Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Bức tượng đài người nông dân qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>VĂN MẪU LỚP 11 </b>



<b>ĐỀ BÀI: BỨC TƯỢNG ĐÀI SỪNG SỮNG VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN QUA VĂN TẾ </b>
<b>NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC </b>


<b>Đề:</b> Bàn về bài <i>“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”</i> sách văn 11 cho rằng:


<i>“Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về </i>
<i>người nơng dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngồi đời của họ”. </i>


Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào và qua bài văn tế hãy làm sáng tỏ.


<b>A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý </b>


<b>B. DÀN BÀI CHI TIẾT </b>
<b>1. </b> <b>Mở bài </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Dẫn dắt vào vấn đề: Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài
nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngồi
đời của họ


<b>2. </b> <b>Thân bài </b>


- Khái quát chung:


 Hoàn cảnh sáng tác: Là bài văn tế được tuần phủ Gia Định nhờ tác giả viết để tỏ
lòng tiếc thương những người đã hi sinh trong trận Cần Giuộc.


 Thể loại, bố cục


 Chủ đề: Với niềm thương tiếc và kính phục sâu sắc, tác giả đã dựng nên một bức


tượng đài nghệ thuật ngang tầm với hiện thực thời đại đầy bi tráng về người
nông dân nghĩa sĩ Nam Bộ trong buổi đầu chống Pháp.


 Nội dung của nhận định đã khẳng định, với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn
Đình Chiểu đã dựng nên một bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông
dân tương xứng với những phẩm chất vốn có ngồi đời của họ ễn Đình
Chiểu đã tạc nên hình ảnh người nghĩa sĩ nơng dân trong trạng thái, tính cách,
hành động theo bản chất của người nông dân. Phải chăng chính vì thế mà bức
tượng đài ấy đã trở nên bất tử trong lòng người đọc, đem đến những cách nhìn
khác, quý mến biết bao về hình tượng người nơng dân, bởi lẽ, trước Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc, chưa từng có hình ảnh người nông dân trong chiến đấu như vậy.
- Nội dung cần làm rõ:


 Hình tượng người nông dân trong bức tranh chân thực về cuộc sống và chiến đấu
o Trong cuộc sống: hiền lành, giản dị, chân chất, bình dị với cuộc sống lao động


thường ngày (vốn quen việc đồng ruộng, lo toan cuộc sống…)


o Thế nhưng, khi giặc đến, người nông dân với cuộc sống hoàn toàn xa lạ với
trận mạc buộc phải cầm vũ khí đứng lên bảo vệ đất nước bằng lòng yêu nước,
căm thù giặc chân chất ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

 Trong chiến đấu: người nông dân hiện lên với một sức sống tiềm tàng,
khỏe khoắn, cương trực - một vẻ đẹp đặc trưng của con người Nam Bộ. Họ
chiến đấu đầy gan dạ, dũng cảm, mạnh mẽ, quyết liệt bằng lòng căm thù
giặc sâu sắc, bằng bất cứ phương tiện nào họ có trong tay hay bằng tư
tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Đình Chiểu đã gởi vào tâm hồn của nông
dân- những con người <i>“cơi cút làm ăn, toan lo nghèo khó</i>” Nguyễn Đình
Chiểu đã xây dựng nên hình ảnh người nông dân trong chiến đấu bằng tất
cả những gì có thể của một người nơng dân, chiến đấu bằng dụng cụ, sức


mạnh và tinh thần của người nông dân, và cả cuộc sống của họ để bảo vệ
đất nước.


o Có thể nói đây là lần đầu bức tượng đài người nông dân trong chiến đấu được
khắc họa sâu sắc đến vậy. Bởi dù rằng, họ là những người anh hùng trong
chiến bại, nhưng cái chết của họ quật khởi biết bao tấm lòng kẻ yêu nước, để
lại biết bao sự thương tiếc trong lòng người đọc.


 Nhận xét


o Quả đúng như bản chất của họ, người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc đã chiến đấu bảo vệ đất nước bằng tất cả những gì mà họ có, chân chất
và giản dị nhưng vơ cùng kiên quyết trước kẻ thù xâm lược. Khi hịa bình, họ
là một người nông dân chất phác, khi giặc đến họ biết <i>“rũ bùn đúng dậy”</i> hiên
ngang trước kẻ thù.


o Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một bức tượng đài bi tráng về người nông
dân trong kháng chiến. Bởi qua bài văn tế, ta thấy cảm phục và thương xót vơ
cùng cho những người nơng dân ấy. Thế nhưng, ở đây ta khơng có cảm giác
nuối tiếc, bi lụy mà ngược lại câu chuyện về người nông dân, những hành
động của họ khơi dậy trong ta lòng căm thù giặc sâu sắc, thêm tin yêu, thêm
phần tự hào và ý chí bảo vệ non sơng đất nước


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>3. </b> <b>Kết bài: </b>


- Nêu nhận xét, khẳng định vấn đề


- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ, cảm nhận và liên tưởng của cá nhân
<b>C. </b> <b>BÀI VĂN MẪU </b>



<i>“Không ai nhớ mặt đặt tên </i>
<i>Nhưng họ đã làm nên đất nước.” </i>


Vâng, có những bông hoa không rực rỡ nhưng ngát hương, có những cuộc đời
thầm lặng nhưng cao cả. Tên tuổi, thể xác và linh hồn của các anh - những người lính,
người nghĩa sĩ đã hóa vào hồn thiêng sông núi <i>“để lại dáng đứng Việt Nam tạc và thế kỉ”, </i>
<i>đã hóa thân vào những trang văn làm nên những bức tượng đài bất tử. Đến với “Văn tế </i>
<i>nghĩa sĩ Cần Giuộc”</i> của Nguyễn Đình Chiểu mỗi người đều xúc động trước hình tượng
người nơng dân nghĩa sĩ được khắc tạc dưới ngòi bút chân thực, sinh động của nhà thơ.
Có lẽ chăng xuất phát từ đó mà bàn về bài văn tế sách văn 11 đã cho rằng:


<i>“Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững </i>
<i>về người nông dân tương xứng với phẩm chất ngồi đời của họ.” </i>


Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng thể văn tế theo đặc điểm của thể loại bốn phần:
phần lung khởi nêu khái quát về cuộc chiến đấu, hi sinh của nghĩa sĩ; phần thích thực
nêu lên những đóng góp, cơng lao của người nghĩa sĩ đối với nhân dân, với đất nước;
phần ai vãn thể hiện nỗi niềm tiếc thương của những người ở lại; phần kết là lời hứa về
những việc làm của người còn sống để đền ơn những người đã khuất. Thế nhưng làm
nên điều khác biệt ở đây là đối tượng trong bài văn tế là những nghĩa sĩ Cần giuộc đã hi
sinh trong trận chiến chống thực dân Pháp, đây là một trong những yếu tố thể hiện
quan điểm tiến bộ của ông để<i> “lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một bức </i>
<i>tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có </i>
<i>ngồi đời của họ.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

xương máu và nước mắt của họ; được viết nên bằng hồn thiêng sông núi; bằng tất cả
niềm cảm phục, biết ơn của nhân dân đối với họ… Xương máu, nỗi lịng kí thác cho đời
của người đã khuất; nước mắt, niềm đau của người ở lại; lòng biết ơn, nỗi quốc hận của
nhân dân.. tất cả…tất cả đã làm nên nghiên mực để Nguyễn Đỉnh Chiểu viết nên bài văn
tế với tất cả tấm lòng, tài năng khắc tạc vào lòng người một bức tượng đài bi tráng về


người nông dân nghĩa sĩ, một niềm xúc động đến nghẹn lòng, dội vào hậu thế một bài
học lịch sử khắc cốt ghi tâm… Sự sáng suốt của Nguyễn Đỉnh Chiểu là đã dồn bút lực, tài
hoa để ca ngợi những người anh hùng thất thế.


Trong tiếng khóc cao cả của nhà thi sĩ, trong những giọt nước mắt thương tiếc của
nhân dân hình ảnh người nơng dân nghĩa sĩ hiện lên rõ ràng:


<i>“Hỡi ơi! </i>


<i>Súng giặc đất rền; lịng dân trời tỏ.” </i>


Hình ảnh đối lập trên đã diẽn tả được mâu thuẫn sâu sắc, quyết liệt của thời đại,
mâu thuẫn xâm lược và chống xâm lược, khẳng định vai trị người nơng dân trong cơng
cuộc bảo vệ đất nước<i>. “Lòng dân” </i>đã sáng rực lên trong lửa đạn, trong âm vang của
chiến tranh. Chỉ có nhà nghệ sĩ của nhân dân mới tạc tượng người nông dân một cách
thiêng liêng giữa trời cao đất rộng, trong thời đại bão táp như vậy.


Bức <i>“tượng đài nghệ thuật” </i>còn được người nghệ sĩ của nhân dân dựng lên chi tiết
hơn với những nét hoành tráng, sống động. Họ vốn là những người nông dân chất phác,
hiền lành chỉ cần mẫn với gió sương:


<i>“Trơng trời, trơng đất, trơng mây </i>


<i>Trơng mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm </i>
<i>Trông cho chân cứng đá mềm </i>


<i>Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>“Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó </i>



<i>Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ. </i>
<i>Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, </i>
<i>tập cờ, mắt chưa từng ngó.” </i>


Chân thực và giản dị người nơng dân Nam Bộ đã hiện ra với những vè đẹp vốn có
của họ. Hình ảnh họ hiện lên- hình ảnh những người nông dân chất phác với làn da
ngăm sạm vì dạn dày sương gió của đồng áng chứ không phải là nắng mưa của thao
trường; bàn tay họ chai sạn nhưng là do cầm cuốc, cầm cày chứ không phải cầm khiên,
cầm mác chiến đấu… Tất cả đã khẳng định một vẻ đẹp của họ, tiêu biểu cho vẻ đẹp của
người nông dân Việt Nam đó là: u lao động, u hịa bình.


Khi thực dân Pháp kéo quân vào giày xéo đất nước ta, giết hại nhân dân ta tới mức:
<i>“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy </i>


<i>Mất ổ đàn chim dáo dác bay.” </i>


Thì thử hỏi lịng dân ai khơng ốn giận? Nhưng trong hồn cảnh ấy khơng phải ai
cũng có sức mạnh để đứng lên, ai cũng đủ dũng cảm để chiến đấu và hi sinh để bảo vệ
từng tấc đất của quê hương. Chỉ có những người nơng dâ n vốn u chuộng hịa bình họ
bỗng <i>“rũ bùn đứng dậy sáng lòa”</i>, trở thành những nghĩa sĩ kiên cường mang trên đơi
vai sức vóc của cả dân tộc. Vẫn là người nông dân ấy nhưng trước họa xâm lăng Nguyễn
Đình Chiểu đã nhận thấy ở họ một sức mạnh chiến đấu, một sức sống tiềm tàng, khỏe
khoắn, cương trực- một vẻ đẹp đặc trưng của con người Nam Bộ: <i>“Làm ơn há dễ trơng </i>
<i>người trả ơn”</i>. Với lịng u q hương sâu sắc, với lòng căm thù giặc cao độ, những
người nông dân lương thiện đã trở thành những nghĩa sĩ kiên cường, bất khuất, tuyệt
vời:


<i>“Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì </i>
<i>muốn ra cắn cổ. </i>



<i> Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói </i>
<i>lịa, đâu dung lũ treo dê bán chó.” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mạc, chấn chất, hoàn toàn xa lạ với việc quân <i>“ chưa quen cung ngựa, đâu tới trường </i>
<i>nhung”</i>, cịn nói gì đến việc <i>“ tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ”</i>, cịn nói gì đến <i>“ mười </i>
<i>tám ban võ nghệ”</i>. Nhìn thấy những chiếc tàu Pháp ngày càng nghênh ngang đi lại trên
sơng ngịi q hương, chứng kiến cảnh nhân dân lầm than, khốn khố dưới chế độ phong
kiến thối nát, vua quan nhà Nguyễn chỉ là một lũ bù nhìn, phát xít thực dân thì ra sức vơ
vét, bóc lột, <i>“quần ngư tranh thực”… </i>những người nông dân yêu chuộng hịa bình ấy
khơng khỏi căm phẫn. Họ <i>chỉ “muốn tới ăn gan”</i>, <i>“muốn ra cắn cổ”- </i>một lòng căm thù
giặc sục sơi nhưng vẫn cịn mạng đậm chất nơng dân thật thà, chân chất, rất đời thường.
Họ vẫn ngày đêm trơng ngóng, hi vọng, hướng mắt về phương Bắc- nơi vẫn còn giữu
chủ quyền, nhưng càng hi vọng lại càng thất vọng:


<i> “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông </i>
<i>mưa.” </i>


Biết tới khi nào <i>“thánh đế soi ân thấu”</i> để họ có thể đón lấy <i> “một trận mưa nhuần </i>
<i>rửa núi sông”</i>. Bản chất hiền lành, mộc mạc, cần lao của những người nông dân càng
hiệnlên rõ nét qua những phép so sánh: <i>“trông tin quan như trời hạn trông mưa”</i>, <i>“ghét </i>
<i>thói mọi như nhà nơng ghét cỏ”</i>… rất thực, rất <i>“nông dân’</i> nhưng cũng rất dầy đủ, rất sâu
sắc khi lột tả niềm căm hận, phẫn uất của họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

lòng căm thù giặc tột cùng để làm động lực đem ra chiến trường:


<i>“Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngịi; trong tay cầm một </i>
<i>ngọn tầm vơng, chi nài sắm dao tu, nón gõ. </i>


<i>Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng </i>
<i>bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai họ. </i>



<i>Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như </i>
<i>không; nào sợ thằng Tây bắn đạn to đạn nhỏ, xô cửa xơng vào liều mình như chẳng có.”</i>


Một khí thế ào ào như thác đổ, mạnh mẽ như vũ bão khiến cho quân giặc kinh
hồng. Cịn thấy đâu hình ảnh một người nông dân chỉ biết <i>“cui cút làm ăn, toan lo </i>
<i>nghèo khó”</i> mà giờ họ là những người lính khốc áo vải. Chỉ bằng những vật dụng thô sơ
thường ngày: <i>“ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”… </i>họ đã xông lên đánh bại
kẻ thù với những vũ khí tân trang, chẳng sợ <i>“đạn to đạn nhỏ”</i> mà <i>“liều mình như chẳng </i>
<i>có”</i>. Hàng loạt động từ mạnh đã bắt nhịp cho dịng máu nóng đang sục sơi trong huyết
quản của những người nơng dân khốc áo nghĩa binh: <i>“đốt”, “chém”, “đạp rào lướt tới”, </i>
<i>“xô cửa xông vào”</i>… Những màu sắc, đường nét sắc sảo và hình khối gồ ghề khiến người
đọc có thể hình dung được những hành động quyết liệt, những âm thanh cuồng nộ của
những người nông dân vùng lên đánh giặc;


<i>“Sống làm chi, theo quân tả đạo quăng vùa gươm, xô bàn độ, thấy lại thêm buồn </i>
<i>Sống làm chi ở lính Mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.” </i>


Với những đường nét hoành tráng, nhà nghệ sĩ nhân dân đã tạc nên “<i>tượng đài </i>
<i>nghệ thuật”</i> một cách hùng tráng. Hùng tráng vì đây là hànhđộng của những anh hùng
có nghĩa lớn. Hùng tráng vì ở lí tưởng tốt đẹp, phẩm chất cao cả của những người nghĩa
sĩ nơng dân. Hùng tráng vì nó được dựng lên trong một thời đại sóng gió, bão táp, trong
những giờ phút nghiêm trọng của đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tiếng khóc cho một thời đại của tác giả, gia đình, thăm quyến, dân tộc. Tiếng khóc mang
tầm sử thi, tiếng khóc mang trọn niềm kiêu hãnh, tự hào không phải của một người
khóc cho một người mà của sơng núi, cỏ cây, đất nước… đang ngưỡng vọng đối với linh
hồn họ. Những người con “<i>ưu tú” </i>của dân tộc ấy đã ra đi, đã chiến đấu để lại mẹ già, con
thơ; để lại gốc đa, sân đình và xả thân vì nghĩa lớn, thanh thản như cày xong một thửa
ruộng. Để rồi đằng sau sự ra đi ấy là niềm thương tiếc, đau buồn; nỗi mất mát lớn lao


khi con mất cha, vợ mất chồng, mẹ mất con, gia đình mất đi trụ cột:


<i>“Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy </i>
<i>chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ. </i>


<i>Đối sơng Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai </i>
<i>hàng lụy nhỏ.” </i>


Họ sống mãi trong tình thương, trong trái tim của những người thân yêu, trong
lòng nhân dân:


<i>“Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lịng son gửi lại bóng trăng rằm </i>
<i>Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trơi theo dịng nước đỏ.” </i>


Họ đã trở thành người bất tử. tưởng chừng cuộc chiến đáu anh dũng của họ vẫn
tiếp diễn cùng với sự nghiệp giữ nước vĩ đại của dân tộc:


<i>“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện </i>
<i>được trả thù kia.” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

sức mạnh của người nơng dân ít được khắc họa trong văn học cổ. Nếu như Nguyễn Trãi
đã bộc lộc sự tiến bộ trong tư tưởng của mình qua việc <i>“lấy dân làm gốc”</i> thì có lẽ
Nguyễn Đình Chiểu là người thứ hai sau Nguyễn Trãi đã phát hiện, trân trọng và ngợi ca
vẻ đẹp tiềm ẩn của người nông dân. Phạm Văn Đồng đã từng cho rằng: <i>“Ngòi bút, nghĩa </i>
<i>là tâm hồn của Nguyễn Đỉnh chiểu đã diễn tả thật là sinh động và não nùng, cảm tình của </i>
<i>dân tộc đối với người nghĩa sĩ của nghĩa quân, vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen </i>
<i>cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước.” </i>


Và rồi, chúng ta- mỗi người con Lạc cháu Hồng, mỗi người dân Việt Nam hôm nay
lại không khỏi xúc động, tự hào, biết ơn trước sự hi sinh qn mình của nững người


nơng dân nghĩa sĩ ấy. Chính họ đã góp phần làm ngời sáng thêm trang sử vẻ vang của
cách mạng dân tộc sau này. Hình tượng người nơng dân nghĩa sĩ trong tác phẩm còn gợi
chúng ta nhớ về quá khứ với dáng vóc của vị vua áo vải Quang Trung- Nguyễn Huệ; gợi
mở trong lịng chúng ta về hình ảnh của người nơng dân khốc màu áo lính trong thời
hiện đại:


<i>“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày </i>
<i>Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay </i>
<i>Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính </i>
<i>Áo anh rách vai </i>


<i>Quần tơi có vài mảnh vá </i>
<i>Miệng cười buốt giá </i>
<i>Chân không giày </i>


<i>Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.” </i>


(Đồng chí - Chính Hữu)
Hay


<i>“Lũ chúng tơi </i>
<i>Bọn người tứ xứ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Quen nhau từ buổi một mai </i>
<i>Súng bắn chưa quen </i>


<i>Quân sự mươi bài </i>


<i>Lòng vẫn cười vui kháng chiến.” </i>



(Nhớ - Hồng Nguyên)
Đó đều là hình tượng người nơng dân trong chiến đấu được khắc họa thành công
và trở thành một đề tài trong văn học Việt nam thời kì kháng chiến cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Website <b>HOC247</b> cung cấp một mơi trường <b>học trực tuyến</b>sinh động, nhiều <b>tiện ích thông minh</b>,
nội dung bài giảng được biên soạn công phu và giảng dạy bởi những <b>giáo viên nhiều năm kinh </b>


<b>nghiệm, giỏi về kiến thức chuyên môn lẫn kỹnăng sư phạm</b>đến từcác trường Đại học và các


trường chuyên danh tiếng.


<b>I.</b>

<b>Luy</b>

<b>ệ</b>

<b>n Thi Online</b>



- <b>Luyên thi ĐH, THPT QG: </b>Đội ngũ <b>GV Giỏi, Kinh nghiệm</b> từ các Trường ĐH và THPT danh tiếng xây
dựng các khóa <b>luyện thi THPTQG </b>các mơn: Tốn, NgữVăn, Tiếng Anh, Vật Lý, Hóa Học và Sinh Học.
- <b>Luyện thi vào lớp 10 chun Tốn: </b>Ơn thi <b>HSG lớp 9</b> và <b>luyện thi vào lớp 10 chuyên Toán</b> các


trường <i>PTNK, Chuyên HCM (LHP-TĐN-NTH-GĐ), Chuyên Phan Bội Châu Nghệ An</i> và các trường Chuyên
khác cùng <i>TS.Trần Nam Dũng, TS. Pham Sỹ Nam, TS. Trịnh Thanh Đèo và Thầy Nguyễn Đức Tấn.</i>


<b>II.</b>

<b>Khoá H</b>

<b>ọ</b>

<b>c Nâng Cao và HSG </b>



- <b>Toán Nâng Cao THCS: Cung c</b>ấp chương trình Tốn Nâng Cao, Tốn Chun dành cho các em HS THCS


lớp 6, 7, 8, 9 u thích mơn Tốn phát triển tư duy, nâng cao thành tích học tập ởtrường và đạt điểm tốt
ở các kỳ thi HSG.


- <b>Bồi dưỡng HSG Toán: B</b>ồi dưỡng 5 phân mơn <b>Đại Số, Số Học, Giải Tích, Hình Học </b>và <b>Tổ Hợp</b> dành cho
học sinh các khối lớp 10, 11, 12. Đội ngũ Giảng Viên giàu kinh nghiệm: <i>TS. Lê Bá Khánh Trình, TS. Trần </i>



<i>Nam Dũng, TS. Pham Sỹ Nam, TS. Lưu Bá Thắng, Thầy Lê Phúc Lữ, Thầy Võ Quốc Bá Cẩn</i>cùng đôi HLV đạt
thành tích cao HSG Quốc Gia.


<b>III.</b>

<b>Kênh h</b>

<b>ọ</b>

<b>c t</b>

<b>ậ</b>

<b>p mi</b>

<b>ễ</b>

<b>n phí</b>



- <b>HOC247 NET: Website hoc mi</b>ễn phí các bài học theo <b>chương trình SGK</b> từ lớp 1 đến lớp 12 tất cả các
môn học với nội dung bài giảng chi tiết, sửa bài tập SGK, luyện tập trắc nghiệm mễn phí, kho tư liệu tham
khảo phong phú và cộng đồng hỏi đáp sôi động nhất.


- <b>HOC247 TV: Kênh Youtube</b> cung cấp các Video bài giảng, chuyên đề, ôn tập, sửa bài tập, sửa đề thi miễn
phí từ lớp 1 đến lớp 12 tất cả các mơn Tốn- Lý - Hố, Sinh- Sử - Địa, NgữVăn, Tin Học và Tiếng Anh.


<i><b>V</b></i>

<i><b>ữ</b></i>

<i><b>ng vàng n</b></i>

<i><b>ề</b></i>

<i><b>n t</b></i>

<i><b>ảng, Khai sáng tương lai</b></i>



<i><b> Học mọi lúc, mọi nơi, mọi thiết bi – Tiết kiệm 90% </b></i>


<i><b>Học Toán Online cùng Chuyên Gia </b></i>


</div>

<!--links-->

×