạy con lên
hàng đầu, có như vậy, mới có thể tạo mơi trường tốt nhất để con cái có điều kiện phát


18
triển tồn diện. Do đó, khi cha, mẹ ly hơn, dù muốn hay khơng thì họ vẫn phải có mối
quan hệ qua lại với nhau, ở một mức độ nhất định, bởi giữa họ vẫn cịn "sợi dây" ràng
buộc đó là những đứa con chung để cùng nhau thực hiện trách nhiệm chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục đối với con chung của cả cha và mẹ. Quyền của người trực tiếp nuôi
con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con và ngược lại, khi nhận thấy người
trực tiếp ni con khơng cịn đủ điều kiện trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng,
giáo dục con thì được u cầu thay đổi người trực tiếp ni con, tuy có thay đổi về
quyền và nghĩa vụ của cả cha và mẹ nhưng không làm thay đổi nội dung về quyền và
nghĩa vụ của cha và mẹ đối với con chung khi ly hôn bởi đây là mối quan hệ song
hành, tương ứng với nhau và không thể tách rời.
Thứ tư, mặc dù quan hệ hôn nhân chấm dứt, nhưng quan hệ huyết thống và quan
hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ và con vẫn tồn tại, chưa kể mối quan hệ cha, mẹ và con
chung cũng xuất phát từ tình cảm gia đình thiêng liêng nên khơng thể mang tính chất
đền bù ngang giá, đồng thời nó cịn gắn liền với nhân thân của cha, mẹ nên dù hôn
nhân không tồn tại thì trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hơn (ví dụ:
trách nhiệm cấp dưỡng) cũng không thể chuyển giao cho người khác. Nếu như, trong
quan hệ dân sự thông thường, giữa các chủ thể tham gia thì quyền của chủ thể này
tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể khác, nó mang tính chất đền bù ngang giá và cái
mà các chủ thể hướng tới, thơng thường là lợi ích vật chất (tài sản) thì trong quan hệ
pháp luật HN&GĐ, khi ly hôn, nghĩa vụ và quyền của cha, mẹ đối với quyền và nghĩa
vụ của con chung khơng thể tách rời, khơng mang tình chất đền bù ngang giá. Suy cho

cùng, trong các quyền của cha, mẹ đều chứa đựng các yếu tố nghĩa vụ và ngược lại, các
nghĩa vụ của cha, mẹ đều thể hiện quyền của cha, mẹ và mục đích mà các chủ thể
hướng tới khơng phải là lợi ích về tài sản, mục đích cuối cùng vẫn là vì sự phát triển và
đảm bảo các quyền lợi hợp pháp của những đứa con chung, vì sự ổn định của xã hội.
Thứ năm, trách nhiệm của cha, mẹ đối với con cùng được thực hiện một cách
trực tiếp bởi cả cha và mẹ với con chung, nên dù cha, mẹ có ly hơn thì mối quan hệ
cha, mẹ với con chung vẫn tồn tại. Tuy cha, mẹ khơng cịn cùng chung sống, nhưng
cả hai vẫn phải đảm bảo việc thực hiện trách nhiệm một cách trực tiếp bởi vì cha,
mẹ là người sinh ra hoặc nuôi dưỡng con, là chủ thể tích cực nhất trong việc thực
hiện các nghĩa vụ và quyền đối với con, không thể ủy quyền của cha, mẹ cho người
khác trong việc nuôi, dạy con. Thực hiện cùng nhau bởi vì khi ly hơn, tuy khơng
cịn sống chung cùng nhau nhưng cha, mẹ không thể thực hiện nghĩa vụ và quyền
của cha, mẹ một cách phân tán, độc lập được mà mỗi người phải cùng nhau thực


19
hiện nghĩa vụ và quyền của cả hai, theo vai trị, vị trí của từng người nhưng có hợp
tác, bàn bạc thống nhất trên cơ sở đảm bảo lợi ích mọi mặt của con chung.
1.2.3. Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung
khi ly hôn trong Luật HN&GĐ
* Ý nghĩa pháp lý
Là cơ sở pháp lý để nâng cao tinh thần trách nhiệm của cha, mẹ và cũng là cơ
sở để họ thực thi quyền và nghĩa vụ của mình: Cha mẹ là người sinh thành ra các
con, cho con sự sống, vì vậy, cha, mẹ cũng là người phải có trách nhiệm với con.
Dù cuộc sống khó khăn hay đầy đủ, cha, mẹ có hạnh phúc hay khơng thể cùng
chung sống thì cũng khơng được trốn tránh trách nhiệm của mình. Trong gia đình,
việc cùng nhau chăm sóc, dạy dỗ con là hạnh phúc của cả cha và mẹ. Sự vất vả, bận
rộn của cha, mẹ luôn được động viên bởi ý nghĩ đem lại sự đầy đủ, niềm vui cho
con. Tuy nhiên, khi mục đích của hơn nhân khơng đạt được, cha, mẹ thường hay đổ
lỗi cho nhau về sự tan vỡ của gia đình, kết quả minh chứng cho tình yêu của cả hai

là con cái sẽ phải đối diện với nguy cơ bị bỏ rơi hoặc chỉ nhận được một nửa sự yêu
thương. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho trẻ em, pháp luật đã quy định
ni, dạy con khơng chỉ là quyền mà cịn là nghĩa vụ của cha, mẹ. Nuôi con là một
nghĩa vụ luật định nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người làm cha, làm mẹ,
đặc biệt là khi họ đã ly hơn. Đó cũng là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho con
chung khi người làm cha, làm mẹ khơng thực hiện đúng trách nhiệm của mình.
Sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong trường hợp đặc
biệt. Bảo vệ trẻ em luôn là điều được xã hội quan tâm, nhất là trong giai đoạn hiện
nay. Cả xã hội đã luôn cố gắng tạo điều kiện cho trẻ em được phát triển một cách
toàn diện. Nhà nước đã đưa ra rất nhiều chủ trương, chính sách và nâng lên thành
luật. Rất nhiều quyền lợi của trẻ được pháp luật bảo vệ như quyền được cha, mẹ
chăm sóc, ni dưỡng, được học hành, vui chơi và phát triển tồn diện… Trẻ em có
cha, mẹ ly hôn là một đối tượng đặc biệt bởi vì so với những trẻ khác vì chúng phải
chịu nhiều thiệt thịi và bất hạnh. Do đó, những quy định của Luật HN&GĐ 2014 về
trách nhiệm của cha, mẹ đối với con chung khi ly hôn cùng như việc đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của con chung chính là sự cụ thể hóa của nguyên tắc bảo vệ trẻ em
trong trường hợp đặc biệt.
* Ý nghĩa xã hội:
Góp phần tiếp nối truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Lịch sử đất nước
ta từ xưa đến nay, tình mẫu tử, tình phụ tử ln chiếm một vị trí thiêng liêng trong


×