Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Bài giảng D:mọt số kinh nghiệm bồi dưỡng HSG môn lịch sử.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.64 KB, 45 trang )

Lời giới thiệu:
Học,học nữa, học mãi!
Danh ngôn nổi tiếng của Lê - Nin là hành trang theo tôi suốt
cả cuộc đời.
Thật vây! Gần 30 năm qua đứng trên bục giảng, bản thân
không ngừng phấn đấu học hỏi: Học ở bậc thầy cô, học ở trường
lớp, học ở đồng chí, đồng nghiệp ,học ở sách báo, ở mọi phương
tiện và luôn luôn tự hoàn thiện mình để góp một phần nho nhỏ cho
ngành giáo dục huyện nhà .
Giờ đây đứng trước thời kì hội nhập kinh tế toàn cầu, ảnh
hưởng của mạng Internet và văn hóa ngoại bang đã tràn vào nước ta
qua nhiều phương tiện không thể kiểm soát hết, có tác động không
nhỏ đến thế hệ trẻ Việt Nam. Làm cho học sinh huyện nhà nói riêng
và cả nước nói chung lơ là trong các môn học phụ nhất là bộ môn
lích sử( minh chứng được thống kê qua các kì thi tuyển chọn hoặc
các kì thi tốt nghiệp phổ thông).
Băn khoăn trước thực trạng đó , là một giáo viên có nhiều năm
công tác trong nghề và liên tục có nhiều học sinh giỏi cấp huyện,
cấp tỉnh. Tôi mạo muội trình bày một số kinh nghiệm của mình về
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử.
Rất mong được sự góp ý bổ sung của tổ nghiệp vụ, các đồng
chí, đồng nghiệp để đề tài được phong phú hoàn thiện.
Giáo Viên Lịch Sử
Bùi Thị Liệu
A - PH Ầ N M Ở ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1) Lí do khách quan:
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những hoạt động vất vả, khó
khăn và thử thách đối với những người làm nghề dạy học.
Bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là công tác cực kì quan trọng giúp cho
ngành giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những mầm giống tương lai cho


đất nước trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời giúp cho học sinh thực hiện
được ước mơ là con ngoan, trò giỏi và có định hướng đúng về nghề nghiệp
của mình trong tương lai.
Thực tế trong những năm qua, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
được lãnh đạo các trường và phòng giáo dục chú trọng, quan tâm. Song chất
lượng mũi nhọn của ngành giáo dục huyện nhà đạt hiệu quả chưa cao, chưa
ngoạn mục, khi tăng khi giảm. Chưa có tính bền vững (đặc biệt là bộ môn
lịch sử).
2) Lí do chủ quan:
Bản thân tôi là một giáo viên thuộc trường trung học cơ sở Hoàng
Hoa Thám. Thành tích bồi dưỡng học sinh giỏi của tôi gắn liền với chất
lượng mũi nhọn của trường.
Trường trung học cơ sở Hoàng Hoa Thám được thành lập ngày 31
tháng 8 năm 2001. Được ban giám hiệu tạo điều kiện và tin tưởng phân công
tôi giảng dạy một số lớp khối 9 thuộc bộ môn lịch sử. Một môn học ít tiết,
được coi là phụ không mấy ai quan tâm. Song bằng năng lực chuyên môn
cùng tâm huyết với nghề, bảy năm liên tục tôi có học sinh giỏi cấp tỉnh
(trong đó có 1 giải nhì, ba giải 3, hai giải khuyến khích và hai công nhận).
Thành tích đạt được của học sinh chính là thước đo của nhà giáo. Tôi mạnh
dạn trình bày những kinh nghiệm có được của mình trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi bộ môn lịch sử để các đồng chí đồng nghiệp tham khảo.
Nhằm đưa sự nghiệp giáo dục của huyện CưMGar ngày một nâng cao ngang
tầm với các đơn vị bạn, trở thành tốp đầu trong tỉnh.
II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH
SỬ.
1. Thuận lợi :
- Được sự chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường .
- Sự tạo điều kiện của giáo viên chủ nhiệm và các đồng chí, đồng
nghịêp.
- Học sinh xã CưDlêMnông có tinh thần hiếu học, cán bộ và nhân

dân địa phương có sự quan tâm .
- Bản thân có nhiều năm công tác trong nghề, có nhiều kinh
nghiệm trong ôn luyện học sinh giỏi
- Đặc biệt môn lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc
giáo dục thế hệ trẻ. Học lịch sử để biết được cội nguồn của dân tộc, quá trình
đấu tranh anh dũng và lao động sáng tạo của ông cha. Học lịch sử để biết
quý trọng những gì mình đang có, biết ơn những người làm ra nó và biết vận
dụng vào cuộc sống hiện tại để làm giàu thêm truyền thống dân tộc.
2) Khó khăn:
Do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời
sống xã hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn
lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần làm bài tập,
không cần học thêm phí công vô ích. Dẫn đến hậu quả học sinh không nắm
đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là
hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở nhiều trường.
Do ảnh hưởng của thời kì hội nhập, của phim truyện nước ngoài, của mạng
Internet, của các trò chời điện tử… Đã ảnh hưởng không nhỏ đến những học
sinh thiếu động cơ thái độ học tập, sao nhãng việc học hành dẫn đến liệt
môn, nhất là bộ môn lịch sử .
Chưa loại bỏ được cách giáo dục - học tập mang tính thực dụng.
Xem nặng môn này, coi nhẹ môn kia hoặc “thi gì học nấy” làm cho học vấn
của học sinh bị “què quặt” thiếu toàn diện. Tình trạng “mù lịch sử” hiện nay
ở không ít học sinh phổ thông là tai hại của việc học lệch, không toàn diện.
Thầy giáo dạy lịch sử bị xem thường, không được coi trọng như các
thầy cô thuộc khoa học tự nhiên, ngoại ngữ,… Giáo viên dạy lịch sử cũng
rất nghèo về kinh tế. Mức thu nhập chủ yếu chỉ dựa vào đồng lương chính
đáng ngoài ra hiếm có cơ hội của những nguồn thu khác.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Mục đích nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm này là nhằm đưa
ra một số kinh nghiệm, bí quyết ôn luyện học sinh giỏi môn lịch sử (chọn

đối tượng học sinh, phương pháp ôn luyện , kết quả đạt được ) .
IV. TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU :
Sách giáo khoa lịch sử lớp 6 , 7 , 8 , 9 .
Một số tài liệu tham khảo khác như danh nhân lịch sử, sách nâng
cao…
Một số đề thi cấp huyện, cấp tỉnh môn lịch sử .
B - NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
I.CÁCH TUYỂN CHỌN ĐỐI TƯỢNG ÔN THI
Công tác tuyển chọn học sinh dự thi xin phép được nói rộng ra hai khối tự
nhiên và xã hội:
- Đối với khối tự nhiên: Học sinh giỏi toán, chắc chắn sẽ học khá các
môn lí, hoá, sinh.
- Đối với khối xã hội: Học sinh học giỏi môn ngữ văn, ắt sẽ học khá
môn lịch sử.
Từ thực tế đó giúp ta dễ dàng trong khâu tuyển chọn song học sinh
cứ xem thường môn lịch sử cho đó là môn học phụ. Mặt khác giáo viên dạy
môn lịch sử cũng thường bị lép vế trong khâu tuyển chọn học sinh, phải lựa
chọn đối tượng sau cùng. Những em có năng khiếu đặc biệt thường thích ôn
luyện các môn học tự nhiên. Vì có kiến thức cơ bản, vững vàng các em cần
nắm rõ các công thức, quy tắc, định nghĩa, định lí rồi linh hoạt nhạy bén, áp
dụng để làm bài. Còn các môn học ít tiết như lịch sử, địa lí cần học bài dài
và nhiều nên phần đông các em rất chán.Bởi vậy giáo viên cần động viên,
khuyến khích thì học sinh mới chịu đi ôn.
Mặt khác giáo viên phải biết khơi dậy ở học sinh niềm tự hào, hãnh
diện khi đỗ đạt. Đã là học sinh giỏi cấp tỉnh có giải thì đương nhiên bất cứ
môn học nào cũng được hưởng chế độ ưu tiên ngang nhau và vinh quang
như nhau.
Trong công tác tuyển chọn cũng cần lưu ý về vấn đề tâm lý học sinh.
Tâm lí vững vàng, bình tĩnh, tự tin thì bài làm sẽ
đạt kết quả cao. Ngược lại tâm lí hoang mang, giao động, sợ sệt thì

chất lượng bài làm sẻ kém. Bởi vậy giáo viên ôn luyện cũng phải biết trấn
tỉnh niềm tin cho đối tượng ôn thi.
Khi lựa chọn được đối tượng để ôn rồi thì giáo viên phải biết yêu
nghề tận tụy với nghề. Yêu trẻ tận tụy với trẻ. Luôn luôn biết khích lệ, níu
kéo các em vào niềm ham mê yêu thích bộ môn. Đồng thời giáo viên cũng
phải biết xây dựng vun đắp uy tín của mình để có được lòng tin đối với học
sinh.
II. PHƯƠNG PHÁP ÔN LUYỆN HỌC SINH GIỎI BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
- Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết dạy ở lớp học bình
thường. Vì ở lớp ta dạy cho học sinh phù hợp với ba đối tượng ( khá giỏi,
trung bình và yếu kém). Song dạy cho học sinh đi thi có nghĩa là ta đưa các
em “mang chuông đi đánh đất người”. Đối tượng dự thi đều ngang tầm nhau
về mặt học lực, nhận thức. Vì vậy ngoài kiến thức sách giáo khoa giáo viên
cần có thêm tài liệu nâng cao, để giúp đối tượng dự thi học sâu, hiểu rộng.
- Thứ hai là người dạy phải có niềm tin và tâm huyết với nghề. Phải
biết băn khoăn, trăn trở khi học sinh không hiểu bài, biết vui mừng phấn
khởi khi học sinh thành đạt. Hay nói cách khác là người dạy phải lấy kết quả
của học sinh làm thước đo tay nghề của nhà giáo.
- Yếu tố cơ bản nhất là người dạy luôn luôn biết tự hoàn thiện mình.
Có tâm huyết với nghề chưa đủ, hơn thế nữa phải có năng lực chuyên môn
vững vàng, biết xác định được kiến thức trọng tâm, biết làm chủ điều mình
dạy và phải biết dạy học sinh cách học để học sinh bình tĩnh, tự tin lĩnh hội
kiến thức và tư duy sáng tạo. Nâng quan điểm từ biết để hiểu để vận dụng
vào làm bài.
Thực tế cho thấy học sinh nhiều trường dự thi học sinh giỏi, mặc dù
thang điểm 20 song kết quả một số thí sinh chỉ đạt: 0.5;1;2;3;… Lí do là
người dạy và người học hời hợt, thiếu đầu tư, được chăng hay chớ hoặc chưa
xác định được cách ôn luyện, chỉ tập trung vào kiến thức lớp 9.
Theo bản thân tôi đã là học sinh giỏi thì phải được trang bị kiến thức

tương đối toàn diện. Hiểu khái quát được đặc trưng của bộ môn lịch sử là
tìm hiểu, nghiên cứu những hoạt động của con người và xã hội loài người từ
khi xuất hiện cho đến ngày nay. Cách mạng Việt Nam có quan hệ mật thiết
với cách mạng thế giới. Cho nên phương pháp ôn luyện của tôi là:
- Hệ thống hóa kiến thức cơ bản bằng phân kỳ lịch sử
- Chốt kiến thức trọng tâm bằng hệ thống câu hỏi, bài tập.
- Rèn kỹ năng tư duy, sáng tạo cho học sinh.
1) PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI
a) Lịch sử thế giới cổ đại (lớp 6).
Nắm được sự xuất hiện của nhà nước cổ đại phương Đông, phương
Tây. Nhà nước cổ đại phương Đông hình thành trên lưu vực các dòng sông
lớn. Ngược lại nhà nước cổ đại phương Tây lại được hình thành ở đảo, bán
đảo. Bởi vậy hình thái kinh tế, xã hội, văn hoá cũng khác nhau. Những công
trình kiến trúc đồ sộ nổi tiếng còn tồn tại đến ngày nay như Kim Tự Tháp
( Ai Cập), vườn treo Babilon (Lưỡng Hà), tượng thần Dớt( Hi Lạp), đấu
trường Côlidê (Rô Ma), …
b) Lịch sử thế giới trung đại( lớp7).
- Sự phát sinh, phát triển của nhà nước phong kiến ở châu Âu, châu
Á, Đông Nam Á.
- Nguyên nhân, nội dung, hệ quả của cuộc phát kiến địa lí.
- Vai trò của nền văn hoá phục hưng.
- Phong trào đấu tranh của nông dân chống phong kiến.
c) Lịch sử thế giới cận đại( lớp 8).
- Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, các cuộc cách
mạng tư sản.
- Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Những
đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất.
- Phong trào công nhân và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Vai trò của Mác – Ăng Gen và sự ra đời quốc tế thứ nhất, quốc tế

thứ hai( hoàn cảnh ra đời, hoạt động, tác dụng đối với phong trào cách mạng
thế giới.
- Công xã Pari - nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Học sinh vẽ
được sơ đồ nhà nước và lấy dẩn chứng công xã Pari là nhà nước kiểu mới.
d) Lịch sử thế giới hiện đại ( lớp 8-9)
Gồm hai giai đoạn: 1917-1945 (lớp 8) và 1945 đến nay ( lớp 9).
- Cách mạng tháng Mười Nga thành công 1917 và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941) .
- Nước Mĩ, châu Âu, châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
- Chính sách mới của Ph.Ru-Giơ-Ven.
- Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
- Sự phát triển của khoa học kỉ thuật và văn hoá thế giới từ nửa đầu
thế kỉ XX.
- Liên Xô và các nước Đông Âu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
- Các nước Á – Phi - Mĩ La Tinh từ 1945 đến nay.
- Sự ra đời và hoạt động của hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) và
quốc tế cộng sản (quốc tế thứ 3)
- Ba trung tâm kinh tế tài chính của thế giới (Mĩ, Nhật Bản, các nước
Tây Âu)
- Quan hệ quốc tế từ 1945 đến nay.
- Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ hai.
2. PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM
a) Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X (lớp 6).
+ Thời đại dựng nước Văn Lang – Âu Lạc:
Lí do ra đời nhà nước Văn Lang.đời sống vật chất, tinh thần của cư
dân Văn Lang. Công lao to lớn của vua Hùng Vương trong buổi đầu
dựng nước được Bác Hồ hằng căn dặn :
Các Vua Hùng có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
Nước Âu Lạc ra đời trong hoàn cảnh nào? Bài học mất nước đầu

tiên của An Dương Vương để lại thật là thấm thía:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần sơ ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
Văn minh Văn Lang-Âu Lạc để lại cho chúng ta: Tổ quốc, thuật
luyện kim, nông nghiệp lúa nước, phong tục tập quán riêng và bài học
đầu tiên về công cuộc giữ nước.
Cho học sinh vẽ và giải thích được sơ đồ nhà nước Văn Lang - Âu
Lạc.
+ Thời kì bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập:
Xuất hiện hai vị nữ anh hùng dân tộc đã ghi vào lịch sử như một
mốc son chói lọi đó là Trưng Trắc, Trưng Nhị hai chị em con nhà lạc
tướng huyện Mê Linh. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, căm thù
chính sách đồng hoá dân tộc và cống nộp của nhà Đông Hán. Nợ nước,
thù nhà đè nặng lên đôi vai người phụ nữ ,Trưng Trắc đã quyết tâm đi
đánh giặc với lời thề son sắt. sau này được sách “Thiên Nam Ngữ Lục”
chép thành bốn câu thơ:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn chữ công lệnh này.
Khởi nghĩa hai bà Trưng bùng nổ tháng ba năm bốn mươi tại
cửa Hát, Hát Môn, Hà Tây đã đi vào lịch sử như một chiến công hiển
hách chống giặc ngoại xâm. Nâng cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm: Phất cờ khởi nghĩa là phụ nữ, lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa là phụ nữ và dựng nước xưng vương cũng lại là phụ nữ chưa có
một dân tộc nào, một quốc gia nào lại có được niềm vinh quang như vậy.
Hơn hai trăm năm sau xuất hiện cuộc khởi nghĩa bà Triệu Thị

Trinh (248):Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá
kình ở biển khơi đánh đuổi quân Ngô chứ đâu chịu khom lưng làm tì
thiếp cho người.
Tiếp theo là cuộc khởi nghĩa của Lí Bí năm 542 đánh đuổi quân
Lương và lập ra đất nước có quốc hiệu là Vạn Xuân. Để lại bài học đánh
giặc bằng lối du kích của Triệu Quang Phục: Đầm Dạ Trạch lừng danh
nơi hiểm yếu.
Kế tục là cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, Phùng Hưng.
+ Bước ngoặt lịch sử ở đầu thế kỉ X :
Đó là cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc, họ
Dương. Đặc biệt là:
Ngô Quyền Bạch Đằng Giang bất tử
Thành mồ chôn quân Nam Hán hung tàn.
Cho đến nay sông Bạch Đằng còn đó, nước sông vẫn chảy hoài mà
nhục quân thù không rửa hết. Bởi nghệ thuật quân sự có tính toán kỉ lưỡng
dùng cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông, hai bên bờ cho quân mai phục
và lợi dụng nước thuỷ triều để đánh giặc. Một chiến thắng lẫy lừng kết thúc
hơn một nghìn năm Bắc thuộc, mở ra kì nguyên nhà nước phong kiến Việt
Nam ra đời.
b)Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX (lớp 7).
Là quá trình hình thành và phát triển của các triều đại phong kiến bằng
những hình thái chính trị , kinh tế , xã hội khác nhau gắn với các cuộc đấu
tranh chống giặc ngoại xâm mà tương quan lực lượng quá chênh lệch giữa ta
và địch :
Thế trận xuất kì lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục láy ít địch nhiều.
song với nghệ thuật quân sự tài tình , với lòng yêu nước nồng nàn và
tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất quân và dân ta đã làm nên những
chiến thắng vẻ vang .
Nhà nước phong kiến Việt Nam được hình thành và phát triển theo

các triều đại sau:
- Triều đại nhà Ngô (939 - 968 ) mở đầu cho nhà nước phong kiến
Việt Nam của dân tộc ta. Ngô Quyền xưng Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Triều
đình gồm ban văn và ban võ. Phong chức tước cho người có công, cử tướng
giỏi trông coi các Châu quan trọng. Ngô Quyền mất (944) hai con là Ngô
Xương Ngập và Ngô Xương Văn còn nhỏ tuổi bị em vợ là Dương Tam Kha
cướp ngôi. Năm 950 Ngô Xương Văn phục quốc song do mâu thuẫn nội bộ,
uy tín nhà Ngô giảm sút. Năm 965 Ngô Xương Văn chết, đất nước xẩy ra
loạn 12 sứ quân.
- Triều đại nhà Đinh (968 - 980 ) tên nước là Đại Cồ Việt , kinh đô
Hoa Lư . Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng đã có công dẹp loạn 12 sứ
quân và thống nhất đất nước song đất nước thái bình chưa được bao lâu,
năm 979 Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại,
nhân cơ hội đó nhà Tống lăm le xâm phạm bờ cõi Đại Cồ Việt. Trước tình
thế hiểm nghèo, thái hậu Dương Văn Nga đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi
ích gia đình, dòng họ đã trao chiếc áo hoàng bào cho thập đạo tướng quân
Lê Hoàn mở ra một triều đại mới chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất
nước.
- Triều đại nhà Tiền Lê (980 - 1009 ) tên nước cũng là Đại Cồ Việt đã
chiến thắng quân xâm lược Tống giành thắng lợi ở sông Bạch Đằng . Nhà
Tiền Lê chia nước thành 10 lộ, thịnh hành ở thời vua Lê Đại Hành và suy
vong thời vua Lê Long Đỉnh tức Lê Ngọa Triều. cuối năm 1009 Lê Long
Đỉnh chết, các triều thần lúc đó cùng nhau suy tôn điện tiền chỉ huy sứ Lí
Công Uẩn lên làm vua, triều Lý thành lập.
- Triều đại nhà Lý (1009 -1226 ) Lí Thái Tổ đã có công dời đô từ Hoa
Lư về Đại La đổi tên là Thăng Long (1010). Năm 1054 đổi tên nước là nước
Đại Việt, chia nước thành 24 lộ, dưới lộ là phủ, châu, huyện xã. Về văn bản
pháp lí: Nhà Lí có bộ luật Hình thư(1042). Về quân đội thực hiện chính
sách “ngụ binh ư nông”. Nhà Lí hai lần đánh thắng quân xâm lược Tống: lần
thứ nhất (1075 ) , lần thứ hai (1077 ). Cách đánh giặc của Lí Thường Kiệt rất

độc đáo : Một là tấn công để tự vệ đó là mở cuộc tập kích vào đất Tống
nhằm mục đích làm tiêu hao sinh lực địch trước khi địch đem quân xâm
chiếm nước ta. Phòng thủ để tấn công: Xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt,
một địa điểm cách xa biên giới nhưng gần Thăng Long , khiến cho quân
Tống khi tiến vào nước ta bị phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại, chúng rơi
vào tình thế tiến thoái lưỡng nan , khiến cho tướng giặc Quách Quỳ thất
vọng, ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém.” chuyển sang thế phòng ngự . Hơn
40 ngày bị cầm chân , quân tiếp viện không đến , lương thực cạn dần , binh
lính bị ốm đau, chết dần, chết mòn . Nắm được tình hình bế tắc của địch, Lí
Thường Kiệt đã sáng tác bài thơ thần “ Sông núi nước Nam” được coi là bản
tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước ta, nhằm giảm nhuệ khí quân giặc,
khích lệ tinh thần chiến đấu của quân ta và khẳng định chủ quyền dân tộc.
Mặt khác nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc, chủ động đề nghị giảng
hòa , Quách Qùy chấp nhận ngay. Đây là kiểu kết thúc chiến tranh độc đáo,
thể hiện tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta, muốn mở đường hiếu sinh cho
người thất thế, mục đích để giữ mối quan hệ tốt giữa Đại Việt và nước
Tống . Vị vua cuối cùng của triều Lí là Lí Chiêu Hoàng.
- Triều đại nhà Trần (1226 -1400), tên nước cũng là Đại Việt đã ba lần
đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên , một thứ giặc được coi là hùng
mạnh nhất lúc bấy giờ. Bằng chiến thuật “vườn không nhà trống”, rút lui để
bảo toàn lực lượng, khi giặc rơi vào tình thế khó khăn lương thực cạn kiệt, vì
thời tiết và lạ phong thổ quân lính ốm đau, mệt mỏi chán nản, quân ta đã tổ
chức phản công và giành thắng lợi vẻ vang (lần1: 1258, lần 2: 1285, lần
3:1287-1288). thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên
đã đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Nguyên, bảo vệ
độc lập toàn vẹn lãnh thổ của chủ quyền quốc gia . Góp phần xây đắp nên
truyền thống quân sự Việt Nam để lại nhiều bài học quý giá đó là cũng cố
khối đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để đánh giặc, tinh thần quyết chiến đấu
của toàn dân mà nòng cốt là lực lượng quân đội. Chiến thắng chống quân
Mông Nguyên gắn liền với nhà quân sự tài ba, lỗi lạc là Trần Quốc Tuấn.

Nhà Trần chia nước thành 12 lộ .Đặt ba chức quan chăm lo sản xuất nông
nghiệp: Hà đê sứ, khuyến nông sứ, đồn điền sứ nên kinh tế thời Trần phát
triển; ban hành bộ quốc triều hình luật (1230); văn học chữ Hán, chữ Nôm
phát triển chứa đựng lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc .
-Triều đại nhà Hồ (1400 -1407),tên nước là Đại Ngu. Sau khi cướp
ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly lập ra nhà Hồ. Ban hành một số cải cách chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội song chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa
giải quyết được những yêu cầu bức thiết của nhân dân nên nhanh chóng bị
thất bại .
-Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh của nghĩa quân Lam
Sơn do Lê Lợi lãnh đạo mở đầu bằng hội thề Lũng Nhai(1416) và kết thúc
bằng hội thề Đông Quan (1427) .
Nghệ thuật quân sự dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều cũng được Lê Lợi
sử dụng triệt để: Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh khi Vương
Thông xuất quân hướng về Cao Bộ (Chương Mĩ- Hà Tây) ngày 7-11-1426,
biết được ý đồ của giặc ta đặt phục binh ở Tốt Động- Chúc Động giặc rơi
vào trận địa,bị đánh bất ngờ làm 5 vạn quân giặc bị tử thương 1 vạn bị bắt
sống, Vương Thông bị thương tháo chạy về Đông Quan,Thượng Thư bộ
binh Trần Hiệp cùng các tướng giặc Lí Lượng, Lí Đằng bị giết tại trận .
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”.
(Trích Bình Ngô đại
cáo )
Đặc biệt là trận Chi Lăng – Xương Giang ngày 8-10-1427 quân viện
binh do Liễu Thăng chỉ huy tiến vào nước ta, bị mai phục ở ải Chi Lăng.
Quân ta vừa đánh vừa lui, Liễu Thăng thúc quân đuổi theo lọt vào trận địa
mai phục lập tức bị quân ta phóng lao đâm chết, quân Minh hốt hoảng rối
loạn, thừa cơ quân ta diệt hơn một vạn địch. Sau khi Liễu Thăng bị giết
Lương Minh lên thay cố chấn chỉnh đội ngũ tiến xuống Xương Giang (Bắc
Giang) bị quân ta phục kích ở Cần Trạm, Phố Cát tiêu diệt ba vạn tên, Tổng

binh Lương Minh bị giết tại trận, Thựơng Thư bộ binh Lí Khánh phải thắt cổ
tự tử. Thừa thắng quân ta diệt gần 5 vạn tên địch, số còn lại bị bắt sống.
Vương Thông ở Đông Quan vô cùng khiếp đảm, vội vàng xin hòa và chấp
nhận hội thề Đông Quan(10-12-1427) để được an toàn rút quân về nước.
Chiến thắng Chi Lăng -Xương Giang một lần nữa chứng tỏ bộ chỉ huy nghĩa
quân Lam Sơn đứng đầu Lê Lợi và Nguyễn Trải đã biết khai thác yếu tố địa
hình, địa vật nước ta để tìm ra một cách đánh phù hợp với tương quan lực
lượng chênh lệch giữa ta và địch một cách hiệu quả.
Chiến thắng Chi Lăng -Xương Giang đã mở ra triều đại mới đó là thời
Lê Sơ ( 1428 – 1527 ) là triều đại phong kiến thịnh đạt nhất cả về chính trị,
kinh tế lẫn văn hóa , giáo dục. Có bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của
Nguyễn Trãi là bài : “ Bình Ngô Đại Cáo” ;có bộ luật Hồng Đức (1483) là
bộ luật tiến bộ nhất trong thời kì phong kiến.
Bộ máy nhà nước thời Lê Sơ là nhà nước quân chủ quan liêu chuyên
chế. Hệ thống thanh tra giám sát hoạt động của quan lại được tăng cường từ
trung ương đến cấp xã. Các đơn vị hành chính được tổ chức chặt chẻ hơn
đặc biệt là cấp thừa tuyên và cấp xã. Cách đào tạo bổ dụng quan lại lấy
phương thức học tập thi cử làm phương thức chủ yếu, là nguyên tắc để tuyển
dụng quan lại (tức là phải có học, thi đổ, có bằng cấp thì mới được nhà nước
bổ dụng làm quan).
Về kinh tế thời Lê Sơ cũng phát triển mạnh mẽ, chú trọng kinh tế
nông nghiệp, đặt ba chức quan chăm lo sản xuất nông nghiệp (hà đê sứ,
khuyến nông sứ, đồn điền sứ). Điều 25 vạn lính về quê chăm lo sản xuất
nông nghiệp, định lại chính sách ruộng công làng xã . Cấm điều động dân
binh trong mùa cấy gặt. Các nghề thủ công truyền thống phát triển, nhiều
làng thủ công truyền thống ra đời . Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành
nghề thủ công nhất .
Về buôn bán: Nhà vua khuyến khích mở chợ, họp chợ. Buôn bán với nứơc
ngoài cũng được duy trì (Vân Đồn - Quảng Ninh).
Về văn hóa giáo dục thời Lê Sơ cũng rất phát triển vua Lê Thái Tổ

cho xây dựng lại Quốc tử giám, mở trường học ở các lộ, mở khoa thi và cho
phép người có học đều được dự thi. Nhà nước tuyển chọn người giỏi, có đạo
đức để làm thầy giáo. Thời Lê Sơ tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đổ
989 tiến sĩ và 20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497)
tổ chức được 12 khoa thi tiên sĩ, lấy đổ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.

Giai đoạn bi đát nhất của lịch sử là cuộc chiến tranh Nam Triều - Bắc
Triều (1527-1592) và chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627 -1672) làm tổn
thương tình đoàn kết dân tộc. Đất nước bị chia cắt, nhân dân cực khổ .
Khôn ngoan qua được Thanh Hà
Dẫu rằng có cánh khó qua Lũy Thầy
Phong trào Tây Sơn bùng nổ , nhân vật lịch sử nổi tiếng đó là Quang
Trung (Nguyễn Huệ) người anh hùng áo vải , vị lãnh tụ nông dân kiệt xuất
đã lật đổ các tập đoàn phong kiến Nguyễn, Trịnh, Lê, xóa bỏ ranh giới chia
cắt đất nước, đặt nền tảng thống nhất quốc gia đồng thời đánh tan quân
Xiêm (1785), quân Thanh (1789) bảo vệ độc lập và lãnh thổ của tổ quốc.
Sau đó bắt tay vào khôi phục kinh tế, ban hành chiếu khuyến nông, mở cửa
ải thông thương chợ búa. Xây dựng nền văn hóa dân tộc, ban bố chiếu lập
học. Đề cao chữ Nôm, lập viện sùng chính dịch chữ Hán sang chữ Nôm do
Nguyễn Thiếp đứng đầu và thực hiện những chính sách quốc phòng, ngoại
giao.
Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ cũng thật là độc đáo. Biết lợi dụng
yếu tố thiên thời địa lợi để đặt phục kich ở khúc sông Rạch Gầm -Xoài Mút
ở tỉnh Tiền Giang dài 6km, rộng 1 đến 2 km ở giữa có cù lao Thới Sơn, hai
bên bờ cây cối rậm rạp. Địa hình thuận lợi để đặt phục kích, khi giặc lọt vào
trận địa mai phục. Nguyễn Huệ ra lệnh phản công quân giặc bị tiêu diệt gọn.
Chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút ngày 19-1-1785 là một trong những trận
mai phục thủy chiến lớn nhất của nhân dân ta, đập tan âm mưu xâm lược của
quân Xiêm. Làm cho quân Xêm “ngoài miệng tuy nói khoác, nhưng trong
bụng thì sợ quân Tây Sơn như cọp”(Đại Nam thực lục) .

Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh thần tốc, bất ngờ táo bạo, tổ chức chiến
đấu hết sức cơ động. Đó cũng là nét độc đáo trong cách đánh giặc của
Quang Trung. Ông đã cho quân ăn tết trước và bất ngờ tiêu diệt 29 vạn quân
Thanh trong dịp tết kỉ Dậu năm 1789 từ đêm 30 tết đến ngày mồng 5 tết.
Giải phóng Thăng Long đồn lũy kiên cố bị san bằng “ thây ngổn ngang đầy
đồng, máu chảy thành suối quân Thanh đại bại ”(Hoàng Lê Nhất Thống Chí)
.
Quang Trung mất(1792). Quang Toản nối ngôi nhưng không đủ năng lực
và uy tín điều hành công việc của quốc gia. Nội bộ triều Tây Sơn nảy sinh
mâu thuẫn và suy yếu. Nhà Nguyễn lập lại chế độ phong kiến tập quyền -
Nguyễn Ánh (1802), ban hành bộ hoàng triều luật lệ (1815) tức bộ luật Gia
Long. Triều Nguyễn tồn tại đến năm 1945 (vị vua cuối cùng của triều đại
phong kiến là Bảo Đại).
c) Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918 ( lớp 8).
Do nhu cầu tìm kiếm thị trường, thuộc địa, 1-9-1858 thực dân Pháp
xâm lược nước ta taị Đà Nẵng. Nhà Nguyễn yếu hèn không phối hợp với
nhân dân để chống giặc ngoại xâm. Vì quyền lợi giai cấp Nhà Nguyễn đã
phản bội lợi ích của dân tộc lần lượt kí các hiệp ước đầu hàng ( 1862, 1874 ,
1883 và 1884 ). Thực dân Pháp lần lượt chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì,
ba tỉnh miền Tây Nam Kì, mở rộng xâm lược Bắc Kì lần một (1873 -1874),
lần hai (1882 -1884) .
Đối lập với triều đình Nhà Nguyễn, nhân dân kiên quyết đấu tranh
chống thực dân Pháp xâm lược.
Trước hành động xâm lược của liên quân Tây Ban Nha-Pháp, khiến
cho nhân Đà Nẵng vô vùng căm phẩn đã nổi dậy đấu tranh, thực dân Pháp bị
thất bại phải kéo quân vào Gia Định.
-1859 Pháp đánh vào Gia Định, phong trào kháng chiến nhân dân sôi
nổi. Nghĩa quân Nguyển Trung Trực đã đốt cháy tàu Pháp trên sông Vàm Cỏ
Đông(10-12-1861).
Nghĩa quân do Trương Định lãnh đạo đã làm địch thất điên bát đảo,

ông được nhân dân tôn là Bình Tây Đại Nguyên Soái.
Nhân dân sáu tỉnh Nam Kì nêu cao tinh thần quyết tâm kháng chiến
chống Pháp. Tấm gương Nguyển Trung Trực trước kháng chiến ở miền
Đông, sau sang miền Tây lập căn cứ ở Hòn Chông( Rạch Giá). Bị giặc bắt
đem ra chém, ông đã khẳng khái tuyên bố: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ
nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Khi thực dân Pháp xâm lược Bắc Kì lần thứ 1và lần thứ 2 cũng bị
quân và dân ta đánh trả quyết liệt. Đã giết được tên Gác-Ni-Ê , Ri-Vi-E và
nhiều sĩ quan, binh lính Pháp.
Hưởng ứng chiếu Cần Vương có ba cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: Khởi
nghĩa Ba Đình (1886 -1887) , khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1892) đặc biệt là
khởi nghĩa Hương Khê (1885 -1895). Phong trào Cần Vương đã gây cho
địch nhiều khó khăn, lúng túng nhưng cuối cùng bị thất bại. Thất bại của
phong trào Cần Vương chứng tỏ ngọn cờ cứu nước theo phạm trù phong
kiến không phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử .
Tiếp theo là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 -1913) và
phong trào đấu tranh chống Pháp của đồng bào miền núi cuối thế kỉ XIX quy
mô quyết liệt, thời gian kéo dài đã gây cho địch nhiều thiệt hại song kết quả
cũng bị thất bại. Một lần nữa chứng tỏ giai cấp nông dân không đảm đương
được sứ mệnh lịch sử.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX do ảnh hưởng cuả cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam phân hóa sâu sắc. Một
số sĩ phu yêu nước đương thời đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng
theo khuynh hướng dân chủ tư sản như phong trào Đông Du của Phan Bội
Châu (1905 -1909), Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, Nguyễn
Quyền (1907), cuộc vận động Duy Tân của Phan Chu Trinh, phong trào
chống thuếTrung Kì (1908) và phong trào yêu nước trong thời kì chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914 - 1918). Tất cả đều bị thất bại chứng tỏ phong trào
cách mạng Việt Nam còn bế tắc về đường lối, khủng hoảng về lãnh đạo
cách mạng.

Nguyễn Tất Thành không tán thành con đường cứu nước của các bậc
tiền bối. Người quyết định đi ra nước ngoài, xem nước ngoài làm thế nào để
về cứu giúp đồng bào ta. Những hoạt động cứu nước của Người (1911-
1917) tuy chỉ mới bước đầu nhưng là điều kiện quan trọng để Người xác
định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
d) Lịch sử Việt Nam( lớp 9).
Theo chủ quan bản thân tôi xác định rằng: Kíên thức lịch sử Việt Nam
lớp 9 được coi là chú trọng của chương trình ôn luyện học sinh giỏi. Thông
thường hàng năm thi học sinh giỏi cấp huyện khoảng cuối tháng 2, cấp tỉnh
khoảng cuối tháng 3. Vậy tôi phân chia kiến thức lịch sử Việt Nam lớp 9 để
ôn luyện theo các giai đoạn như sau:

* Giai đoạn Việt Nam từ (1919-1930):
+ Tình hình Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp và
tác động của nó đến kinh tế xã hội Việt Nam làm cho xã hội Việt Nam bị
phân hoá sâu sắc. Bên cạnh giai cấp cũ vẫn tồn tại là địa chủ phong kiến và
nông dân thì nảy sinh các giai cấp và tầng lớp mới như tư sản, tiểu tư sản,
công nhân. Mỗi giai cấp tầng lớp xã hội có địa vị quyền lợi khác nhau nên
có thái độ chính trị khác nhau trong cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp. Đồng thời giáo viên biết nhấn mạnh giai cấp công nhân Việt Nam ra đời
trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và ngày càng phát triển về số
lượng lẫn chất lượng trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân
Pháp. Giai cấp công nhân Việt Nam cũng chịu nhiều tầng lớp áp bức bóc lột
nên cuộc sống của họ vô cùng khốn khổ. Ngoài những đặc điểm của công
nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm riêng sau:
- Bị áp bức bóc lột nặng nề nhất nên có tinh thần cách mạng nhất.
- Có quan hệ tự nhiên gắn bó với giai cấp nông dân.
- Kế thừa truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc.
- Giai cấp công nhân Việt Nam có điều kiện sớm tiếp thu chủ nghĩa

Mác- Lê Nin, tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng Tháng Mười Nga và phong
trào cách mạng thế giới.
Với những đặc điểm trên giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp
yêu nước, cách mạng. Cùng với giai cấp nông dân trở thành hai lực lượng
chính của cách mạng, trong đó giai cấp công nhân nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo
cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
+ Phong trào cách mạng Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất
(1919-1925)
- Ảnh hưởng của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và phong trào
cách mạng thế giới.
- Phong trào dân tộc-dân chủ công khai (1919-1925)
- Phong trào công nhân (1919-1925)
+ Cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và vai
trò của Người đối với việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc
thành lập Đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
- Cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc:
Vài nét về hoàn cảnh lịch sử. Quá trình tìm đường cứu nước đến
với chủ nghĩa Mác- Lê Nin.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911 người lấy tên là Ba, xin làm phụ bếp trên
tàu đô đốc La-Tu-Sơ-Trê-Lơ-Vin, rời bến cảng Nhà Rồng bắt đầu cuộc hành
trình tìm đường cứu nước.
Năm 1912 Người tiếp tục làm thuê cho một chiếc tàu khác để từ Pháp
đi Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, An Giê Ri,…
Cuối 1912 Người đi Mĩ, cuối 1913 từ Mĩ trở về Anh. Qua nhiều
năm bôn ba hải ngoại Người nhận rõ: Giai cấp công nhân và nhân dân các
nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù. Đó là cơ sở giúp
Người dễ dàng tiếp thu quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin sau này.
Năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi. Vào thời
điểm này, Nguyễn Ái Quốc rời Luân Đôn (Anh) về Pari (Pháp). Người tham

gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và tìm hiểu cách mạng tháng
Mười Nga.
Năm 1919 Người gửi đến hội nghị Véc -Xai bản yêu sách của nhân
dân An Nam kí tên Nguyễn Ái Quốc.Bản yêu sách tuy không được chấp
nhận song tên tuổi của Người đã có tiếng vang lớn trên trường quốc tế.
Tháng 7 -1920 Người đọc được sơ thảo luận cương của Lê - Nin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước và
giải phóng dân tộc. Tháng 12-1920 Người bỏ phiếu tán thành quốc tế thứ 3
và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Từ đó Người khẳng định: Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác bằng con
đường cách mạng vô sản.
Như vậy sau nhiều năm bôn ba hải ngoại, Nguyễn Ái Quốc đã tìm
ra con đường cứu nước đúng đắn đó là con đường kết hợp độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô
sản.
- Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập chính Đảng của giai cấp vô sản.
Đó là thời kì hoạt động của Người ở Pháp(1920-1923), ở Liên
Xô(1923-1924) và ở Trung Quốc(1924-1927).
Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã có tác dụng quyết định
trong việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính
Đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Đây là công lao to lớn của Người.
+ Phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm trước khi Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời.
Hướng dẫn học sinh so sánh sự ra đời, thành phần tham gia và
phương thức hoạt động của ba tổ chức cách mạng: Hội Việt Nam Cách
mang Thanh niên (tháng 6-1925), Tân Việt cách mạng Đảng( tháng 7-1928)
và Việt Nam Quốc Dân Đảng 1927. Nhấn mạnh vai trò của hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên.
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái nắm được nguyên nhân bùng nổ, diễn

biến,kết quả và nguyên nhân thất bại. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại kéo
theo sự tan rã của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đánh dấu sự phá sản hoàn
toàn của phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng tư sản.
+ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời( 3-2-1930)
- Ba tổ chức cộng sản ra đời trong năm1929.
- Hội nghị thành lập Đảng (lí do tiến hành hội nghị, thời gian, địa
điểm, nội dung của hội nghị thành lập Đảng), vai trò công lao to lớn của
Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng.
- Luận cương chính trị (10-1930)
- Ý nghĩa cuả sự thành lập Đảng( làm sáng tỏ sự ra đời của Đảng
cộng sản Việt Nam là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
* Giai đoạn Việt Nam từ (1930-1945).

×