Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Người anh hùng nông dân yêu nước qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>VĂN MẪU LỚP 11 </b>



<b>ĐỀ BÀI: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NGƯỜI ANH HÙNG NÔNG DÂN YÊU NƯỚC </b>
<b>CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM QUA VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC </b>


<b>Đề:</b> Phân tích tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu để thấy được
tác giả đã xây dựng rất thành cơng hình tượng nhân vật người anh hùng nông dân yêu
nước chống ngoại xâm


<b>A.</b> <b>SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý </b>


<b>B.</b> <b>DÀN BÀI CHI TIẾT </b>
<b>1.</b> <b>Mở bài </b>


- Giới thiệu được tác giả Nguyễn Đình Chiểu và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc


- Dẫn dắt vào vấn đề: Hình tượng nhân vật người anh hùng nông dân yêu nước chống
ngoại xâm qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Khái quát chung


 Hoàn cảnh sáng tác:


o Viết trong buổi nhân dân tổ chức truy điệu các nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh
trong trận tấn công đồn Cần Giuộc ngày 16 - 12 - 1861.


o Tác phẩm ra đời vào cuối 1861, đầu 1862. Đây là thời điểm cả nước, đặc biệt
là nhân dân miền Nam đang sôi sục đứng lên chống lại thực dân Pháp. Trong
trận đánh đồn Cần Giuộc, nhiều nghĩa sĩ nông dân đã tập kích, phá đồn, tiêu
diệt được nhiều giặc Pháp và tay sai. Để cảm kích trước lịng dũng cảm của
nghĩa sĩ, tuần phủ Gia Định giao cho cụ Đồ Chiểu viết bài văn tế đọc tại buổi lễ


truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh.


 Thể loại: bài văn tế được viết theo thể phú đường luật
 Bố cục gồm 4 phần: lung khởi, thích thực, ai vãn, kết
- Nội dung cần làm rõ


 Giá trị tác phẩm :


o Đây là lần đầu tiên người anh hùng nông dân yêu nước chống ngoại xâm đã
bước vào tác phẩm văn học với vẻ đẹp lộng lẫy nhất.


o “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tiếng khóc của dân tộc cho những con người vì
nước qn thân ấy . Đó là tiếng khóc của cả thời đại đau thương nhưng anh
hùng .


o “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao tư tưởng yêu nước chống ngoại xâm
của cụ Đồ Chiểu .


 Hình tượng người anh hùng nông dân yêu nước chống ngoại xâm trong “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”:


o Đó là những con người chân chất, hiền lành, cần cù, chịu thương chịu khó, u
hịa bình, gắn bó với con trâu, thửa ruộng, chẳng hề biết đến việc quan binh,
chiến trận .


o Khi đất nước bị xâm lược:


 Họ lo sợ trơng chờ tin quan nhưng chẳng có tin tức gì nơi phía triều đình,
họ như bị bỏ rơi trước thời thế đảo điên còn giặc thù giày xéo quê hương
mảnh đất cha ông



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nguyện đánh giặc cứu nước .


 Trong hoàn cảnh chiến đấu ấy, người nghĩa sĩ nông dân chiến đấu với
những trang bị sơ sài nhưng hơn hết, họ chiến đấu bằng tinh thần quật
khởi, oanh liệt, mạnh mẽ và quyết liệt để bảo vệ tổ quốc.


 Đằng sau manh áo vải, sau cuộc sống lam lũ, hình ảnh người nơng dân hiện
lên với lịng u q hương đất nước thiết tha, rạo rực. Và bằng tình yêu
ấy, người anh hùng nông dân đã chống giặc ngoại xâm với quyết tâm, lịng
gan dạ vơ cùng, họ hi sinh đầy quả cảm để gìn giữ từng tấc đất, cành cây
ngọn cỏ quê hương


- Nhận xét


 Lòng mến nghĩa, tinh thần yêu nước chất phát của người nông dân đã mang đến
những chiến công trong trận đánh giặc ngoại xâm. Đồng thời, tác giả đã bất tử
hóa sự hi sinh của họ bằng lòng quả cảm trong chiến đấu


 <i>“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn là khúc ai ca bi tráng trước sự hi sinh cao cả của </i>
những người anh hùng nông dân yêu nước chống ngoại xâm. Sự hi sinh cao cả
của những người nông dân yêu nước này đã khắc thêm nét son trong trang sử
vàng của dân tộc về truyền thống anh hùng đánh giặc giữ nước .


 Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng người anh hùng nơng dân yêu nước
chống ngoại xâm trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thành một hình tượng bất tử
trong văn học .


<b>3.</b> <b>Kết bài: </b>



- Đánh giá, nhận xét về thành cơng của Nguyễn Đình Chiểu qua giá trị nội dung cũng
như nghệ thuật khi xây dựng hình tượng nhân vật người anh hùng nghĩa sĩ .
- Mở rộng vấn đề bằng liên tưởng và cảm nhận của cá nhân


<b>C.</b> <b>BÀI VĂN MẪU </b>
<b>Bài văn mẫu 1: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Qua đây, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc,
vẻ đẹp người nông dân mới hiện lên trọn vẹn và sâu sắc.


Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc được tác giả viết sau đêm ngày 14 tháng 12 năm 1861,
đêm những người nghĩa sĩ cần Giuộc tấn công vào đồn giặc: cuộc khởi nghĩa thất bại, 21
nghĩa sĩ đã hi sinh. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, văn
chương có cái nhìn tiến bộ, mới mẻ về hình ảnh người nghĩa sĩ nơng dân. Nguyền Đình
Chiếu đã khắc hoạ được một tượng đài nghệ thuật bất hủ <i>“Vơ tiền khống hậu” sừng </i>
sững trang trọng về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có của họ ở ngồi
đời – những người nơng dân xây dựng và bảo vệ, đánh giặc cứu nước. Hình ảnh của
những người nơng dân là vấn đề trung tâm của bài văn tế, là đối tượng ngưỡng mộ, yêu
mến, tiếc thương đồng thời cũng là linh hồn của tác phẩm. Có thể nói toàn bộ bài văn tế
là ca khúc bi tráng về những người nghĩa sĩ nơng dân xả thân vì đất nước tuy “thất thế”
nhưng vẫn “hiên ngang”.


Người nông dân được tác già giới thiệu trong tác phẩm là nhừng người nông dân
hết sức bình thường vơ danh. Tnrớc khi thực dân Pháp sang xâm lược, họ là nhừng
người nông dân thuần tuý, chắt phác, cần cù, giản dị, cuộc đời nđièo khơ, hiên lành, chịu
thương chịu khó: “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Gánh nặng cuộc đời đè lên đôi vai
nhỏ bé, gầy yếu của họ. Cả đời của họ đâu có ra khỏi lũy tre làng, chỉ quanh quẩn với
những con trâu, với cánh đồng quê. Họ sống trong nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn
giữa thế kỷ XIX: “chỉ biết mộng trâu”. Đặc biệt, ngay từ những dòng đầu tiên của bài văn
tế, Nguyền Đình Chiểu đã khẳng định, ghi cơng những người nơng dân ở khía cạnh mà


bây lâu nay lịch sử chưa bao giờ thừa nhận: <i>“Mười năm cơng vỡ lượng chưa chắc cịn </i>
<i>danh nỗi tợ phao”. Đó là cơng lao lao động và sản xuất của cải vật chất để duy trì và phát </i>
triển đời sống dân tộc. Một đất nước sống dựa vào nơng nghiệp như Việt Nam thì lực
lượng sản xuất chủ yếu là ai nếu không phải là nhừng người nông dân lam lũ, chịu
thương chịu khó? Nhưng chưa khi nào lịch sử thừa nhận điều ấy. Ngợi ca sự phát triển
của đất nước người ta chỉ hô tụng những bậc minh quân, thiên tử:


<i>Đời vua Thái tô, Thái tông </i>


<i>Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn, </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>dân lao động. </i>


Những người nông dân, vẻ đẹp đầu tiên hiện lên từ họ là vẻ đẹp của những con
người lao động âm thầm cống hiến, mang lại sự sống, sự phát triển cho hàng ngàn năm
đất nước.


Cũng chính bởi sự chất phác, quanh năm “chỉ biết ruộng trâu” nên họ đâu biết gì về
quân sự, về chiến đấu <i>“Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, “mắt chưa từng </i>
<i>ngó” những cung kiếm, đao gươm chiến đấu. Thế mà những con người như vậy khi thực </i>
dân Pháp xâm lược, họ phấp phổng lo âu trông mong vào triều đình đợi chờ lệnh chiến
đấu. Bị vua quan bỏ rơi, họ đã dám một mình đứng lên chống lại kẻ thù, nhận lấy trách
nhiệm cứu nước thiêng liêng một cách tự nguyện để bảo vệ độc lập: “Nào đợi ai đòi, ai
<i>bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xi, chuyến này dốc ra </i>
<i>tay bộ hổ”. </i>


Do đâu mà họ có sức mạnh, tinh thần tự nguyện ấy? Đó chỉ có thể là lịng u nước
thiết tha máu thịt, lịng căm thù giặc khơn ngi quyết khơng đội trời chung với chúng.
Đã ba năm giặc tới xâm lược, mười tháng giặc đóng đồn “bịng bong che trắng lốp”, “ống
<i>khói chạy đen xì” người nơng dân lịng đầy căm thù, “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. </i>


Chẳng thấy vua quan đâu, họ đã tự ý thức được sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc mình, họ tự
đứng lên đánh giặc chỉ với những trang bị vũ khí vơ cùng thơ sơ và thiếu thốn. Họ khơng
phải là lính chính qui của triều đình, chưa từng được tập luyện, chưa được võ trang. Họ
chiến đấu bằng những gì vẫn dùng trong sinh hoạt hàng ngày, trong sản xuất:


<i>Ngồi cật có một manh ảo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một </i>
<i>ngọn tâm vơng, chỉ nài săm dao tu nón gõ. </i>


<i>Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi (...) gươm đeo dung bằng lưỡi dao phay. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

vũ khí thơ sơ nhưng những người nghĩa sĩ vẫn sẵn sàng ra trận, địch lại với những súng
ống, tàu xe:


<i>"Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trong giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như </i>
<i>không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xơng vào liều mình như chẳng có. </i>


<i>Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ở </i>
<i>sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.” </i>


Những nghĩa sĩ đã dũng cảm xông vào trận mạc, xả thân không chút mưu lợi đắn
đo, tất cả họ đều tự nguyện: “nào đợi ai đòi, ai bắt”, <i>“chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi”, </i>
<i>“chuyến này dốc ra tay bộ hổ” dù với trang bị thô sơ. Nhưng hãy xem họ vào trận, bao </i>
nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca, hừng hực khí phách, rực lửa chiến đấu của một
trận chiến quyết liệt, hào hùng. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân ở đây đã hiện lên
thành một anh hùng lồng lộng giữa đất trời, giữa chiến trường. Hình ảnh ấy đã làm chủ
trận chiến lớn lao mãnh liệt, nó áp đảo tất cả. Với những vũ khí thơ sơ của mình, họ đã
làm nên sức mạnh như vũ bão, hiếm có: <i>“đạp rào lướt tới”, “xơ cửa xông vào”, “đâm </i>
<i>ngang”, “chém ngược”. Họ đã ghi được những chiến công oanh liệt như đốt nhà dạy đạo, </i>
chém đầu quan hai, làm giặc kinh hãi vơ cùng <i>“mã tà ma ní hồn kinh”. Cà đồn văn là </i>
một bức tranh công đồn hào hùng tuyệt đẹp, gợi lên cảnh chiến đấu hào hùng mạnh mẽ,


quyết chiến quên mình vì nước. Họ hi sinh với một quan niệm sống vô cùng cao đẹp
<i>‘Thà chết vinh còn hơn sống nhục”, “thà chết đứng còn hơn sống quỳ”. Họ thà hi sinh còn </i>
hơn là phải sống với giặc, quyết không đội trời chung với giặc. Đó cũng chính là truyền
thơng tốt đẹp của dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục. Mặc dù họ đã mất đi nhưng
nỗi lo <i>“binh tướng nó hãy đóng sơng Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ơng cha ta </i>
<i>cịn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đò”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

lãng quên đối với người nông dân nghĩa sĩ.


Sau trận đánh, một kết cục bi thảm đã diễn ra - kết cục đã được biết trước: Họ -
những con người yêu nước - đã anh dũng hi sinh: “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”.
Cái chết nhẹ tựa lông hồng mà hiên ngang, lẫm liệt.


Ra đi, họ vẫn còn lo cho nước, cho dân, họ vẫn còn tiếp tục chiến đấu. Tình cảm
thiêng liêng cảm động ấy còn theo họ đến tận chốn thiên đường đầy ánh sáng. Đọc
những dòng văn như thế không ai nén nỗi rưng rưng, ngậm ngùi: “Sống đánh giặc thác
<i>cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia”. </i>


Họ không cịn nữa nhưng ý chí của họ, tấm gương về họ vẫn còn mãi để nêu gương
cho người sống, động viên cổ vũ mọi người tiếp tục chiến đấu để trả thù quân xâm lược.
Những người nghĩa sĩ cần Giuộc, ta đã bắt gặp lại hình ảnh họ đâu đó nơi những chiến sĩ
<i>“năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt. Gan khơng núng chí </i>
<i>khơng sờn” làm nên trận Điện Biên Phủ lẫy lừng; hay những con người chống Mĩ quả </i>
cảm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai”,...


Người nghĩa sĩ nông dân cấp Giuộc đã mất đi song hình ảnh văn cịn mãi mãi. Họ đà
trở thành bất hủ, danh tiết của họ rạng rỡ muôn đời, tên tuổi họ trở thành bất tử. Họ là
biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa yêu nước. Viết về những người nghĩa sĩ
nông dân bỏ mình vì quê hương, đất nước, tác phẩm chứa đựng bao nỗi xót xa, thương
cảm của tác giả. Lịng tiếc thương của tác giả thật vơ hạn. Từ việc thương cho số phận


của người nông dân “cui cút làm ăn” trong đời thường đến thương cho họ phải chết một
cách oan uổng trong cuộc chiến đấu không cân sức. <i>“Đối sơng cần Giuộc, cỏ cây mấy </i>
<i>dặm sâu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ”. Nhà thơ và tất cả mọi </i>
người đều khóc vì thương xót cho số phận người nghĩa sĩ. Khơng những thế nhà thơ cịn
xót thương cho những người còn sống: <i>“Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn </i>
<i>khuya leo lét trong lều, não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xé dật dờ trước </i>
<i>ngõ”, đã thể hiện lịng thương tiếc của tác giả thật chân tình, tha thiết và cảm động. Ơng </i>
cịn chia sẻ nỗi đau với họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

mình. Bài văn tế như một cái mốc, một minh chứng về tấm lòng yêu nước, về phẩm chất
của người nông dân lao động. Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu
xứng đáng là một <i>“khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Nó xứng </i>
đáng là một khúc ca hùng tráng của nền văn học Việt Nam.


<b>Bài văn mẫu 2: </b>


Dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch
sử. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, người nông dân cũng đứng lên chống giặc. Trong văn
học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu - một nhà nho yêu nước dùng con mắng
yêu thương và kính phục để viết nên <i>“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người </i>
nơng dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi
tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của
đấtnước.


Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê
Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khốc trên mình màu áo nâu
của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:


<i>Hỡi ôi! </i>



<i>Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ </i>


Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của
họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống
chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui
cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn khơng lối thốt
của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn
để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được
những <i>“cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ </i>
<i>nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập </i>
súng.. thật lạ lẫm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” khơng chỉ có đói nghèo mà còn là những
thấp thỏm, lo âu:


<i>“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông </i>
<i>mưa…” </i>


Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” khơng thể chống mắt đứng nhìn, khơng thể ngồi yên
mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn
ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu
nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những
con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc
lầm than, họ khơng ngần ngại chung vai góp sức. Lịng u nước đã biến thành lịng căm
thù giặc đến sơi sục:


<i>“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan. </i>
<i>Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ </i>


<i>Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu </i>



<i>Hai vầng nhật nguyệt chói lồ, đâu dung lũ treo dê bán chó” </i>


Lịng u Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiên họ trở nên đẹp đẽ, lấp
lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước
mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát
vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”,
<i>“bày bố binh thư”, khơng màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng </i>
của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.


Hỡi ôi, <i>“một manh áo vải”, “một ngọn tầm vơng”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con </i>
<i>cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của </i>
nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nơng dân
nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất
lên trong tiếng nấc lịng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng
tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù


<i>“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ” </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

những âm thanh vang động (hè trước, ó sau&hellip những động tác quyết liệt (đốt,
chém&hellip. Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì
đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy , lấp lánh chân dung của những con người gánh
trên vai vận mệnh của non sơng. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh
hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:


<i>“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà c chịu chữ </i>
<i>đầu Tây ở với man di rất khổ” </i>


Tinh thần ấy, ý đồng chívẫn chói lịa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu
nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân


tộc.


<i>“Ơi thơi thơi!” </i>


Một tiếng khóc đầy ai ốn, tiếng khóc đến quặn lịng, tiếng khóc để tiễn biệt những
người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nới chiến
trường khói lửa. Vẫn cịn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thống nơi đây bóng mẹ già
với ngọn đèn le lói trong đêm


<i>“Đau đơn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy </i>
<i>tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ” </i>


Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai
đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..


<i>“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ </i>
<i>thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” </i>


Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lịng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng
nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học
nước nhà hình ảnh người nơng dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ
Chiều thì chưa một ai cơng khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua
là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương
chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào
hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11></div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Website <b>HOC247</b> cung cấp một môi trường <b>học trực tuyến</b>sinh động, nhiều <b>tiện ích thơng minh</b>,
nội dung bài giảng được biên soạn công phu và giảng dạy bởi những <b>giáo viên nhiều năm kinh </b>
<b>nghiệm, giỏi về kiến thức chuyên môn lẫn kỹnăng sư phạm</b>đến từcác trường Đại học và các



trường chuyên danh tiếng.


<b>I. </b>

<b>Luy</b>

<b>ệ</b>

<b>n Thi Online</b>



- <b>Luyên thi ĐH, THPT QG:</b>Đội ngũ <b>GV Giỏi, Kinh nghiệm</b> từ các Trường ĐH và THPT danh tiếng xây
dựng các khóa <b>luyện thi THPTQG </b>các mơn: Tốn, Ngữ Văn, Tiếng Anh, Vật Lý, Hóa Học và Sinh Học.
- <b>Luyện thi vào lớp 10 chun Tốn: </b>Ơn thi <b>HSG lớp 9</b> và <b>luyện thi vào lớp 10 chuyên Toán</b> các


trường <i>PTNK, Chuyên HCM (LHP-TĐN-NTH-GĐ), Chuyên Phan Bội Châu Nghệ An </i>và các trường Chuyên
khác cùng TS.Tr<i>ần Nam Dũng, TS. Pham Sỹ Nam, TS. Trịnh Thanh Đèo và Thầy Nguyễn Đức Tấn. </i>


<b>II.</b>

<b>Khoá H</b>

<b>ọ</b>

<b>c Nâng Cao và HSG </b>



- <b>Toán Nâng Cao THCS:</b> Cung cấp chương trình Tốn Nâng Cao, Tốn Chun dành cho các em HS THCS


lớp 6, 7, 8, 9 u thích mơn Tốn phát triển tư duy, nâng cao thành tích học tập ở trường và đạt điểm tốt
ở các kỳ thi HSG.


- <b>Bồi dưỡng HSG Toán:</b> Bồi dưỡng 5 phân mơn <b>Đại Số, Số Học, Giải Tích, Hình Học </b>và <b>Tổ Hợp</b> dành cho
học sinh các khối lớp 10, 11, 12. Đội ngũ Giảng Viên giàu kinh nghiệm: <i>TS. Lê Bá Khánh Trình, TS. Trần </i>


<i>Nam Dũng, TS. Pham Sỹ Nam, TS. Lưu Bá Thắng, Thầy Lê Phúc Lữ, Thầy Võ Quốc Bá Cẩn cùng đôi HLV đạt </i>


thành tích cao HSG Quốc Gia.


<b>III. </b>

<b>Kênh h</b>

<b>ọ</b>

<b>c t</b>

<b>ậ</b>

<b>p mi</b>

<b>ễ</b>

<b>n phí</b>



- <b>HOC247 NET:</b> Website hoc miễn phí các bài học theo <b>chương trình SGK</b> từ lớp 1 đến lớp 12 tất cả các
môn học với nội dung bài giảng chi tiết, sửa bài tập SGK, luyện tập trắc nghiệm mễn phí, kho tư liệu tham
khảo phong phú và cộng đồng hỏi đáp sôi động nhất.



- <b>HOC247 TV:</b> Kênh <b>Youtube</b> cung cấp các Video bài giảng, chuyên đề, ôn tập, sửa bài tập, sửa đề thi miễn
phí từ lớp 1 đến lớp 12 tất cả các mơn Tốn- Lý - Hoá, Sinh- Sử - Địa, Ngữ Văn, Tin Học và Tiếng Anh.


<i><b>V</b></i>

<i><b>ữ</b></i>

<i><b>ng vàng n</b></i>

<i><b>ề</b></i>

<i><b>n t</b></i>

<i><b>ảng, Khai sáng tương lai</b></i>



<i><b> Học mọi lúc, mọi nơi, mọi thiết bi – Tiết kiệm 90% </b></i>


<i><b>Học Toán Online cùng Chuyên Gia </b></i>


</div>

<!--links-->

×