Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Luật doanh nghiệp và luật đầu tư năm 2014 những đổi mới nhằm hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 190 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI

TÀI LIỆU PHỤC VỤ HỘI THẢO

LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ LUẬT
ĐẦU TƢ NĂM 2014: NHỮNG ĐỔI MỚI
NHẰM HIỆN THỰC HĨA QUYỀN TỰ
DO KINH DOANH

TP. HỒ CHÍ MINH – 30/10/2015


HỘI THẢO
“LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ LUẬT ĐẦU TƢ NĂM 2014: NHỮNG ĐỔI
MỚI NHẰM HIỆN THỰC HÓA QUYỀN TỰ DO KINH DOANH”
MỤC LỤC
---- ---Chƣơng trình hội thảo

1

Trang 1

Cải cách trong đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tƣ theo Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tƣ năm 2014 - Nhìn từ góc độ quyền con
Trang 3
ngƣời

ThS. Từ Thanh Thảo


2

3

Ngành, nghề đầu tƣ kinh doanh có điều kiện và điều kiện đầu tƣ kinh
doanh theo Luật Đầu tƣ năm 2014 - Nhìn từ góc độ quyền con ngƣời
Trang 20
TS. Hà Thị Thanh Bình
Một số bình luận về quyền tự do kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp
năm 2014

Trang 32

PGS.TS Dương Anh Sơn, TS. Trần Thanh Hương

4

Những cải cách về doanh nghiệp nhà nƣớc trong Luật Doanh nghiệp
năm 2014 nhằm đảm bảo quyền bình đẳng trong kinh doanh
Trang 41
ThS. Phạm Hoài Huấn & ThS Lê Thị Ngân Hà

5

Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhìn từ góc độ
quyền tự do kinh doanh
Trang 47
ThS. Võ Sỹ Mạnh

6


Những quy định của Luật Đầu tƣ năm 2014 tạo thuận lợi cho thị trƣờng
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
Trang 59
TS. Phạm Trí Hùng

7

Những quy định về tổ chức lại doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014 tạo thuận lợi cho thị trƣờng mua bán, sáp nhập doanh nghiệp Trang 69
ThS. Trần Thanh Bình

8

Vấn đề đảm bảo quyền của các nhà đầu tƣ tƣ nhân trong các dự án đầu
tƣ theo hình thức đối tác cơng - tƣ
Trang 81
ThS. Nguyễn Hoàng Thùy Trang

9

Quyền thành lập, quản lý và góp vốn vào doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014 - Nhìn dƣới góc độ quyền con ngƣời
Trang 90
ThS. Nguyễn Văn Hùng


Một số quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về thành lập, quản lý
Trang 102
10 và giải thể doanh nghiệp dƣới góc độ quyền tự do kinh doanh

ThS. Nguyễn Kiên Bích Tuyền
Quyền của doanh nghiệp đối với con dấu theo Luật Doanh nghiệp năm
Trang 109
11 2014
CN. Nguyễn Tuấn Vũ
Con dấu của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm
Trang 121
12 2014 và các quy định khác có liên quan
ThS. Võ Trung Tín & Kiều Anh Vũ
Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về ngƣời đại diện
theo pháp luật của công ty TNHH và công ty CP dƣới góc độ quyền tự
Trang 138
13
do kinh doanh
CN. Nguyễn Thị Thương & CN. Ngơ Gia Hồng
Quyền tự chủ trong tổ chức quản lý công ty TNHH theo Luật Doanh
Trang 152
14 nghiệp năm 2014
ThS. Bùi Thị Thanh Thảo
Quyền tự chủ trong tổ chức quản lý công ty cổ phần theo Luật Doanh
Trang 164
15 nghiệp năm 2014
ThS. Đặng Quốc Chương
Những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tƣ năm
Trang 180
16 2014 tác động tới tự do hợp đồng
PGS.TS Phan Huy Hồng


1


CHƢƠNG TRÌNH HỘI THẢO
“LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ LUẬT ĐẦU TƢ NĂM 2014: NHỮNG
ĐỔI MỚI NHẰM HIỆN THỰC HÓA QUYỀN TỰ DO KINH DOANH”
--------------------------Thời gian: 8h00, thứ 6, ngày 30/10/2015
Địa điểm: Phòng họp A.905, Trường đại học Luật TP.HCM, 02 Nguyễn Tất Thành,
Quận 4 TP.HCM
7:30 – 8:00

Đón đại biểu

8:00 – 8:10

Khai mạc hội thảo
Phát biểu đề dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Vân - Trưởng khoa Luật thương
mại
Trình bày tham luận và thảo luận
Chủ tọa: PGS.TS Nguyễn Văn Vân - TS. Hà Thị Thanh Bình
Cải cách trong đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tư theo Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014 - Nhìn từ góc độ quyền con người

ThS. Từ Thanh Thảo
Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh
theo Luật Đầu tư năm 2014 - Nhìn từ góc độ quyền con người
TS. Hà Thị Thanh Bình
Một số bình luận về quyền tự do kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm
2014

8:10 – 10:00


PGS.TS Dương Anh Sơn, TS. Trần Thanh Hương
Những cải cách về doanh nghiệp nhà nước trong Luật Doanh nghiệp năm
2014 nhằm đảm bảo quyền bình đẳng trong kinh doanh
ThS. Lê Thị Ngân Hà & ThS. Phạm Hoài Huấn
Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhìn từ góc độ quyền
tự do kinh doanh
ThS. Võ Sỹ Mạnh
Những quy định của Luật Đầu tư năm 2014 tạo thuận lợi cho thị trường mua
bán, sáp nhập doanh nghiệp
TS. Phạm Trí Hùng
Những quy định về tổ chức lại doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm
2014 tạo thuận lợi cho thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
ThS. Trần Thanh Bình


2

Vấn đề đảm bảo quyền của các nhà đầu tư tư nhân trong các dự án đầu tư
theo hình thức đối tác cơng - tư
ThS. Nguyễn Hồng Thùy Trang

Trao đổi - thảo luận
Quyền thành lập, quản lý và góp vốn vào doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp năm 2014 - Nhìn dưới góc độ quyền con người
ThS. Nguyễn Văn Hùng
Một số quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về thành lập, quản lý và
giải thể doanh nghiệp dưới góc độ quyền tự do kinh doanh
ThS. Nguyễn Kiên Bích Tuyền
Quyền của doanh nghiệp đối với con dấu theo Luật Doanh nghiệp năm 2014
CN. Nguyễn Tuấn Vũ

Con dấu của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014
và các quy định khác có liên quan
ThS. Võ Trung Tín & Kiều Anh Vũ

10:00 – 11:50

Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về người đại diện theo
pháp luật của công ty TNHH và cơng ty CP dưới góc độ quyền tự do kinh
doanh
CN. Nguyễn Thị Thương & CN. Ngô Gia Hồng
Quyền tự chủ trong tổ chức quản lý cơng ty TNHH theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014
ThS. Bùi Thị Thanh Thảo
Quyền tự chủ trong tổ chức quản lý công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014
ThS. Đặng Quốc Chương
Những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014
tác động tới tự do hợp đồng
PGS.TS Phan Huy Hồng

Trao đổi - thảo luận
11:50

Phát biểu bế mạc: PGS.TS Nguyễn Văn Vân


3

CẢI CÁCH TRONG ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP VÀ ĐĂNG KÝ
ĐẦU TƢ THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 VÀ LUẬT

ĐẦU TƢ NĂM 2014 – NHÌN TỪ GĨC ĐỘ QUYỀN CON NGƢỜI
THS. TỪ THANH THẢO
Khoa Luật thương mại, Trường đại học Luật TP.HCM
Tóm tắt
Luật Doanh nghiệp (LDN) và Luật Đầu tư (LĐT) năm 2014 có hiệu lực với
những cải cách thơng thống, có tính chất mạnh mẽ và sâu rộng về thủ tục
hành chính liên quan đến đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tư. Hai đạo
luật này đã tạo nên một hành lang pháp lý để người dân thực hiện quyền tự
do đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà luật không cấm. Với tinh
thần cải cách mạnh mẽ đó, hai đạo luật này được kỳ vọng sẽ tạo ra cú hích
to lớn thúc đẩy mơi trường kinh doanh phát triển, qua đó hiện thực hóa
quyền tự do kinh doanh theo Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, mọi cải cách đều
không thể tránh khỏi những trở ngại, bất cập. Những cải cách trong LDN và
LĐT mới vẫn chưa đáp ứng được mong muốn và kỳ vọng của cộng đồng
doanh nghiệp, dẫn đến chưa thật sự đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền
con người trong lĩnh vực kinh tế.
1. Đặt vấn đề
Nhằm hiện thực hóa và nâng lên tầm cao mới về việc đảm bảo quyền tự do
kinh doanh – một khía cạnh kinh tế quan trọng của nội dung quyền con người được
ghi nhận trong Hiến pháp 2013, Quốc hội đã ban hành hai đạo luật điều chỉnh hoạt
động đầu tư kinh doanh là LDN năm 2014 và LĐT năm 2014. Hai đạo luật này sẽ
tạo nên một hàng lang pháp lý để người dân thực hiện quyền tự do đầu tư kinh
doanh trong các ngành, nghề mà luật khơng cấm. Tuy nhiên, để việc hiện thực hóa
quyền tự do kinh doanh nhằm đảm bảo quyền con người không chỉ dừng lại ở các
qui định chung chung mang tính chất tun ngơn mà cần có các qui định chi tiết, rõ
ràng về khung pháp lý và qui trình, thủ tục cụ thể để thực hiện quyền tự do kinh
doanh. Trên tinh thần đó, LDN năm 2014 và LĐT năm 2014 đã có những qui định
mang tính chất cải cách sâu rộng và có tính đột phá về thủ tục đăng ký doanh
nghiệp và thủ tục đăng ký đầu tư. Dưới góc độ khoa học pháp lý, những cải cách về
thể chế liên quan đến hoạt động kinh doanh nói chung và những cải cách về thủ tục



4

đầu tư kinh doanh nói riêng cần được kiểm chứng tính hiệu quả thơng qua q trình
áp dụng trên thực tiễn và cần có sự nghiên cứu một cách tồn diện, thấu đáo để
đánh giá. Do vậy, mục tiêu bài viết này nhằm hệ thống hóa và đi sâu bình luận các
qui định của hai đạo luật trên về quá trình cải cách thủ tục đăng ký doanh nghiệp và
đăng ký đầu tư.

2. Những cải cách chung về đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tƣ
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được của LDN và LĐT năm 2005,
LDN năm 2014 và LĐT năm 2014 đã có những quy định mới mang tính cải cách
nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, an toàn hơn cho doanh
nghiệp.
2.1 Cải cách về tƣ duy pháp lý trong các qui định về đăng ký doanh
nghiệp và đăng ký đầu tƣ
Dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, pháp luật thực chất là
ý chí của nhà cầm quyền trong q trình điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một
chiều hướng cụ thể. Do vậy, thực tiễn khoa học pháp lý đã chứng minh một trong
những vấn đề ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động lập pháp là những vấn đề của tư
duy lập pháp. Tư duy lập pháp thay đổi thì hệ thống pháp luật sẽ thay đổi theo. Tư
duy lập pháp hiểu theo nghĩa rộng là những chủ thuyết của nhà cầm quyền khi điều
chỉnh quan hệ xã hội, còn theo nghĩa hẹp, tư duy lập pháp là những quan điểm cụ
thể của nhà làm luật đối với từng vấn đề pháp lý cụ thể tương ứng với từng giai
đoạn lịch sử cụ thể. Dưới góc độ cải cách thủ tục đăng ký doanh nghiệp và đăng ký
đầu tư, trong hơn 20 năm qua đã có nhiều chuyển biến quan trọng, mang tính chất
đột phá ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Từ buổi sơ khai với hai đạo luật được ban hành năm 1990 là Luật Công ty và
Luật Doanh nghiệp tư nhân, với ý niệm rằng nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ hoạt

động kinh doanh khơng chỉ trong q trình thành lập mà kể cả trong quá trình hoạt
động kinh doanh. Đặc trưng cơ bản của thủ tục đăng ký kinh doanh trong giai đoạn
này là cơ chế doanh nghiệp ―xin phép‖ và Nhà nước ―cho phép‖. Quá trình này dẫn
đến làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của người dân và đi ngược lại với chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó chương
trình cải cách tổng thể thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký kinh doanh đã có
sự chuyển biến mạnh mẽ với việc ban hành Luật Doanh nghiệp 1999 và đặc biệt là
LDN năm 2005. Tuy nhiên, các cải cách về thủ tục đăng ký kinh doanh trong LDN
năm 2005 còn tồn tại nhiều vướng mắc, tư tưởng về sự kiểm soát chặt chẽ các hoạt


5

động của doanh nghiệp ngay từ khâu đăng ký kinh doanh vẫn còn nặng nề. Đối với
LĐT năm 2005, các cải cách về thủ tục đầu tư còn chồng lấn sang phạm vi điều
chỉnh của LDN năm 2005, một số qui định về thủ tục đầu tư cịn thiếu tính khoa
học, đồng bộ dẫn đến tác động tiêu cực trở lại mơi trường kinh doanh.
Trên tinh thần đó, LDN và LĐT năm 2014 tiếp tục có sự thay đổi về tư duy
tiếp cận theo hướng đơn giản hóa, minh bạch hóa hơn nữa các thủ tục đăng ký
doanh nghiệp và đăng ký đầu tư, công bố công khai điều kiện để người dân, doanh
nghiệp chủ động đáp ứng, tuân thủ điều kiện theo quy định, từ đó tăng tính tự chủ
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời tăng cường trách nhiệm
hậu kiểm của cơ quan quản lý nhà nước. Theo đó hai đạo luật này đã thể chế hóa
tương đối đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo Hiến pháp năm 2013, giảm rủi ro và
tăng tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp.
2.2 Cải cách nhằm hiện thực hóa một cách đầy đủ quyền tự do kinh
doanh theo nguyên tắc “ngƣời dân đƣợc tự do kinh doanh trong ngành nghề
mà pháp luật không cấm”
Theo LDN năm 2005, doanh nghiệp được quyền tự do đăng ký ngành, nghề
kinh doanh và ngành nghề kinh doanh sẽ được ghi nhận đầy đủ trên Giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh. Khi đó doanh nghiệp chỉ được quyền kinh doanh theo
đúng ngành nghề đã đăng ký và được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp1. Với qui định này quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp đã bị ―bóp
méo‖, theo đó doanh nghiệp chỉ tự do kinh doanh trong phạm vi rất hẹp các ngành
nghề đã đăng ký. Theo LDN năm 2014, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
không bao gồm thông tin về ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, mà chỉ có
những thơng tin cơ bản như mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính và thơng tin về
người đại diện theo pháp luật và vốn điều lệ2. Với qui định này cùng với qui định
doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm3
đã mở ra môi trường kinh doanh đầy thơng thống cho doanh nghiệp nhằm hiện
thực hóa quyền con người – quyền tự do kinh doanh.
2.3 Cải cách nhằm chuyển hƣớng tiếp cận từ “tiền kiểm” sang “hậu
kiểm” trong thủ tục đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tƣ

1

Điều 9 LDN năm 2005: Nghĩa vụ của doanh nghiệp: 1. Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã
ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2

Xem Điều 29 LDN năm 2014 về Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

3

khoản 1 Điều 7 LDN năm 2014


6

Tư tưởng về vấn đề chuyển hướng tiếp cận từ ―tiền kiểm‖ sang ―hậu kiểm‖

trong thủ tục đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tư đã được LDN và LĐT năm
2005 qui định. Đến LDN và LĐT năm 2014, vấn đề này đã được triển khai thực
hiện triệt để trong công tác cải cách thủ tục đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu
tư, góp phần tạo dựng khung pháp lý minh bạch hơn và khoa học hơn, phù hợp với
yêu cầu thực tiễn. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ tiếp nhận và chấp nhận
những thông tin do chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư đăng ký thành lập doanh nghiệp
và đăng ký dự án đầu tư, và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ4. Theo đó,
người thành lập doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp tự kê khai hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, trung thực và chính
xác của các thơng tin kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp5. Trên cơ sở này,
Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về Đăng ký doanh nghiệp (Nghị định
78/2015/NĐ-CP) đã qui định chi tiết về công tác phối hợp trong quá trình hậu kiểm
đối với doanh nghiệp khi doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề có điều kiện.
Việc quản lý nhà nước đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và kiểm
tra việc chấp hành điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của cơ
quan chuyên ngành theo quy định của pháp luật chuyên ngành6.
2.4 Cải cách cơ chế liên thơng và tích hợp nhiều thủ tục nhằm tinh giảm
thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tƣ
Ngồi thủ tục đăng ký kinh doanh, để có thể gia nhập thị trường, doanh
nghiệp còn cần phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính khác, trong đó hai thủ tục
quan trọng nhất là đăng ký thuế và khắc con dấu. LDN và LĐT năm 2014 tiếp tục
thể hiện mạnh mẽ cơ chế liên thông các thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế
theo nguyên tắc liên thông ―một cửa‖, loại bỏ những khâu, thủ tục bất hợp lý hoặc
khơng cần thiết. Cịn đối với con dấu, doanh nghiệp tự khắc dấu hoặc thuê các
doanh nghiệp khác thực hiện và trước khi sử dụng doanh nghiệp có nghĩa vụ thông
báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp7. Đồng thời LDN năm 2014 cũng cải
cách theo hướng kết hợp đồng thời các thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đăng ký lao
động và đăng ký bảo hiểm xã hội nhằm làm cho hoạt động kinh doanh trở nên linh
động hơn và tiết kiệm hơn.

2.5 Cải cách về ứng dụng triệt để công nghệ thông tin trong lĩnh vực đăng
ký doanh nghiệp
4

Điểm đ khoản 1 Điều 209, LDN năm 2014
Điều 4 Nghị định 78/2015/NĐ-CP
6
Xem thêm khoản 8,9 Điều 7 Nghị định 78/2015/NĐ-CP
7
khoản 2 Điều 44, LDN năm 2014
5


7

Việc thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử được xem là một
cơng cụ tiện lợi, góp phần giảm thiểu thời gian thực hiện thủ tục đăng ký doanh
nghiệp, minh bạch hóa cơng tác đăng ký doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ cơ quan
đăng ký kinh doanh trong việc tiếp nhận và quản lý hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.
Việc đưa vào sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và Cổng
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp đã góp phần áp dụng triệt để công nghệ
thông tin trong việc lưu giữ, quản lý và cung cấp thông tin về doanh nghiệp một
cách hiệu quả. Thông tin trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và tình trạng pháp lý
của doanh nghiệp lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp có giá
trị pháp lý là thơng tin gốc về doanh nghiệp8. Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện
tử cho phép tổ chức, cá nhân được lựa chọn sử dụng chữ ký số công cộng hoặc sử
dụng tài khoản đăng ký kinh doanh để đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử. Hồ
sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử có giá trị pháp lý như hồ sơ đăng ký
doanh nghiệp bằng bản giấy9.
2.6 Cải cách nhằm thống nhất hóa trên phạm vi cả nƣớc về thủ tục đăng

ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tƣ
Để đảm bảo công bằng cho mọi thành phần kinh tế khi tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh, LDN năm 2014 và Nghị định 78/2015/NĐ-CP đã khẳng
định các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp
không được ban hành các quy định về đăng ký doanh nghiệp áp dụng riêng cho
ngành hoặc địa phương mình. Đồng thời, những quy định về đăng ký doanh nghiệp
do các đơn vị nói trên ban hành trái với quy định này hết hiệu lực thi hành kể từ
ngày Nghị định 78/2015/NĐ-CP có hiệu lực10. Quy định này sẽ hạn chế tối đa việc
các bộ, địa phương ban hành các quy định về đăng ký doanh nghiệp áp dụng cá biệt
cho ngành, địa phương mình, qua đó đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh cho tất cả
nhà đầu tư, doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường, đồng thời thống nhất thực
hiện quy định về đăng ký doanh nghiệp tại tất cả các địa phương trên tồn quốc .
Bên cạnh đó Luật Đầu tư năm 2014 cũng qui định rõ Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không
được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh11.
3. Những cải cách cụ thể về đăng ký doanh nghiệp
3.1 Cải cách cụ thể về đăng ký đăng ký thành lập doanh nghiệp
8

Khoản 4 Điều 3 Nghị định 78/2015/NĐ-CP
Khoản 6Điều 3 Nghị định 78/2015/NĐ-CP
10
Khoản 4Điều 4 Nghị định 78/2015/NĐ-CP
11
Khoản 3 Điều 7 Luật đầu tư năm 2014.
9


8


Về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, LDN năm 2014 đã có nhiều cải
cách quan trọng trong việc giảm chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính
biểu hiện thơng qua các qui định sau:
- Một là, Luật đã bãi bỏ yêu cầu về điều kiện kinh doanh tại thời điểm
thành lập doanh nghiệp, bãi bỏ yêu cầu về chứng chỉ hành nghề, xác nhận vốn
pháp định trong hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp. Điều này được thể hiện rõ
trong các qui định về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp từ điều 20 đến điều 23 của LDN
năm 2014. LDN năm 2014 đã quy định tách bạch giữa yêu cầu thành lập doanh
nghiệp và yêu cầu về điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện. Chúng tơi cho rằng đây là một bước cải cách lớn nhất, quan trọng nhất trong
thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp. Bởi lẽ việc thành lập doanh nghiệp
trong nhiều trường hợp chỉ để cụ thể hóa các ý tưởng trong kinh doanh, theo đó
doanh nghiệp giống như một cơng cụ hay phương tiện để thực các ý tưởng đó, cịn
việc các ý tưởng này có đủ điều kiện và chất xúc tác để thực hiện trong thực tiễn
hay không là câu chuyện của tương lai. Do đó khi mới ở giai đoạn khởi đầu cho
việc hiện thực hóa ý tưởng trong kinh doanh, chúng ta không thể bắt buộc doanh
nghiệp phải đáp ứng hết mọi điều kiện cần thiết12. Quy định này nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thành lập, hoạt động kinh doanh, minh
bạch hóa mơi trường kinh doanh.
Hai là, LDN năm 2014 và Nghị định 78/2015/NĐ-CP đã kết hợp đồng thời
các thủ tục đăng ký doanh nghiệp, công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp, đăng
ký lao động và đăng ký bảo hiểm. Luật Doanh nghiệp đã giao cho Chính phủ quy
định chi tiết trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, sự phối hợp liên thông
giữa các cơ quan trong việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, đăng ký
lao động, bảo hiểm xã hội và đăng ký doanh nghiệp qua mạng thơng tin điện tử13.
Ngồi ra LDN năm 2014 cịn qui định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan
đăng ký kinh doanh cho cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan quản lý lao động,
cơ quan bảo hiểm xã hội14. Đồng thời, các cơ quan sử dụng thơng tin về đăng ký
doanh nghiệp do Phịng Đăng ký kinh doanh cung cấp không được yêu cầu doanh
nghiệp cung cấp các thơng tin mà Phịng Đăng ký kinh doanh đã gửi15.

12

Điều 7 khoản 1,5 Luật đầu tư 2014: ―Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phịng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.‖ ―Ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành, nghề đó phải được đăng tải trên Cổng
thơng tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia‖.
13
Điều 27 khoản 4 Luật doanh nghiệp 2014
14
Điều 34 khoản 1 Luật doanh nghiệp 2014
15
Điều 31 khoản 1 Nghị định 78/2015/NĐ-CP


9

Ba là, LDN năm 2014 đã tách bạch thủ tục đăng ký thành lập doanh
nghiệp với các thủ tục về đăng ký đầu tư. Theo LĐT năm 2005, nhà đầu tư nước
ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư gắn với thành lập tổ chức
kinh tế và Giấy chứng nhận đầu tư cấp cho nhà đầu tư nước ngoài đồng thời là Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh16. LĐT năm 2014 đã tách bạch thủ tục đăng ký đầu
tư và thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp đối với nhà đầu tư nước ngồi tại Việt
Nam. Theo đó, sau khi thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhà
đầu tư nước ngoài được phép thành lập doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh
doanh theo qui định chung của Luật doanh nghiệp.
- Bốn là, về hồ sơ thực hiện thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. LDN
năm 2014 chuẩn hoá các bộ hồ sơ theo hướng tinh gọn nhất có thể và nghiêm cấm
cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm giấy
tờ khác trái với quy định của Luật này17. Qui định này nhằm thống nhất hóa và

minh bạch hóa bộ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, tránh tình trạng cơ quan đăng ký
kinh doanh gây phiền hà, sách nhiễu người thành lập doanh nghiệp. Đồng thời
người thành lập doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp nộp một bộ hồ sơ khi thực hiện
thủ tục đăng ký doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh không được yêu cầu
người thành lập doanh nghiệp nộp thêm hồ sơ hoặc giấy tờ khác ngoài các giấy tờ
trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp theo quy định18.
- Năm là, LDN năm 2014 đã bãi bỏ việc ghi ngành nghề đầu tư kinh
doanh trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp19. Điều này nhìn thống qua
chỉ là yếu tố về mặt kỹ thuật, nhưng xét dưới góc độ đảm bảo quyền tự do kinh
doanh, thì đây là một bước cải cách quan trọng nhất, có tính chất ―cách mạng‖ nhất
trong LDN năm 2014. Qui định này là sự khẳng định rõ ràng quyền tự do kinh
doanh theo nguyên tắc doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong những ngành,
nghề mà luật khơng cấm và doanh nghiệp có quyền tự chủ động lựa chọn ngành,
nghề, chủ động điều chỉnh ngành, nghề kinh doanh20. Để thể chế hóa đầy đủ quyền
tự do kinh doanh của Hiến pháp mới, LDN năm 2014 đã chuyển từ nguyên tắc tự do
kinh doanh những gì ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sang nguyên
tắc tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm.
- Sáu là, LDN năm 2014 đã rút ngắn tối thiểu thời gian giải quyết thủ tục
đăng ký doanh nghiệp và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp xuống
16

Điều 50 khoản 1 Luật đầu tư 2005
Khoản 1 Điều 17 LDN năm 2014
18
Khoản 1,2 Điều 9 Nghị định 78/2015/NĐ-CP
19
Xem điều 29 LDN năm 2014
20
Khoản 1,2 Xem Điều 7 LDN năm 2014
17



10

tối đa không quá 03 ngày. Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét
tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ21. Có thể thấy rằng
đây là một trong những cải cách nhằm rút ngắn thời gian gia nhập thị trường, giúp
doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và tận dụng các cơ hội trong kinh doanh.
- Bảy là, cải cách về thay đổi phương thức quản lý và bãi bỏ thủ tục về
đăng ký mẫu dấu của doanh nghiệp. LDN năm 2014 đã trao việc quyết định về
hình thức, số lượng và nội dung con dấu cho doanh nghiệp22. Trước khi sử dụng,
doanh nghiệp có nghĩa vụ thơng báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để
đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Quy định
này sẽ góp phần nâng cao hơn nữa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, trong
đó có việc tự do sáng tạo mẫu dấu của doanh nghiệp.
3.2 Cải cách cụ thể về thủ tục đăng ký doanh nghiệp trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp
Về vấn đề này, cải cách quan trọng nhất là LDN năm 2014 đã phân định
thành các nhóm thủ tục khác nhau tương ứng với tính chất đặc thù của từng nhóm
thủ tục cũng như áp dụng chung một kết quả cho từng nhóm thủ tục. Theo đó, LDN
năm 2014 chia thủ tục đăng ký doanh nghiệp trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp thành các nhóm thủ tục: (i) Đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp; (ii) Thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp; (iii) Công bố
nội dung đăng ký doanh nghiệp; (iv) Một số nghĩa vụ thơng báo, báo cáo khác. Có
thể thấy đây là một cải cách vừa mang tính hệ thống và có tính chất chọn lọc các
trường hợp thay đổi khác nhau để sắp xếp thành những nhóm thủ tục khác nhau,
chứ khơng cào bằng và máy móc áp dụng chung thủ tục cho mọi sự thay đổi trong
nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh như Luật Doanh nghiệp cũ.
3.2.1 Đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

Doanh nghiệp phải đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh khi thay đổi nội
dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp quy định tại Điều 29 LDN năm 2014.
Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét tính hợp lệ của hồ sơ và cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới23. Như vậy chỉ khi doanh nghiệp có
những thay đổi về các nội dung ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp thì doanh nghiệp mới tiến hành thủ tục đăng ký thay đổi nội dung đăng ký

21

Khoản 2 Điều 27 LDN năm 2014, tương tự xem khoản 3 Điều 31 LDN năm 2014
Xem điều 44 LDN năm 2014
23
Xem thêm Điều 31 LDN năm 2014
22


11

doanh nghiệp và khi đó hệ quả của thủ tục này là doanh nghiệp được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới.
3.2.2 Thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp
Doanh nghiệp phải thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh khi thay đổi
về một trong những nội dung như thay đổi ngành, nghề kinh doanh, thay đổi những
nội dung khác trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh có
xem xét tính hợp lệ của hồ sơ và thực hiện thay đổi nội dung đăng ký doanh
nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp Giấy
xác nhận về việc thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp. Rõ
ràng những sự thay đổi này không ảnh hưởng đến nội dung Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp nên doanh nghiệp chỉ cần thông báo cho cơ quan đăng ký kinh
doanh để cập nhật lên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Chúng tôi

cho rằng cải cách này là một bước tiến lớn nhằm giảm thiểu các trường hợp cấp lại
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, tạo ra sự ổn định cho hoạt động chung của
doanh nghiệp.
3.2.3 Công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp
Doanh nghiệp sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,
phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Trường hợp thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, những thay đổi tương ứng
phải được thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp24. Qui định này nhằm minh bạch hóa ở mức độ tối đa về hoạt động của
doanh nghiệp, làm cho việc tiếp cận doanh nghiệp của cộng đồng xã hội trở nên dễ
dàng hơn và thuận tiện hơn.
3.2.4 Một số nghĩa vụ thông báo, báo cáo khác
Một số nghĩa vụ thông báo, báo cáo khác gồm thông báo mẫu con dấu; Công
ty cổ phần phải thông báo việc chào bán cổ phần riêng lẻ; Thông báo tạm ngừng
kinh doanh, tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo; Thông báo về việc
chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh; Công ty
cổ phần không phải là công ty niêm yết phải thơng báo khi có thơng tin hoặc có
thay đổi các thơng tin của cổ đơng là cá nhân nước ngồi; Báo cáo thay đổi thơng
tin của người quản lý doanh nghiệp…Chúng tôi cho rằng LDN năm 2014 đã qui
định thêm quá nhiều nghĩa vụ thông báo/báo cáo của doanh nghiệp nhằm mục đích
tăng cường thơng tin phục vụ cho công tác hậu kiểm. Tuy nhiên với quá nhiều nghĩa

24

Điều 33 LDN năm 2014


12

vụ thông báo/báo cáo như vậy sẽ gây ra nhiều thủ tục hành chính khơng cần thiết,

gây thêm phiên hà cho doanh nghiệp.
3.3 Cải cách về thủ tục tái cấu trúc doanh nghiệp
LDN năm 2014 đã mở rộng các đối tượng được quyền hợp nhất, chia, tách,
sáp nhập công ty. Theo LDN năm 2005, việc hợp nhất, chia, tách, sáp nhập chỉ áp
dụng đối với các công ty cùng loại. Quy định nêu trên đã hạn chế và cản trở việc tổ
chức lại doanh nghiệp, làm hạn chế quyền tự do dinh doanh. Do vậy, LDN năm
2014 đã cho phép các cơng ty khác loại hình có thể hợp nhất, chia, tách, sáp nhập.
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp mới cũng đã bổ sung thêm quy định hướng dẫn cụ thể
trình tự, thủ tục về phương thức chức lại doanh nghiệp. Đây là điểm đổi mới rất
quan trọng, góp phần thúc đẩy thị trường M&A trong thời gian tới ở nước ta.
3.4 Cải cách về thủ tục giải thể doanh nghiệp
Trước kia các quy định về giải thể và dừng hoạt động của doanh nghiệp
trong LDN năm 2005 chưa rõ ràng, thiếu hiệu quả và còn phức tạp. Nhằm khắc
phục những vướng mắc nêu trên, quy trình giải thể doanh nghiệp trong Luật Doanh
nghiệp mới quy định đã được cải cách. Theo đó, thời hạn tối đa để cơ quan đăng ký
kinh doanh thực hiện thủ tục xóa tên doanh nghiệp là 5 ngày làm việc kể từ ngày
nhận hồ sơ giải thể. Đồng thời, doanh nghiệp sẽ được tự động giải thể sau 180 ngày
kể từ ngày cơ quan đăng ký kinh doanh nhận được quyết định giải thể của doanh
nghiệp25. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể, Phòng
Đăng ký kinh doanh chuyển tình trạng pháp lý của doanh nghiệp trong Cơ sở dữ
liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp sang tình trạng giải thể nếu khơng nhận được
ý kiến từ chối của cơ quan thuế, đồng thời ra thông báo về việc giải thể của doanh
nghiệp. Ngoài ra, LDN năm 2014 cũng bổ sung quy định về giải thể doanh nghiệp
trong trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc theo quyết
định của Tòa án.
4. Cải cách trong thủ tục đăng ký đầu tƣ theo Luật đầu tƣ 2014
LĐT năm 2014 thay thế cho LĐT năm 2005 với nhiều thay đổi quan trọng,
đặc biệt là các quy định về lĩnh vực cấm đầu tư, đầu tư có điều kiện và cải cách
mạnh mẽ thủ tục hành chính về đầu tư. Những cải cách triệt để trong LĐT năm
2014 nhằm tạo môi trường đầu tư minh bạch, tạo bước chuyển biến mới về cải cách

thủ tục hành chính trong thực hiện hoạt động đầu tư.
4.1 Cải cách chung về thủ tục đăng ký đầu tƣ
25

Xem Điều 202 LDN năm 2014


13

4.1.1 Cải cách về hình thức đầu tư và loại thủ tục đăng ký đầu tư
- Thứ nhất, cải cách về hình thức đầu tư. Trước kia theo LĐT năm 2005,
hình thức đầu tư được chia thành hai loại là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp trên
cơ sở dựa vào vai trò của nhà đầu tư đối với việc quản lý dự án. Tuy nhiên, hai hình
thức đầu tư này chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của nhà đầu tư, do vậy rất khó có tách
biệt rạch rịi giữa hai hình thức này, từ đó LĐT nămLĐT năm 2014 đưa ra khái
niệm ―Đầu tư kinh doanh‖ để thay thế các khái niệm này. Theo đó, ―Đầu tư kinh
doanh‖ là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông
qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của
tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư26.
- Thứ hai, cải cách về loại thủ tục đăng ký đầu tư được áp dụng để thực
hiện dự án đầu tư. Theo LĐT năm 2005, hai thủ tục đầu tư được áp dụng là thủ tục
đăng ký đầu tư và thủ tục thẩm tra đầu tư. Việc phân định các thủ tục này dựa vào
số vốn đầu tư của dự án, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư của dự án và tư cách chủ thể
của nhà đầu tư. Các qui định này còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập, thủ tục hành
chính rờm rà, cịn tồn tại sâu sự phân biệt đối xử giữa các dự án đầu tư trong và
ngoài nước…Do vậy LĐT năm 2014 đã có cải cách theo hướng phân định rạch ròi
các loại thủ tục quyết định chủ trương đầu tư, thủ tục cấp, điều chỉnh và thu hồi
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần
vốn góp vào tổ chức kinh tế.
4.1.2 Cải cách chế độ phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư

Để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với các dự án
đầu tư quan trọng, có quy mơ lớn và tác động liên ngành, liên vùng, LĐT năm 2014
đã bổ sung quy định về thẩm quyền, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc
hội, Thủ tướng Chính phủ và bổ sung quy định về thẩm quyền chấp thuận chủ
trương đầu tư của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh đối với các dự án được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Ngoài ra, Luật Đầu tư
mới đã chuyển thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư từ UBND cấp tỉnh
sang Sở kế hoạch và đầu tư nhằm thực hiện mạnh mẽ chủ trương phân cấp quản lý
dự án đầu tư cho các cơ quan quản lý chuyên ngành27.
4.2 Các cải cách cụ thể về thủ tục đăng ký đầu tƣ
4.2.1 Cải cách về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư

26
27

Khoản 5 Điều 3 LĐT năm 2014.
Xem Điều 38 LĐT năm 2014.


14

- Một là, bãi bỏ hoàn toàn việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối
với các dự án của nhà đầu tư trong nước28. Nhƣ trên đã phân tích, Theo LĐT
năm 2005, chỉ đối với các dự án đầu tư trong nước có quy mơ vốn đầu tư dưới mười
lăm tỷ đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì
nhà đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư. Còn các dự án còn lại của nhà
đầu tư trong nước tùy theo thủ tục đăng ký hay thẩm tra đều được cấp Giấy chứng
nhận đầu tư29. Trên tinh thần cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, LĐT năm 2014
qui định các dự án của nhà đầu tƣ trong nƣớc sẽ không phải thực hiện thủ tục
cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tƣ30. Trường hợp có nhu cầu cấp Giấy chứng

nhận đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư thì nhà đầu tư thực hiện thủ tục cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều 37 của Luật này. Chúng tôi cho
rằng đây là một trong những cải cách rất quan trọng và phù hợp với nhu cầu thực
tiễn của hoạt động đầu tư trong nước. Việc bãi bỏ hoàn toàn việc cấp Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án của nhà đầu tƣ trong nƣớc sẽ góp phần to
lớn vào việc bảo đảm và nâng cao hơn nữa việc thực hiện quyền tự do kinh
doanh, làm cho hoạt động đầu tƣ kinh doanh trở nên linh động, thích ứng với
sự thay đổi thƣờng xun của mơi trƣờng kinh doanh, qua đó các nhà đầu tƣ
có thể dễ dàng nắm bắt và tận dụng các cơ hội kinh doanh.
- Hai là, LĐT năm 2014 đã thu hẹp phạm vi cấp Giấy chứng nhận đầu tư
đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngồi. Trƣớc đây theo LĐT năm 2005, tất
cả các dự án đầu tư có vốn nước ngồi khơng kể tỷ lệ vốn của nhà đầu tư nước
ngồi trong dự án đó là bao nhiêu thì nhà đầu tư đều phải làm thủ tục để được cấp
Giấy chứng nhận đầu tư. Điều này vơ hình chung đã gây ra nhiều phiền toái và cản
trở hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. LĐT năm 2014 đã có sự phân
định rất rõ ràng giữa dự án của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thuần túy31 và tổ chức
kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngồi32. Theo đó chỉ các dự án của nhà đầu tƣ nƣớc
ngồi là những dự án đƣơng nhiên thuộc diện phải đƣợc cấp Giấy chứng nhận

28

Khoản 15 Điều 3 LĐT năm 2014: Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh
tế khơng có nhà đầu tư nước ngồi là thành viên hoặc cổ đơng.
29
Lưu ý rằng LĐT năm 2014 đã sử dụng thuật ngữ Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thay cho thuật ngữ Giấy
chứng nhận đầu tư trong LĐT năm 2005. Sự thay đổi này là hoàn toàn phù hợp và đúng với bản chất của việc
cấp giấy này. Vì việc cấp giấy chỉ diễn ra ở giai đoạn đăng ký đầu tư, và nhà nước chứng nhận nhà đầu tư đã
đăng ký dự án đúng qui trình, thủ tục. Cịn việc dự án đó được đầu tư thực hiện ra sao đó là câu chuyện của
tương lai nên ở giai đoạn này Nhà nước chưa thể chứng nhận hoạt động đầu tư, mà chỉ chứng nhận việc đăng
ký đầu tư mà thôi.

30
Khoản Điều 36 2 LĐT năm 2014
31
Khoản 14 Điều 3 LĐT năm 2014: Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngồi, tổ chức
thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
32
Khoản 12 Điều 3 LĐT năm 2014: Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là tổ chức kinh tế có nhà đầu
tư nước ngồi là thành viên hoặc cổ đông.


15

đăng ký đầu tƣ33. Còn dự án của tổ chức kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngồi thì
tùy từng trƣờng hợp mà có thể cấp hoặc khơng cần phải cấp Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tƣ34.
4.2.2 Cải cách về quy trình thành lập doanh nghiệp của nhà đầu tư nước
ngoài
Trước đây, LĐT năm 2005 đã lấn sân điều chỉnh cả hoạt động đăng ký kinh
doanh của Luật Doanh nghiệp với qui định ― Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh‖. LĐT năm 2014 đã cải cách theo hướng bãi
bỏ yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh để tách bạch hoạt động đầu tư theo dự án với hoạt động đăng ký kinh doanh.
Theo qui định mới này, sau khi thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư theo Luật Đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài tiến hành thủ tục thành lập doanh
nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp theo Luật doanh nghiệp35.
4.2.3 Cải cách quy trình góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu
tư nước ngồi
Theo LĐT năm 2005, hoạt động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước
ngoài vào các doanh nghiệp tại Việt Nam là một hoạt động đầu tư nước ngồi, do

vậy hoạt động này phải tn thủ qui trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Qui định này
trong nhiều trường hợp là không cần thiết, cản trở việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta. Do vậy LĐT năm 2014 đã cải cách theo hướng thừa nhận các
nhà đầu tư nước ngồi khi đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào các
doanh nghiệp tại Việt Nam được trực tiếp thực hiện thủ tục thay đổi thành viên/cổ
đông theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp mà không phải thực hiện thủ tục
cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư36. Tuy nhiên, nếu nhà đầu tư
nước ngồi góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế hoạt động
trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước
ngoài; hoặc việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến nhà đầu tư nước
ngoài, tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật Đầu tư nắm giữ từ
51% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế thì nhà đầu tư nước ngồi phải thực hiện
thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế. Sở Kế
hoạch và Đầu tư thông báo bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ
33

Khoản Điều 36 1 LĐT năm 2014
Xem thêm Điều 23 và Điều 36 LĐT năm 2014
35
Điều 22 LĐT năm 2014
36
Khoản 4 Điều 26, LĐT năm 2014
34


16

hồ sơ để nhà đầu tư thực hiện thủ tục thay đổi cổ đông, thành viên theo quy định
của Luật Doanh nghiệp37.
4.2.4 Cải cách rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận

đăng ký đầu tư
Thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đã được LĐT năm 2014 rút
ngắn đáng kể, cụ thể là 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản quyết định
chủ trương đầu tư cho các dự án đầu tư thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư; đối
với các dự án khác là 15 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan cấp phép nhận đủ hồ
sơ38. Đây cũng là qui định góp phần cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu
tư nước ngồi, đẩy mạnh hơn nữa lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
4.2.5 Cải cách thủ tục đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài
LĐT năm 2014 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 Quy định về
đầu tư ra nước ngoài đã cải cách thành hai dạng thủ tục đầu ra nước ngoài, bao
gồm: (i) thủ tục đăng ký và cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và (ii) thủ tục quyết
định chủ trương đầu tư và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư39. Ngoài ra, Luật
Đầu tư đã bổ sung hình thức đầu tư ra nước ngồi thơng qua mua, bán chứng khốn,
các giấy tờ có giá khác và đầu tư thơng qua các quỹ đầu tư chứng khốn, các định
chế tài chính trung gian khác ở nước ngồi mà không trực tiếp tham gia quản lý
hoạt động đầu tư.
5. Những bất cập và hạn chế trong cải cách về đăng ký doanh nghiệp và
đăng ký đầu tƣ và vấn đề đảm bảo quyền con ngƣời
Những cải cách nêu trên của LDN và LĐT năm 2014 mang nhiều tính đột
phá, góp phần to lớn vào q trình đảm bảo quyền tự do kinh doanh – quyền con
người. Tuy nhiên, những cải cách này còn bộc lộ một số điểm bất cập và hạn chế
sau đây:
- Một là, đối với ngành nghề kinh doanh. Khi đăng ký doanh nghiệp, trên
Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp vẫn phải kê khai ngành nghề kinh doanh và
trong điều lệ doanh nghiệp cũng phải ghi nhận ngành nghề kinh doanh40. Bên cạnh
đó, trong quá trình kinh doanh, nếu doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề ngoài
phạm vi các ngành nghề đã kê khai trên Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp trong
hồ sơ đăng ký kinh doanh thì doanh nghiệp lại phải làm thủ tục thông báo đến cơ
37


khoản 1,3 Điều 26 LĐT năm 2014
Xem Điều 37 LĐT năm 2014
39
Xem thêm Điều 54, và Điều 59 LĐT năm 2014
40
Xem Điều 24 và Điều 25 LDN năm 2014
38


17

quan đăng ký kinh doanh41. Chúng tôi cho rằng các qui định này là không thật sự
cần thiết, gây thêm nhiều thủ tục phiền hà cho doanh nghiệp và do vậy cải cách về
ngành nghề kinh doanh chưa thật sự triệt để. Bởi theo qui định tại Điều 29 LDN
năm 2014, trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã bỏ việc ghi ngành nghề
nhằm hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh. Ngoài ra, trong điều lệ của doanh
nghiệp cũng phải ghi vào rõ ngành nghề kinh doanh. Vì vậy, mỗi khi doanh nghiệp
muốn thay đổi ngành nghề kinh doanh thì phải làm thủ tục sửa đổi điều lệ. Do vậy
chúng tôi cho rằng để việc cải cách này được thật sự triệt để, đảm bảo hiện thực hóa
tối đa quyền tự do kinh doanh, thiết nghĩ Luật doanh nghiệp nên bãi bỏ qui định về
kê khai ngành nghề kinh doanh trên Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp và cả điều
lệ doanh nghiệp.
- Hai là, về việc nộp Phiếu lý lịch tư pháp. LDN năm 2014 qui định khi
đăng ký thành lập doanh nghiệp, trong một số trường hợp, cơ quan đăng ký kinh
doanh có thể yêu cầu người đăng ký nộp Phiếu lý lịch tư pháp42. Chúng tơi cho rằng
qui định lập lờ như vậy có thể tạo điều kiện cho cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ tùy
tiện áp dụng, gây thêm nhiều khó khăn, rối rắm cho người thành lập doanh nghiệp.
- Ba là, các cải cách về con dấu chưa thiệt sự triệt để, mặt khác có thể gây ra
những rắc rối mới về việc sử dụng con dấu trên thực tế. Luật Doanh nghiệp yêu cầu
trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan

đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký
doanh nghiệp. Quá trình này làm mất thêm nhiều thời gian và chi phí gia nhập thị
trường của doanh nghiệp. Chúng tôi cho rằng Luật Doanh nghiệp cần bãi bỏ hẳn
việc sử dụng con dấu, và trao quyền hoàn toàn tự quyết cho doanh nghiệp việc có sử
dụng con dấu hay khơng và sử dụng như thế nào. Qua đó bãi bỏ thủ tục thơng báo
và cấp giấy chứng nhận mẫu dấu như hiện nay.
- Bốn là, số lần nộp hồ sơ tăng lên gấp ba lần so với qui định cũ khi đăng
ký doanh nghiệp, theo đó doanh nghiệp mất tới ba lần nộp ba bộ hồ sơ. Một là nộp
hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp mất 3 ngày, sau đó có Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải nộp hồ sơ công bố thông tin lên Cổng thông tin
đăng ký quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mất 1 ngày và nộp hồ sơ thông báo mẫu
con dấu đến cơ quan đăng ký kinh doanh mất 3 ngày. Bên cạnh đó, hiện nay tồn bộ
quy trình đăng ký doanh nghiệp được cán bộ đăng ký kinh doanh tác nghiệp trên Hệ
thống Thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, do đó đặt ra yêu cầu các điều
kiện kỹ thuật của Hệ thống này phải sẵn sàng đáp ứng.
41
42

Xem Điều 31 LDN năm 2014
Xem khoản 2 Điều 18 LDN năm 2014


18

- Năm là, LDN năm 2014 qui định quá nhiều nghĩa vụ thông báo/báo cáo
của doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Điều này gây ra nhiều thủ tục
phiền hà và tăng chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp một cách không cần thiết.
Đồng thời sự can thiệp sâu của cơ quan hành chính làm giảm đi tính tự chủ trong
quản trị nội bộ doanh nghiệp.
- Sáu là, LĐT năm 2014 có xu hướng giảm nhẹ thủ tục cho các nhà đầu tư

trong nước nhưng lại gia tăng thêm sự kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các dự án
của nhà đầu tư nước ngồi. Chúng tơi cho rằng, qui định mọi dự án của nhà đầu tư
nước ngồi đều phải thơng qua thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là
khơng cần thiết. Theo đó, chỉ những dự án đầu tư có điều kiện, chúng ta mới gia
tăng tính kiểm sốt thơng qua thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, còn
những dự án cịn lại nên để nhà đầu tư nước ngồi tự do thực hiện trong khuôn khổ
Luật Doanh nghiệp và các luật chuyên ngành khác. Bên cạnh đó nên bỏ hẳn thủ tục
thông báo theo Luật Đầu tư khi nhà nhà đầu tư nước ngồi góp vốn, mua cổ phần,
phần vốn góp vào tổ chức kinh tế, mà nên áp dụng thống nhất thủ tục đăng ký thay
đổi thành viên, cổ đông theo Luật Doanh nghiệp cho tất cả các trường hợp đầu tư
góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế. Có như vậy chúng ta mới
đảm bảo tối đa quyền tự do kinh doanh và thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam.
- Bảy là, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư còn quá phức tạp và kéo
dài. Theo đó khơng chỉ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ mà cả UBND cấp tỉnh cũng
có quyền chấp thuận chủ trương đầu tư. Bên cạnh đó, số lượng các dự án thuộc diện
chấp thuận chủ trương còn quá nhiều43, và hồ sơ, trình tự cịn q phức tạp, do
nhiều bộ ngành liên quan tham gia thẩm định44, thời gian thẩm định kéo dài. Chúng
tôi cho rằng nên giảm bớt số lượng và thời gian thực hiện thủ tục thẩm định chấp
thuận chủ trương đầu tư nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính và tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư.
- Tám là, đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi, việc Luật Đầu
tư căn cứ vào tỉ lệ 51% thuộc sở hữu của bên nước ngồi như đã phân tích để áp
dụng thủ tục đầu tư như nhà đầu tư trong nước hoặc như nhà đầu tư nước ngồi cho
tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi cũng là điều cịn nhiều bất cập. Bởi lẽ tỷ lệ
này có thể thay đổi bất kỳ lúc nào xuất phát từ hoạt động chuyển nhượng vốn góp,
cổ phần của các nhà đầu tư. Khi đó tư cách chủ thể của tổ chức kinh tế có vốn đầu

43
44


Xem Điều 30,31,32 LĐT năm 2014
Xem Điều 33,34,35 LĐT năm 2014


19

tư nước ngồi có thể thay đổi kéo theo sự thay đổi toàn bộ về các thủ tục đầu tư
được áp dụng.
6. Kết luận
LDN và LĐT năm 2014 có hiệu lực với cải cách thơng thống, có tính chất

mạnh mẽ và sâu rộng về thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký doanh nghiệp và
đăng ký đầu tư. Với tinh thần cải cách mạnh mẽ đó, hai đạo luật này được kỳ vọng
sẽ tạo ra cú hích to lớn thúc đẩy mơi trường kinh doanh phát triển, qua đó hiện thực
hóa quyền tự do kinh doanh, quyền con người trong lĩnh vực kinh tế. Hai đạo luật
này góp phần to lớn tạo ra bước đột phá trong cải cách hành chính, nâng cao tính
thống nhất, minh bạch và bình đẳng của khung pháp lý về kinh doanh ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, mọi cải cách đều không thể tránh khỏi những
trở ngại, bất cập. Những cải cách trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư vẫn chưa
đáp ứng được mong muốn và kỳ vọng thật sự của mơi trường kinh doanh, thủ tục
cịn rờm rà, dẫn đến chưa thật sự đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền con người
trong lĩnh vực kinh tế. Do vậy thiết nghĩ trong thời gain tới cần có những bước sửa
đổi, bổ sung thông qua công tác nghiên cứu và tổng kết các đánh giá từ thực tiễn
kinh doanh để hai đạo luật này thật sự đáp ứng nhu cầu về một mơi trường kinh
doanh
thơng
thống

minh

bạch./.


20

NGÀNH, NGHỀ ĐẦU TƢ KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ
ĐIỀU KIỆN ĐẦU TƢ KINH DOANH THEO LUẬT ĐẦU TƢ 2014
– NHÌN TỪ GĨC ĐỘ QUYỀN CON NGƢỜI
TS. HÀ THỊ THANH BÌNH
Khoa Luật thương mại, Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

Dẫn nhập
Quyền tự do kinh doanh là một quyền kinh tế thuộc phạm trù của quyền con
người được pháp luật bảo hộ. Về bản chất, quyền tự do nói chung và tự do kinh
doanh nói riêng là một quyền mang tính khách quan, là quyền tự nhiên của con
người.1 Tuy nhiên, con người sống trong môi trường xã hội, ở đó quyền tự do của
mỗi cá thể phải được đặt trong một giới hạn nhất định để đảm bảo không xâm phạm
đến quyền tự do của người khác. Quyền tự do kinh doanh cũng không thể vượt ra
khỏi những ranh giới nhất định. Xác định ranh giới của quyền tự do kinh doanh
thoạt nghe có vẻ như mâu thuẫn với chính cái gọi là ―quyền tự do‖ nhưng thực chất
lại là biện pháp để từng cá thể có thể thực hiện được quyền tự do của mình. Pháp
luật, với bản chất công bằng, là công cụ hữu hiệu nhất để xác định các giới hạn như
vậy. Các quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh
các ngành nghề này là một số trong các quy định về nhằm xác định giới hạn của
quyền tự do kinh doanh. Đồng thời, các quy định này cũng góp phần giúp con người
thực hiện quyền được sống trong một mơi trường an tồn về tính mạng, thân thể,
sức khoẻ và có chuẩn mực về đạo đức. Bài viết này trình bày các nghiên cứu về (i)
Mối quan hệ giữa quyền con người trong lĩnh vực kinh tế và vấn đề kinh doanh có
điều kiện; (ii) Q trình phát triển của các quy định về kinh doanh có điều kiện theo
pháp luật Việt Nam như một tiến trình từng bước hoàn thiện các quy định pháp luật

nhằm bảo đảm quyền con người và (iii) Quy định về ngành, nghề đầu tư, kinh
doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư 20142 như một bước tiến mới trong việc tăng
cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực kinh tế.

2. Mối quan hệ giữa quyền con ngƣời trong lĩnh vực kinh tế và vấn đề
kinh doanh có điều kiện
1

Bùi Xuân Hải (2011), Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 6/2011, tr. 69.
2
Luật số 67/2014/QH13 do Quốc hội khố 13 Kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 26 tháng 11 năm 2014, có hiệu
lực từ 01/07/2015


21

Điều 25 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948 khẳng định:
―Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức
khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình bao gồm thức ăn, quần áo, nhà ở, y
tế và những dịch vụ cần thiết.‖
Khoản 1 Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 3 quy
định:
―Các quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền làm việc, trong đó
bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng cơng việc do
họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành các biện
pháp thích hợp để đảm bảo quyền này.‖
Mặc dù các công ước quốc tế về quyền con người nêu trên không trực tiếp
ghi nhận quyền tự do kinh doanh như là một quyền cơ bản của con người, có thể
thấy rằng các cơng ước này đều thừa nhận quyền của con người được có một ―mức

sống khả quan‖, ―quyền làm việc‖, ―quyền kiếm sống bằng công việc do họ tự do
lựa chọn‖, và các quốc gia thành viên phải ―đảm bảo các quyền tự do cơ bản về
chính trị và kinh tế của từng cá nhân‖. Như vậy, mặc dù pháp luật quốc tế không
trực tiếp quy định quyền tự do kinh doanh như một trong những quyền cơ bản của
con người, các công ước quốc tế có liên quan đến quyền con người đều tuyên bố
con người có quyền làm việc, quyền kiếm sống và như vậy, gián tiếp thừa nhận
quyền được tự do hoạt động kinh doanh thuộc nội hàm quyền tự do về kinh tế của
con người.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại có các quan niệm khác nhau về sự ra đời,
bản chất của quyền con người4. Theo quan điểm của những nhà tư tưởng đưa ra học
thuyết ―pháp luật tự nhiên nhân‖ thì quyền con người là đặc quyền tự nhiên, thuộc
phạm trù ―pháp luật tự nhiên‖ ra đời trước khi Nhà nước và pháp luật ra đời, đứng
trên, cao hơn pháp luật của Nhà nước. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin nhìn
nhận quyền con người trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Quyền tự do của con
người không phải là một khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ là quyền cá nhân
của con người mang tính tự nhiên bẩm sinh mà ln gắn với trình độ phát triển và
tiến bộ xã hội, chịu sự chi phối của chế độ chính trị, chế độ kinh tế…5 Vì vậy, quyền
tự do của con người khơng thể đặt trừu tượng bên ngồi Nhà nước và pháp luật, vì
nếu như vậy, quyền tự do của con người sẽ không thực sự được bảo vệ. Quyền con
3

ViệtNam gia nhập Công ước này năm ngày 24/9/1982
Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 15.
5
Bùi Ngọc Cường (2004), tlđd, tr. 17.
4


22


người phải được Nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện thì mới trở thành hiện
thực. Xuất phát từ lý luận nêu trên và vì quyền tự do kinh doanh là một bộ phận của
quyền con người, quyền tự do kinh doanh phải được hiểu là một quyền tự nhiên/tự
thân của con người được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Quyền này chỉ có thể được
thực hiện hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Ở nước ta, quyền tự do kinh doanh của công dân được thể hiện rất rõ ràng
trong các quan điểm của Đảng.6 Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1986) – Đại
hội vạch ra đường lối đổi mới cơ bản chế độ kinh tế của nước ta, Đảng ta đã khẳng
định chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây là cơ sở quan trọng, có tính ngun tắc cho
việc ban hành các quy định pháp luật để ngày càng đảm bảo quyền tự do kinh doanh
của công dân. Chủ trương này đã được thể hiện trong Hiến pháp 1992, bản Hiến
pháp đầu tiên đưa ra các nguyên tắc hiến định để bảo vệ quyền tự do kinh doanh của
cơng dân. Tiếp sau đó, Bản sửa đổi Hiến pháp năm 2001 cũng đã bổ sung một số
quy định khẳng định vị trí, vai trị của kinh tế phi nhà nước theo hướng khuyến
khích tự do kinh doanh và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi phát triển.
Hiến pháp 2013 tiến thêm một bước trong việc tạo ra tiền đề vững chắc cho
việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân. Điều 14 bản Hiến pháp này
tuyên bố:
― Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người,
quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.‖
Điều 33 bản Hiến pháp này tiếp tục khẳng định rằng ―Mọi người có quyền tự
do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật khơng cấm‖.
Trong q trình chỉ đạo việc thảo luận về dự án Luật Đầu tư 2015 ,Chủ tịch

Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nhiều lần khẳng định ―Quyền dân chủ lớn nhất của
con người là tự do làm ăn‖ và yêu cầu Luật Đầu tư lần này phải đổi mới theo tinh

6

Xem thêm Mai Hồng Quỳ (2012), Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam,
NXB Lao động, từ trang 55-65.


×