Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.35 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TIỀN TỆ QUỐC TẾ</b>
<i><b>1. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)</b></i>
<i>a. Sự ra đời của IMF</i>
Quỹ tiền tệ Quốc tế được hình thành sau chiến tranh thế giới thứ II trong Hội nghị Breton wood (bang
New Hamsphire) với 44 quốc gia sáng lập dựa theo ý tưởng của Maynard Keynes (Anh) và Harry Dexter
White (Mĩ). Ngày nay tổ chức này đã có khoảng 185 nước thành viên.
Với tên gọi Quỹ tiền tệ quốc tế, IMF tồn tại và hoạt động dựa vào nguồn vốn đóng góp của các thành
viên. Phần đóng góp này xác định quyền bỏ phiếu của các quốc gia cũng như giới hạn quyền rút vốn của họ.
Hạn ngạch đóng góp của các nước dựa vào khả năng của nền kinh tế và phải được Hội đồng giám đốc và
Hội đồng quản trị đồng ý. Hạn ngạch được điều chỉnh 5 năm 1 lần. Mỗi nước có thể đóng góp 70% hạn
ngạch bằng tiền nước mình, 25% bằng các đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
Hạn ngạch đóng góp của các nước sẽ được quy đổi thành một đơn vị tiền tệ đặc biệt, gọi là SDR (quyền
rút vốn đặc biệt). Giá trị của SDR được dựa trên tập hợp có trong số của một số đồng tiền của các quốc gia
thương mại chủ chốt, mà chủ yếu là Đô la Mĩ, Bảng Anh, Ơ rơ EU, n Nhật. Vì vị thế của các quốc gia
xuất khẩu thay đổi nên tỉ giá của SDR với các đồng bản tệ cũng thay đổi. Lúc mới ra đời, 1SDR 1USD.
Tới năm 2003, 1SDR tương đương với 1,51 USD.
Tổng hạn ngạch của IMF hiện nay vào khoảng 145 tỉ SDR. Nước đóng góp nhiều là Hoa Kì 17,5%,
Nhật 6,3%, Đức 6,2%, Anh 5,1% … Các nước đang phát triển đóng góp ít là Trung Quốc 3%, Ấn Độ 2%.
Việt Nam có hạn ngạch đóng góp là 329 triệu USD, ở mức 0,2%.
<i>Chức năng cơ bản nhất của IMF là giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế. Thơng qua việc cấp tín dụng và</i>
đặt ra những điều kiện, nó góp phần ổn định hệ thống tiền tệ quốc tế… Từ năm 1978, các điều khoản thoả
thuận của IMF được thông qua theo đó tỉ giá giữa các loại tiền tệ khác nhau được duy trì tương đối với
những chính sách tỉ giá riêng của các nước. Ngày nay, tuy hệ thống ổn định tỉ giá khơng cịn nhưng IMF vẫn
thực hiện giám sát thanh toán quốc tế như một cơ chế ổn định tỉ giá.
<i>b. Hoạt động cấp vốn và vay mượn</i>
IMF có thể cho các quốc gia vay vốn nếu họ có yêu cầu. Các quốc gia có thể vay số tiền nằm trong hạn
mức đóng góp của họ. Nếu quốc gia nào muốn vay vượt hạn mức thì phải tuân theo những điều kiện ràng
buộc để đảm bảo rằng họ có thể thanh tốn đúng hạn.
Phần vốn mà một nước vay vượt quá mức đóng góp của họ được lấy từ phần đóng góp của các nước
khác. Nếu các khoản vay vượt quá số vốn của IMF, IMF có thể đi vay để cho vay. Việc này tiến hành thể
theo “điều kiện Witteveen”. Trong điều kiện IMF đi vay để cho vay như thế, nước vay nợ phải trả lãi vay ấn
định theo thời gian ngắn. Vì IMF là quĩ tiền tệ, chức năng của nó là giám sát thanh tốn quốc tế, ổn định tỉ
giá với những khoản đóng góp mang tính chất định kì nên các khoản vay IMF thường là vay ngắn hạn.
Việc cấp tín dụng của IMF cho các quốc gia được thực hiện dưới nhiều hình thức. Cấp tín dụng được
thực hiện theo đợt, cấp vốn theo từng phần, mỗi phần bằng 25% mức đóng góp của tồn thời kì 5 năm. Tổng
số đợt là 4 lần. Lãi suất vay 7%/năm ngoài ra phải trả thêm phí 0.5%. Nước muốn vay phải là nước khó
khăn, phải làm đơn vay kèm theo đệ trình chương trình điều chỉnh kinh tế. Lần vay đầu khá đơn giản nhưng
những lần vay sau phải tuân theo những điều kiện khắt khe. Cụ thể, IMF cấp cho các thành viên các loại tín
dụng sau:
+ Cấp tín dụng đặc biệt: Loại tín dụng này dành cho các quốc gia bội chi cán cân thanh tốn dài hạn.
Thời gian vay có thể ra hạn tới 10 năm và phải thanh toán thành nhiều đợt. Lãi suất 6 - 7% kèm 0,5% phí.
hụt cán cân thanh toán do các tác nhân nài đó. Với loại này, cách thức áp dụng gần giống hình thức cấp tín
dụng theo đợt.
+ Tín dụng điều hồ dự trữ hàng hố: Loại tín dụng này cấp cho các quốc gia để dự trữ các hàng hoá
chiến lược. Thời hạn cho vay thường ngắn, chỉ 1 năm.
Ngồi ra, các tín dụng được cấp cịn bao gồm cả tín dụng điều chỉnh cơ cấu (thời hạn 10 năm) với lãi
suất thấp 0,5%, vay dự phòng…
<i>c. Cơ chế điều hành</i>
IMF được điều hành bởi Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc với trụ sở ở Oasin tơn. Theo quy định,
Giám đốc IMF là đại diện của EU. Trụ sở IMF ở Oasinhtơn, Hoa Kì.
IMF sử dụng hình thức biểu quyết để thơng qua các chính sách của mình. Mỗi nước nắm một số phiếu
có giá trị tương đương hạn ngạch góp vốn của mình. Vì vậy, các lá phiếu có giá trị thuộc về các nước giàu.
Hoa Kì nắm 18% số phiếu.
Quy định của IMF là mọi vấn đề chỉ được thông qua với 85% số phiếu đồng ý trở lên. Quy định này cho
phép Hoa Kì nắm quyền phủ quyết mọi chính sách của IMF nếu nó khơng phù hợp với lợi ích của mình.
<i><b>2. Tập đoàn ngân hàng thế giới (WBG hay WB)</b></i>
Tập đoàn ngân hàng thế giới tập hợp các tổ chức kinh doanh tài chính quốc tế như Ngân hàng Tái thiết
và Phát triển Quốc tế (cũng gọi là Ngân hàng Thế giới), Hiệp hội Phát triển Quốc tế và Công ti Tài chính
Quốc tế (cịn gọi là Nghiệp đồn tài chính Quốc tế).
<i>a. Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD)</i>
Ngân hàng này được thành lập năm 1945 dựa trên sáng kiến của Hoa Kì, Anh và Canađa. Đến nay,
IBRD có hơn 180 thành viên ở khắp các châu lục trên thế giới. Nguồn vốn của IBRD dựa vào vốn đóng góp
của các thành viên và vốn vay. Số vốn mà mỗi nước phải góp chia thành 2 khoản: một khoản góp ngay là
20% bằng tiền bản tệ và tiền chuyển đổi hoặc vàng, một khoản góp dần theo yêu cầu của IBRD. Đến nay, số
vốn của IBRD do các cá nhân đóng góp là gần 190 tỉ USD. Vốn vay thường huy động thông qua việc phát
hành trái phiếu. Mức vốn đóng góp của các quốc gia khác nhau tuỳ sức mạnh kinh tế. Hoa Kì là nước góp
khoảng 18% số vốn nên họ cũng năm 18% cổ phiếu biểu quyết.
IBRD chủ yếu cung cấp vốn vay trung hạn, dài hạn cho các nước đang phát triển với lãi suất thấp hơn
- Giúp các nước tái thiết kinh tế sau chiến tranh, phát triển sản xuất, bồi dưỡng nguồn lực trong thời
bình.
- Hỗ trợ các khoản đầu tư tư nhân ra nước ngoài.
- Hỗ trợ khai thác tài nguyên, cân bằng quan hệ thương mại và thu chi quốc tế thông qua động viên đầu
tư quốc tế.
- Dàn xếp, bảo trợ cho các khoản vay cần thiết.
- Điều hành các hoạt động đầu tư quốc tế vào các nước thành viên, giúp đỡ kinh tế chuyển đổi.
<i>b. Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA)</i>
Thành lập năm 1960 theo đề xuất của Mĩ với mục đích là giúp các quốc gia thành viên trong khu vực
kém phát triển nhất phát triển kinh tế. Đến nay, IDA có hơn 160 thành viên.
Do mục đích thành lập là hướng vào phục vụ những nước nghèo nhất nên IDA có nhiều ưu đãi. Các
nước muốn được vay của IDA phải là những nước nghèo, thường là dưới 800USD. Lãi suất cho vay thường
bằng 0% (trừ khoản lệ phí ban đầu 0,5%). Thời gian cho vay dài hạn, có thể tới 30 - 40 năm, thậm chí 50
năm.
<i>c. Cơng ti tài chính quốc tế IFC</i>
Cơng ti được thành lập năm 1956 và ngay lập tức được nhiều nước tham gia. Đến nay, IDAI đã có hơn
170 nước thành viên. Về đối tượng phục vụ, nếu như IBRD và IDA có đối tượng cho vay là các chính phủ
thì IFC có đối tượng cho vay là các doanh nghiệp ở các nước. Thời hạn cho vay là 10 năm với lãi suất cao.
IFC hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua các dự án cam kết, không cần bảo lãnh của chính phủ. Tuy gắn bó
với IBRD nhưng IFC lại là pháp nhân độc lập với nguồn vốn độc lập với IBRD. Tuy nhiên, chức Chủ tịch
Nguyên tắc chung của Ngân hàng Thế giới là thơng qua các chính sách thông qua biểu quyết (tương tự
IMF) và Mĩ vẫn duy trì khả năng phủ quyết của mình với số phiếu khống chế là khoảng 18% và 10 nước
công nghiệp hàng đầu thế giới vẫn khống chế hơn 50% số phiếu.
Theo một thoả thuận giữa châu Âu và Mĩ, châu Âu nắm chức Chủ tịch IMF và ngược lại, Mĩ nắm giữ
chức Chủ tịch WB.