Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Tư tưởng giáo dục của phan bội châu và ý nghĩa lịch sử của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 181 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
  

PHẠM THỊ THANH TUYỀN

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC
CỦA PHAN BỘI CHÂU
VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
  

PHẠM THỊ THANH TUYỀN

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC
CỦA PHAN BỘI CHÂU
VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60220301

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


PGS,TS: TRỊNH DỖN CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi, chưa được ai
công bố, dưới sự hướng dẫn của PGS,TS. Trịnh Dỗn Chính. Tư liệu trong
luận văn là hoàn toàn trung thực.
Tác giả

PHẠM THỊ THANH TUYỀN


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 11
Chƣơng 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA PHAN BỘI CHÂU .................... 11
1.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TƢ
TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA PHAN BỘI CHÂU ......................................... 11
1.1.1. Điều kiện lịch sử xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX với sự hình thành tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu................... 11
1.1.2. Khái quát những nhiệm vụ và yêu cầu thực tiễn xã hội Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với việc hình thành tư tưởng giáo dục của Phan
Bội Châu .......................................................................................................... 32
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG
GIÁO DỤC CỦA PHAN BỘI CHÂU ......................................................... 44

1.2.1. Quan điểm giáo dục truyền thống của dân tộc Việt Nam với việc hình
thành tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu................................................... 44
1.2.2. Quan điểm giáo dục của phương Đông - phương Tây với việc hình
thành tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu................................................... 51
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 69
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ TRONG TƢ TƢỞNG
GIÁO DỤC CỦA PHAN BỘI CHÂU ......................................................... 71
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG GIÁO
DỤC CỦA PHAN BỘI CHÂU ..................................................................... 71
2.1.1. Thời kỳ ảnh hưởng của tư tưởng quân chủ trong tư tưởng Phan Bội
Châu về giáo dục (trước năm 1911) ................................................................ 71


2.1.2. Thời kỳ chuyển từ tư tưởng quân chủ sang tư tưởng dân chủ tư sản (từ
năm 1911 đến khoảng năm 1924) ................................................................... 87
2.1.3. Thời kỳ tư tưởng của Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga (từ năm 1924 đến khi qua đời
năm 1940) ........................................................................................................ 98
2.2. NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA
PHAN BỘI CHÂU ...................................................................................... 105
2.2.1. Tư tưởng của Phan Bội Châu về mục đích, đối tượng giáo dục ......... 106
2.2.2. Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội dung, phương pháp giáo dục .... 113
2.3. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ TRONG TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA PHAN
BỘI CHÂU VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................... 143
2.3.1. Giá trị trong tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu ............................ 143
2.3.2. Hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu ......................... 150
2.3.3. Ý nghĩa lịch sử trong tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu đối với sự
nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay ............................. 154
Kết luận chƣơng 2 ....................................................................................... 160

PHẦN KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................... 162
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 167


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của lịch sử xã hội cùng với các lĩnh vực như kinh tế,
chính trị, văn hóa… thì giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trị hết sức quan trọng
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã
đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nhờ sớm coi trọng vai
trò của giáo dục và đào tạo. Điều đó được biểu hiện ở hàng loạt các quốc gia
như: Nga, Anh, Mĩ, Đức, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Tiêu biểu nhất ở châu Á có thể kể đến Nhật Bản đến giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản
vẫn là một là nông nghiệp với mối quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, đói
nghèo, loạn lạc triền miên. Với tư duy mới, để cải cách tồn diện chính trị, xã
hội, giáo dục,… năm 1886, Thiên Hồng Minh Trị đã áp dụng chính sách “hiện
đại hóa” chế độ giáo dục như hồn thiện hệ thống giáo dục mới, gửi sinh viên,
học giả đi du học, mời chuyên viên, những nhà thông thái ngoại quốc đến giảng
dạy, phiên dịch tài liệu, sách báo thành tiếng Nhật… và chính sự thành cơng của
việc cải cách thần kỳ này đã tạo tiền đề to lớn để cải cách xã hội Nhật Bản từ
một nước nông nghiệp, lạc hậu về kỹ thuật thành một nước có nền cơng nghiệp
phát triển rực rỡ trở thành cường quốc đầu tiên ở châu Á sánh được với các quốc
gia châu Âu vào những năm cuối thế kỷ XIX.
Ở Việt Nam vai trò giáo dục cũng được đánh giá hết sức quan trọng. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ: “Non sơng Việt Nam có
trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh
vai cùng các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn
ở cơng học tập của các em” [106, tr. 33]. Lời dạy của Người chứa đựng toàn bộ

giá trị chân lý của thời đại. Để không bị tụt hậu, để xây dựng và phát triển thành
công một đất nước độc lập, tự do theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì rất cần
phải nhận thức rõ hơn nữa vị trí và vai trò của giáo dục và đào tạo. Ngày nay,
trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ln quan tâm đến giáo dục và đào tạo.


2

Đổi mới giáo dục là đường lối xuyên suốt của Đảng. Tại Hội nghị lần thứ tám
Ban chấp hành trung ương khóa XI Đảng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu, một nhân tố quyết định để thực hiện thành công sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong
các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chuyển mạnh quá trình
giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất người học. Thực hiện mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài với các nguyên lý giáo dục: Học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, kinh doanh, lý luận gắn với
thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”
[46, tr. 98 - 99]. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng như: “Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và
đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị
giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học
sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.
Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lí.
Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà
nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngồi
cơng lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của tồn xã
hội. Cơng tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định. Cả

nước đã hồn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm
2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; đang tiến tới phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho
người lớn”[46, tr. 116]. Theo báo cáo tổng kết năm học 2013-2014 của Bộ giáo
dục và đào tạo: “Cả nước hiện có khoảng 21,61 triệu học sinh, sinh viên ; gần
1,2 triệu giáo viên, giảng viên. Hệ thống mạng lưới các cơ sở giáo dục các cấp
học, bậc học được phân bố rộng trên phạm vi cả nước. Toàn quốc có 13.867
trường mầm non (tăng 319 trường); 15.337 trường tiểu học (giảm 24 trường);


3

10.882 trường trung học cơ sở, phổ thông cơ sở (tăng 35 trường); 2.758 trường
trung học phổ thông (tăng 50 trường); 242 trường phổ thông dân tộc nội trú và
687 trường phổ thông dân tộc bán trú. Năm học qua, cả nước có thêm 658
trường mầm non, 449 trường tiểu học, 416 trường THCS, 98 trường THPT được
công nhận đạt chuẩn quốc gia”[11, tr. 3]. Với sự nổ lực của toàn ngành, năm học
2013 - 2014, ngành giáo dục cả nước nâng cao được chất lượng giáo dục và đào
tạo như “tỷ lệ người biết chữ độ tuổi từ 15 - 60 là 98,25%, trong đó: Số người
biết chữ trong độ tuổi 15 - 35 chiếm tỷ lệ 99,12% (tăng 0,08%); số người biết
chữ trong độ tuổi từ 36 - 60 chiếm tỷ lệ 97,34% (tăng 0,22%) so với năm học
2012 - 2013”[11, tr. 10]. “Tỷ lệ tốt nghiệp của hệ Trung học phổ thông là
99,02% (tăng 0,05% so với năm 2012 - 2013), trong đó đỗ loại khá, giỏi đạt
23,33% (tăng 5,48%)” [11, tr. 8]. Bên cạnh đó, các công tác giáo dục đạo đức,
lối sống, kỹ năng sống, phương pháp học tập sáng tạo cho học sinh được quan
tâm hơn. Cơng tác giáo dục thể chất, chăm sóc sức khỏe học sinh, phòng chống
dịch bệnh, chống suy dinh dưỡng cho trẻ, bảo vệ mơi trường, phịng chống tội
phạm, bạo lực, tệ nạn xã hội trong học sinh, xây dựng trường học an tồn, phịng
tránh tai nạn thương tích; cơng tác giáo dục an tồn giao thơng trong trường học
tiếp tục được tăng cường theo chỉ đạo của Chính phủ; công tác giáo dục sử dụng

năng lượng, tiết kiệm, phịng ngừa ứng phó thảm họa, thiên tai, giáo dục tích
hợp về tài ngun, mơi trường và biển đảo được chú trọng. Hiện nay, Bộ giáo
dục và đào tạo chỉ đạo các Sở giáo dục và đào tạo giao quyền cho nhà trường và
giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tinh giảm nội dung
dạy học, xây dựng các chủ đề dạy học tích hợp, liên môn; tạo điều kiện thuận lợi
cho việc áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tích cực phù
hợp với đối tượng và điều kiện dạy học nhằm phát triển năng lực và phẩm chất
của học sinh; tăng cường các hoạt động giáo dục giúp học sinh vận dụng kiến
thức liên môn vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; tiếp tục đổi mới nội dung và
hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Việc đổi mới thi,
công nhận tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2014 theo hướng giảm áp lực và
tốn kém cho xã hội, đảm bảo độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học


4

sinh, làm cơ sở tuyển sinh cho giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học đã
nhận được sự đồng thuận cao của xã hội, tạo ra sự thay đổi có tính chất bước
ngoặt về chất trong đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy của giáo viên và
tư duy quản lý giáo dục.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành giáo dục nước ta vẫn còn một
số những tồn tại, hạn chế như chất lượng giáo dục tuy đã có những chuyển biến
tích cực nhưng nhìn chung vẫn chưa vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục,
còn hạn chế về giáo dục văn hóa và lịch sử dân tộc, đạo đức và lối sống, kỹ năng
sống cho học sinh. Cơ sở vật chất, thiết bị trường học vẫn còn thiếu thốn, lạc
hậu; ở nhiều nơi việc mua sắm bổ sung thiết bị chưa quan tâm đến khả năng và
hiểu quả sử dụng, gây tốn kém, lãng phí. Tiến độ xây dựng trường đạt chuẩn
quốc gia chậm. Ngành giáo dục vẫn chưa khắc phục một số tiêu cực, yếu kém
trong giáo dục như dạy thêm học thêm tràn lan, thu góp trái quy định, dạy trước
lớp 1 cho trẻ mẫu giáo, q nhiều sổ sách chun mơn gây khó cho giáo viên,

thiếu quan tâm giáo dục ý thức tự quản, lao động vệ sinh tự phục vụ trong nhà
trường. Công tác quản lý giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học ở cấp tỉnh
chưa thực hiện hiệu quả những công việc được phân cấp cho địa phương, năng
lực đội ngũ cịn nhiều hạn chế.
Từ đó, Bộ giáo dục đã đề ra một số giải pháp để tổ chức hoạt động giáo
dục có hiệu quả như:
“- Tiếp tục triển khai mở rộng mơ hình trường học mới Việt Nam (VNEN)
cấp tiểu học, triển khai thí điểm mơ hình trường học mới Việt Nam cấp THCS.
Áp dụng dạy học tiếng Việt lớp 1 theo tài liệu Công nghệ giáo dục theo các mức
độ khác nhau phù hợp với điều kiện của địa phương.
- Tiếp tục triển khai đổi mới phương pháp dạy và học gắn với đổi mới hình
thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá
năng lực người học, kết hợp đánh giá trong quá trình với đánh giá cuối kỳ.
- Phát động sâu rộng, nâng cao hiệu quả cuộc thi khoa học kỹ thuật dành
cho học sinh trung học, tăng cường công tác tư vấn hướng nghiệp và định hướng
nghề nghiệp trong các trường trung học phổ thông; tăng cường công tác giáo


5

dục đạo đức, lối sống, giá trị sống và kĩ năng sống, giáo dục thể chất, chăm sóc
sức khỏe học sinh.
- Củng cố mơ hình hoạt động của trung tâm cộng đồng, đa dạng hóa
phương thức học tập đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết và tạo cơ hội học tập
suốt đời cho dân và xây dựng xã hội học tập.
- Tập trung chỉ đạo quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
đáp ứng nhu cầu nhân lực của địa phương và khu vực. Các trường trung cấp
chuyên nghiệp thực hiện nghiêm túc quy chế đào tạo, mở ngành đào tạo, liên kết
đào tạo, đổi mới việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh; đổi mới chương trình đào tạo,
phương pháp đào tạo và đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực

người học nâng cao hiệu quả đào tạo” [11, tr. 16].
Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, yêu cầu phát triển giáo dục,
Đảng đã khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp úng
yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” [46, tr. 147 - 148]. Để hoàn thành
nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục cùng với việc phát triển kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước “công bằng, dân chủ, văn
minh” thì địi hỏi chúng ta phải cải cách giáo dục thật hiệu quả, một mặt phải kế
thừa những kinh nghiệm giáo dục của dân tộc và biết học hỏi, phát huy những
tinh hoa giáo dục tiên tiến của thời đại.
Lịch sử giải phóng dân tộc Việt Nam 25 năm đầu thế kỉ XX gắn liền với
tên tuổi Phan Bội Châu, nhà yêu nước chân chính, nhà thơ, nhà văn hóa nổi
tiếng nhất được nhân dân cả nước kính mến, biết ơn. Phan Bội Châu được đánh
giá là một “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con
người trong vịng nơ lệ tôn sùng”[13, p. XLIII]. “Là một nhà nho uyên bác, một
nhà hoạt động chính trị khơng mệt mỏi, Phan Bội Châu có ý chí và có điều kiện
đọc nhiều tân thư, tân văn hơn mọi người đương thời. Cụ lại ở vị trí cho phép
tiếp xúc rộng rãi với nhiều nhân vật nổi tiếng, nhiều chính khách đặc sắc miền
Đơng Á, cho nên kiến thức càng nhiều, trí tuệ càng mài sắc trên cơ sở tư tưởng
yêu nước vốn có” [13, p. XCVIII]. Chính hoạt động cứu nước giải phóng dân


6

tộc, cùng với tài năng và sự nhạy bén của mình và nhiều năm gắn bó với nghề
dạy học nên Phan Bội Châu rất quan tâm đến giáo dục và có những nhận thức
khá mới mẻ và tích cực về vấn đề giáo dục. Ông là người đã sớm ý thức được
rằng nâng cao dân trí, đào tạo, vun đắp nhân tài là một trong những nhiệm vụ
cần kíp của sự nghiệp cứu quốc. Sự tồn vong và hưng thịnh đất nước phụ thuộc
vào sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Tư tưởng đó đến
nay vẫn cịn ngun giá trị của nó. Nếu bỏ qua những hạn chế của ơng, thì

những tư tưởng của ông về mục đích giáo dục, đối tượng, nội dung, phương
pháp giáo dục là những bài học vô cùng quý giá. Do vậy, nghiên cứu “Tư tưởng
giáo dục của Phan Bội Châu và ý nghĩa lịch sử của nó” có ý nghĩa thiết thực
góp phần vào việc đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Phan Bội Châu nói chung và tư tưởng của ơng về giáo dục nói
riêng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trên nhiều mặt.
Có thể khái qt các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng của Phan Bội Châu theo
các hướng sau:
- Hướng thứ nhất, đó là các cơng trình nghiên cứu về điều kiện, tiền đề
hình thành, phát triển tư tưởng Phan Bội Châu nói chung và tư tưởng giáo dục
của Phan Bội Châu nói riêng như tác phẩm “Phan Bội Châu”, Hồi Thanh,
Nxb. Văn hóa Hà Nội, 1978. Nội dung của cuốn sách này được tác giả kết cấu
thành 5 phần thể hiện năm giai đoạn trong quá trình hình thành và phát triển của
tư tưởng Phan Bội Châu (đó là: Trước khi ra nước ngồi; Những năm đầu ở
nước ngồi; Phong trào Đơng du tan rã và thời gian ở Bạn Thầm; Hội Việt
Nam quang phục và thời gian bị cầm tù ở Quảng Châu; Những năm cuối ở nước
ngoài; Từ sau khi bắt về nước). Tác phẩm “Đại cương lịch sử Việt Nam”, (Toàn
tập, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2003), của GS. Trương Hữu Quýnh, GS.
Đinh Xuân Lâm, PGS. Lê Mậu Hãn (chủ biên). Trong tác phẩm này, các tác giả
đã nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống về đời sống xã hội như: kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng… của giai đoạn từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ
XX tác động ảnh hưởng đến các nhà tư tưởng và các phong trào yêu nước trong


7

đó có Phan Bội Châu. Cùng tập trung nghiên cứu tình hình tư tưởng thời kỳ này,
cịn có cơng trình nghiên cứu “Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, do

PGS.TS.Trương Văn Chung, PGS.TS. Doãn Chính (đồng chủ biên) và đề tài
“Tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX qua một số chân dung tiêu
biểu” do PGS.TS.Vũ Văn Gầu làm chủ nhiệm đề tài. Với chủ đề này cũng có
các cơng trình tiêu biểu như: “Phong trào Đơng Du và Phan Bội Châu”, Nxb.
Nghệ An, 2005. Đây là cơng trình của Trung tâm văn hóa ngơn ngữ Đơng Tây
nhằm kỷ niệm 100 năm phong trào Đông Du. Qua tác phẩm này các tác giả đều
khẳng định phong trào Đông Du và nhà yêu nước, nhà cách mạng, nhà tư tưởng
Phan Bội Châu có một vị trí và ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử dân tộc đầu
thế kỷ XX. Ngồi các cơng trình nghiên cứu trên, nội dung tư tưởng cơ bản của
các nhà tư tưởng tiêu biểu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cũng được các nhà
khoa học nghiên cứu và công bố trên các tạp chí chun ngành như: “Q trình
tiếp thu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười của Phan Bội Châu”, Tạp chí
Triết học, số 4 (19), 1977; “Tìm hiểu một số quan điểm chi phối tư duy các nhà
cải cách Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí Triết học, số 1, 1995; “Nhân
tố quyết định tới sự xuất hiện tư tưởng cải cách ở Việt Nam thế kỷ XIX”, Tạp chí
Triết học, số 4, 1999; “Về ảnh hưởng của tư tưởng canh tân nửa cuối thế kỷ XIX
đối với vua quan triều Nguyễn và tầng lớp sĩ phu đương thời”, Tạp chí Triết
học, số 3, 2000; “Mấy suy nghĩ tìm hiểu thêm về lý do thất bại của việc thực
hiện tư tưởng canh tân dưới triều Nguyễn”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm
Huế, số 3, 1994…
- Hướng thứ hai, đó là các cơng trình nghiên cứu nội dung tư tưởng của
Phan Bội Châu nói chung cũng như tư tưởng giáo dục Phan Bội Châu nói riêng
như tác phẩm “Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu”, Nguyễn
Văn Hịa, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà nội, 2006. Đây là cơng trình có nội dung
phong phú trên khía cạnh tư tưởng triết học và tư tưởng chính trị của Phan Bội
Châu. Nội dung tác phẩm với 179 trang viết được tác giả phân thành 3 chương,
9 tiết, chương 1 với tiêu đề Điều kiện hình thành và phát triển tư tưởng triết học


8


và chính trị của Phan Bội Châu, chương 2 với tiêu đề Tư tưởng triết học của
Phan Bội Châu, còn trong chương 3 với tiêu đề Tư tưởng chính trị của Phan Bội
Châu trong chương này tác giả của cuốn sách đã nghiên cứu ba vấn đề: một là,
vấn đề con đường cứu nước trong tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu, hai là,
tư tưởng của Phan Bội Châu về con người, ba là, tư tưởng giáo dục và đào tạo
con người của Phan Bội Châu. Trong luận văn thạc sỹ triết học với tiêu đề “Tư
tưởng Phan Bội Châu từ năm 1925 trở về trước (qua Bội Châu toàn tập)” của
Lã Thị Thái, tác giả đã bước đầu đi sâu trình bày và phân tích quan điểm triết
học của Phan Bội Châu, chỉ ra mối quan hệ giữa quan điểm triết học và quan
điểm chính trị xã hội của ông. Tiếp đến, phải kể đến cuốn “Tư tưởng Phan Bội
Châu về con người” của PGS.TS. Dỗn Chính và TS Cao Xuân Long có phần
đã nghiên cứu tương đối sâu về tư tưởng của Phan Bội Châu về giáo dục qua các
nội dung như mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục; hay Luận văn thạc
sĩ “Tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu” của Lại Văn Nam, trường Đại học
khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 2006; trong luận văn tác
giả đã trình bày nội dung tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu, đặt tư tưởng ấy
trong tiến trình chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX, qua đó tác giả đã rút ra một số bài học đối với quá trình thực hiện
dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay. Ngồi các cơng trình trên, nghiên cứu về
nội dung tư tưởng của Phan Bội Châu cịn có các cơng trình khác được cơng bố
trên các tạp chí chun ngành như: “Nguồn gốc của chủ nghĩa yêu nước”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 88, 1966; “Cụ Phan Bội Châu sinh năm nào?”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 97,1967; “Tình hình nghiên cứu Phan Bội Châu từ
trước tới nay”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 106, 1967; “Tìm hiểu thêm tư
tưởng bạo động của Phan Bội Châu”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, 1978;
“Chủ trương xây dựng kinh tế của Phan Bội Châu trong cuộc vận động cách
mạng đầu thế kỷ”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, 1978; “Tư tưởng của Phan
Bội Châu về giáo dục”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 (128), 2009; “Tìm hiểu tư
tưởng Khổng giáo của Phan Bội Châu qua “Khổng Đăng học”” Tạp chí Triết

học, số 6, 1999…


9

- Hướng thứ ba, đó là các cơng trình nghiên cứu đánh giá giá trị, hạn chế,
ý nghĩa lịch sử của tư tưởng Phan Bội Châu nói chung và đặc biệt là tư tưởng về
giáo dục của ông như tác phẩm “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ
XIX đến Cách mạng Tháng tám, tập 1, 2, 3, Trần Văn Giàu, Nxb.Thành phố Hồ
Chí Minh, 1993; Tác phẩm “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam”, Trần Văn Giàu, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, 1993; Tác phẩm “Cuộc
đời Phan Bội Châu”, Lê Đình Hà, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2000; Tác phẩm
“Phan Bội Châu nhà yêu nước - nhà văn hóa lớn”, Chương Thâu, Nxb. Nghệ
An, 2005; tác giả đã làm rõ những bước chuyển, những đặc điểm và ưu điểm
cũng như những hạn chế trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của
Phan Bội Châu; Tác phẩm “Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỉ XX một cách tiếp cận mới, Đỗ Thanh Bình, Nxb.Đại học sư phạm, Hà Nội, 2006;
Tác phẩm “Tư tưởng Phan Bội Châu qua tác phẩm “Xã hội chủ nghĩa” , Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Phan Bội Châu đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chưa có cơng trình
mang tính chun biệt và tập trung nghiên cứu làm rõ tư tưởng giáo dục của
Phan Bội Châu và ý nghĩa lịch sử của nó.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Đề tài luận văn nhằm làm rõ nội dung trong tư tưởng giáo dục của Phan
Bội Châu, trên cơ sở đó đánh giá những giá trị, hạn chế và rút ra những ý nghĩa
lịch sử của nó đối với sự nghiệp phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài cần thực hiện bao gồm
Một là, trình bày, phân tích những điều kiện hình thành, phát triển tư

tưởng giáo dục của Phan Bội Châu.
Hai là, trình bày, phân tích q trình hình thành, phát triển và những nội
dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu .


10

Ba là, thơng qua những nội dung đó đánh giá những giá trị, hạn chế và rút
ra ý nghĩa lịch sử trong tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Trong luận văn, này tác giả không nghiên cứu tư tưởng Phan Bội Châu nói
chung mà chỉ tập trung nghiên cứu nội dung và đặc điểm cơ bản trong tư tưởng
giáo dục của ơng dựa trên Phan Bội Châu tồn tập, Nxb Thuận Hóa, Huế - 2000.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lí luận của đề tài
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài, tác giả dựa trên cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu tư tưởng
giáo dục của Phan Bội Châu .
4.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn, tác giả sử dụng tổng
hợp các phương pháp cụ thể như: hệ thống cấu trúc, lịch sử và logic, phân tích
và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch và cách tiếp cận của đề tài là cách tiếp cận
dưới góc độ triết học lịch sử và triết học văn hóa.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần hệ thống hóa và làm rõ q
trình hình thành, phát triển và những nội dung cơ bản tư tưởng giáo dục của Phan
Bội Châu về mục đích, đối tượng, nội dung và phương pháp giáo dục trên cơ sở đó
luận văn đã rút ra ý nghĩa lịch sử trong tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Những giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử trong tư tưởng giáo dục của
Phan Bội Châu mà luận văn rút ra sẽ là bài học bổ ích góp phần vào sự nghiệp
đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo
cho những ai quan tâm về vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


11

Chƣơng 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA PHAN BỘI CHÂU
1.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TƯ
TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA PHAN BỘI CHÂU
1.1.1. Điều kiện lịch sử xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX với sự hình thành tƣ tƣởng giáo dục của Phan Bội Châu
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tồn tại xã hội và ý thức xã
hội có mối quan hệ tác động biện chứng với nhau; trong đó tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội. Ngược lại, ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối, nó tác
động trở lại tồn tại xã hội. Do vậy, mọi tính chất, nội dung, khuynh hướng của ý
thức xã hội, suy đến cùng, đều chịu sự tác động và chi phối của tồn tại xã hội.
Là một trong những hình thái ý thức xã hội, tư tưởng triết học luôn luôn
phản ánh và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Đúng như C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nói: “Chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự
giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả
tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Khơng phải ý thức quyết định đời sống
mà chính đời sống quyết định ý thức” [95, tr. 38]. Sự hình thành và phát triển tư
tưởng giáo dục của Phan Bội Châu cũng khơng nằm ngồi tính tất yếu đó. Một

mặt, tư tưởng giáo dục của ông bị chi phối bởi đặc điểm, nhu cầu xã hội Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX; mặt khác, nó là sự kế thừa những tiền đề
tư tưởng giáo dục trước đó, cùng với sự phản ánh, chắt lọc những tinh hoa giá trị
văn hóa, giáo dục của dân tộc. Vì thế, nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Phan
Bội Châu chúng ta khơng thể khơng tìm hiểu đặc điểm hồn cảnh lịch sử và điều
kiện kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa, cũng như những tiền đề lý luận hình
thành tư tưởng giáo dục của ơng.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu hình thành và phát triển,
là sự phản ánh và bị chi phối bởi điều kiện lịch sử xã hội thế giới và Việt Nam
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.


12

Đối với thế giới, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản
phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, để mở rộng thị trường chủ nghĩa tư
bản tiến hành xâm lược các dân tộc phương Đơng. Do đó tạo nên sự tác động
trực tiếp đến tình hình thế giới và đời sống xã hội Việt Nam.
Ở phương Tây, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chủ nghĩa tư bản
phát triển mạnh mẽ, sức sản xuất xã hội phát triển vượt bậc, cơ cấu giai cấp - xã
hội thay đổi và chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn chủ nghĩa tự do sang đế
quốc đã làm cho xã hội tư bản biến đổi trên các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa, khoa học. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới và ảnh
hưởng đến xã hội Việt Nam.
Về kinh tế, chủ nghĩa tư bản tạo ra lực lượng sản xuất lớn, làm cho diện
mạo của đời sống xã hội thay đổi. Việc sử dụng lò Bétxơme và lò Máctanh đánh
dấu bước ngoặt trong ngành luyện kim, đưa sản lượng thép tăng từ 250 nghìn
năm 1870 tăng 28,3 triệu tấn năm 1900. Nhờ đó, thép được sử dụng rộng rãi
trong sản xuất như chế tạo máy bay, đường ray, tàu biển, các cơng trình xây
dựng... Việc tải điện đi xa đã làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới như điện

hóa học, điện luyện kim, hàn điện, xe điện... Cơng nghiệp hóa học mới ra đời,
phát triển rất nhanh, phục vụ cho ngành nhuộm, phân bón, thuốc nổ. Tổng sản
lượng công nghiệp tăng lên rõ rệt, thường gấp 1.5 - 3 lần. Cùng với công nghiệp,
ngành giao thơng vận tải tiến bộ nhanh chóng, chiều dài đường sắt toàn thế giới
tăng lên 4 lần. Các phương tiện liên lạc như điện báo ngày càng được hoàn
thiện, đặc biệt là sự sáng chế rađiô và phát triển thành ngành liên lạc vô tuyến
điện. Những tiến bộ kĩ thuật trên đã thúc đẩy nền sản xuất phát triển nhanh
chóng, đánh dấu một bước tiến mới cực kì quan trọng. Vì vậy, C.Mác và
Ph.Ăngghen đánh giá: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa
đầy một thế kỷ, đã tạo nên những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” [97, tr. 603]. Sự phát triển
nhanh chóng của sản suất cơng nghiệp đã làm thay đổi vai trò và tỉ trọng sản
phẩm của mỗi nước trong nền kinh tế thế giới dẫn đến sự phát triển không đồng
đều, nhịp độ công nghiệp nặng tiến triển rất nhanh so với công nghiệp nhẹ, nông


13

nghiệp lại càng lạc hậu so với cơng nghiệp. Tình trạng không cân đối giữa các
ngành sản xuất, giữa khả năng cung cấp và tiêu thụ (sức mua quá ít vì quần
chúng bị bóc lột nặng nề), hiện tượng sản xuất vơ chính phủ càng đào sâu mâu
thuẩn cơ bản của kinh tế tư bản chủ nghĩa, dẫn tới những cuộc khủng hoảng liên
tiếp vào những năm 1873 - 1879, 1882 - 1886, 1890 và 1900 - 1903. Trong đó
cuộc khủng hoảng 1900 - 1903 có tác động mạnh mẽ đến việc xác lập quyền
thống trị của các tổ chức lũng đoạn ở các nước tư bản chủ nghĩa. Cuộc khủng
hoảng ấy là cơ sở dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất. Vì vậy, nhằm mở rộng
thị trường để thu lợi nhuận, các nước tư bản đã tiến hành xâm lược và áp dụng
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào các dân tộc phương Đơng. Do đó,
làm biến đổi sâu sắc các mặt của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội... của các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam, Phan Bội Châu viết:

“Cách khơng bao lâu, bỗng dưng có những tiếng súng nổ ở Lữ Thuận Liêu
Đông, lướt theo sóng gió vang đội tới đây làm cho rung động chói chát lỗ tai
anh em chúng tơi” [18, tr. 26].
Về chính trị, giai cấp tư sản thực hiện cuộc cách mạng xã hội lật đổ chế độ
phong kiến, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ tư sản,
tạo nên bước chuyển từ chế độ quân chủ sang dân chủ; từ quân quyền sang pháp
quyền. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng
của giai cấp cơng nhân, đặc biệt ở các nước Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nga. Đội ngũ
công nhân ở các nước này tăng lên đến hàng triệu người, trở thành lực lượng xã
hội rất quan trọng, đại diện cho lực lượng sản xuất mới. Trong xã hội tư bản chủ
nghĩa, mâu thuẫn cơ bản nhất là giữa tư sản và vô sản, sự thống trị, bóc lột của
giai cấp tư sản đã tạo nên phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản. Ở Pháp, cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản Pháp được Ph.Ănghen
nhận định trong Lời nói đầu quyển 18 tháng sương mù của Lui Bônapacơ:
“Nước Pháp hơn nước nào khác nơi mà những cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch
sử bao giờ cũng được đẩy tới mức kết thúc có tính quyết định… là nơi các hình
thức chính trị ln biến đổi, - trong đó cuộc đấu tranh giai cấp ấy vận động và
trong đó biểu hiện kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp ấy, - đã mang những hình


14

thù rõ rệt nhất. Là trung tâm của chế độ phong kiến thời trung cổ, là xứ sở kiểu
mẫu của nền qn chủ thống nhất có tính chất đẳng cấp từ thời Phục hưng...
trong cuộc Đại cách mạng, nước Pháp đã đập tan chế độ phong kiến và thiết lập
một nền thống trị thuần túy của giai cấp tư sản với một sự rõ ràng cổ điển mà
không một nước nào khác ở châu Âu đạt được. Và cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản đã đứng lên chống giai cấp tư sản thống trị ở đây cũng mang một hình
thức gay gắt chưa từng thấy ở một nước nào khác” [98, tr. 373]. Sau thất bại của
Công xã Pari (năm 1871), phong trào công nhân tiếp tục được củng cố, bắt đầu

thời kỳ tập hợp lực lượng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới chống chủ nghĩa tư
bản. Dưới sự phát triển ngày càng sâu rộng của chủ nghĩa Mác, phong trào công
nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhiều tổ chức đảng vô sản, đảng xã hội
theo xu hướng tiến bộ cách mạng của giai cấp công nhân xuất hiện tại Đức,
Pháp, Mỹ, Anh. Trước tình hình đó, những người mácxít đã triệu tập một cuộc
họp thành lập Quốc tế II tại Pari (năm 1889) dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Ph.Ăngghen nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào công nhân chống lại chủ
nghĩa tư bản. Sau này, khi Ph.Ăngghen mất (năm 1895) Quốc tế II bị các phần
tử cơ hội lũng đoạn và mất vai trò lịch sử, đến năm 1919, V.I.Lênin đã thành lập
Quốc tế III, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tiếp tục được củng cố
và phát triển. Cho nên, nền dân chủ tư sản cũng như phong trào cách mạng vô
sản ở các nước tư bản đã ảnh hưởng rất lớn đến các nước phong kiến, đặc biệt là
làm cho tư tưởng chính trị chuyển hướng sang dân chủ tư sản.
Cùng với những phát triển kinh tế - chính trị, những phát minh khoa học và
kỹ thuật ở giai đoạn này có nhiều bước tiến vượt bậc. Trong lĩnh vực sinh học
khơng chỉ dừng lại ở học thuyết tiến hóa của Đácuyn mà khoa học về sinh học
còn tiến xa hơn bởi môn di truyền học Menđen (Gregor Mendel). Ngành y học
có nhiều phát hiện quan trọng về vắc xin của Paxtơ (Louis Paster). Ngành hóa
học Menđêlêép (Dmitri Ivanovitch Mendeleiev) đã thiết lập Bảng tuần hồn các
ngun tố hóa học. Nhà vật lý Farađây (Michael Faraday - Anh) nêu lên nguyên
lí về cảm ứng điện từ. Anhxtanh (Albert Einstein) với học thuyết tương đối của
mình đã đánh dấu bước chuyển quan trọng trong ngành vật lý học. Có thể nói


15

rằng, hầu hết các phát minh lớn về vật lí học của thế kỉ XX đều có liên quan đến
tên tuổi của Anhxtanh, từ năng lượng nguyên tử đến lade, bán dẫn. Trên lĩnh
vực kĩ thuật, nét nổi bật ở thời kỳ này là những phát minh về điện như: phát
minh của Moocxơ (Samul Morse) về điện báo, Êđixơn (Thomas Edison) về

bóng đèn và xây dựng nhà máy điện, tiếp theo là những phát minh về điện thoại,
điện ảnh, vô tuyến truyền thanh và phát hiện tia Rơnghen... Chính sự phát triển
khoa học kĩ thuật đã tạo điều kiện cho con người nhận thức về thế giới xung
quanh, hiểu biết tự nhiên, xã hội sâu sắc hơn. Và nhờ đó, mặt tư tưởng được
củng cố thêm về thế giới quan duy vật, tạo điều kiện cho việc tiếp thu các trào
lưu tư tưởng tiến bộ.
Đặc biệt vào đầu thế kỷ XX, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
(năm 1917), phong trào giải phóng dân tộc đã chuyển sang con đường cách
mạng mới - cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng triệt để
nhất, đã giải quyết mâu thuẫn giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa đế quốc, mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản, nhân dân lao động với giai cấp tư sản, địa chủ. Giai
cấp vô sản trở thành giai cấp lãnh đạo với chính đảng là Đảng Cộng sản, lực
lượng cách mạng là công nhân và nông dân. Thắng lợi của cách mạng vơ sản đã
chứng tỏ, chỉ có giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ vô sản, sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, với lực lượng cách mạng là liên minh giai cấp trong đó lấy liên
minh cơng - nơng - trí làm nền tảng thì mới thành cơng. Chịu sự ảnh hưởng của
Cách mạng Tháng Mười Nga, trong tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Nguyễn An Ninh bắt đầu xuất hiện khuynh hướng chuyển sang
cách mạng vô sản. Phan Bội Châu đã viết bài ca ngợi V.I.Lênin và Cách mạng
Tháng Mười Nga như sau: “Bản thân Lênin, nhà chiến lược cách mạng đã thu
phục được nhân tâm và lấy được cả thiên hạ lập ra Nhà nước Lao nơng, mà
đường lối chính trị của Nhà nước Lao nông là tạo ra một thế giới chưa từng có ở
trên lịch sử của quá khứ...” [17, tr. 322].
Cùng với sự phát triển rực rỡ về mọi mặt ở các nước phương Tây, phong
trào canh tân đất nước ở phương Đông đặc biệt là ở Trung Quốc, Nhật Bản cũng
đã có sự tác động hết sức mạnh mẽ đối với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội


16


Việt Nam từ đó góp phần sự hình thành, phát triển tư tưởng giáo dục của Phan
Bội Châu.
Nhật Bản với những chính sách duy tân phù hợp đã thúc đẩy sự phát triển
rất mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Trước áp lực trong nước cũng như sức ép của
chủ nghĩa đế quốc, chế độ mạc Phủ đã tan rã. Mutsuhitô đã lên ngơi năm 1886 khi cịn rất trẻ, lấy niên hiệu Thiên hồng Minh Trị (Mêiji). Để có thể nâng cao
trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu tiếp thu kĩ thuật và phát triển xã hội, Minh Trị
chú ý tới cải cách giáo dục và thi hành chế độ cưỡng bức giáo dục. Thiên hoàng
Minh Trị đã cho phát triển giáo dục, khuyến khích học tập trong nước, mời các
nhà khoa học nước ngoài về dạy, gửi người đi nước ngoài tiếp thu các tri thức
mới để xây dựng đất nước. Chính quyền Minh Trị đã xác định học tập phương
Tây về mọi mặt, về kinh tế, kĩ thuật và tư tưởng văn hóa. Fukuzawa Yukichi
(1835 - 1901) trong tác phẩm Khuyến học xuất bản năm 1872 - 1876, ơng khẳng
định con người sinh ra phải được bình đẳng, sự khác biệt là do học vấn và trình
độ khác nhau. Ông chống việc học chỉ thuộc dẫn kinh viện một cách vơ ích, mà
nhấn mạnh việc học phải suy nghĩ, phải có mục đích vì tiến bộ của đất nước.
Ơng cho rằng học tập nước ngồi là nhằm mục đích đuổi kịp phương Tây.
Trong cuốn sách văn minh khái luận viết năm 1875, ông tuyên bố quan điểm
của mình: “Để bảo vệ độc lập của Nhật Bản, khơng cịn cách nào ngồi con
đường tiến đến văn minh. Lí do duy nhất để người Nhật Bản tiến đến văn minh
là để bảo vệ độc lập đất nước” [119, tr. 316]. Vì vậy mà trong tư tưởng Tân thư
khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX, Nhật Bản đã sớm chủ động đưa một bộ
phận trí thức tiến bộ sang các nước châu Âu để học tập khoa học tiến bộ, đồng
thời mời chuyên gia nước ngoài đến đào tạo nguồn nhân lực, truyền bá khoa
học, kỹ thuật. Nguyễn Hiến Lê nhận định: “Trong thời gian rất ngắn: ba chục
năm. Các sĩ phu đều hăng hái học tập phương tây, dịch sách Âu, Mỹ, nghiên cứu
chính thể kỹ nghệ. Chính phủ đón thầy Âu dạy học cho dân: kỹ sư Anh dạy cách
cất đường xe lửa và đóng tàu, người Pháp dạy về luật và binh bị, giáo sư Đức
dạy về y học và hóa học, nhà chun mơn Hoa Kỳ tổ chức giáo dục, các nghị sĩ
Ý thì dạy âm nhạc và điêu khắc” [84, tr. 143]. Bằng những chính sách duy tân



17

của mình, Nhật Bản vươn lên thành một cường quốc về mọi mặt như kinh tế,
khoa học kĩ thuật, quân sự. Những thành tựu của công cuộc cải cách ở Nhật Bản
đã trở thành cứu tinh, là nguồn động viên, cổ vũ tinh thần chống đế quốc của các
dân tộc thuộc địa da vàng. Cho nên Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ
xuất hiện nhiều phong trào sang Nhật để nghiên cứu và học tập từ năm 1904 đến
1908. Phan Bội Châu là một trong những người tiêu biểu đầu tiên của Việt Nam
hưởng ứng phong trào Đông du. Trong tác phẩm Việt Nam quốc sử khảo, Phan
Bội Châu ca ngợi: “Nước Nhật Bản duy tân 40 năm, mà văn minh đến cực
điểm” [15, tr. 66] và từ đó ông đặt câu hỏi đối với dân tộc nước ta: “Nước ta sau
vài chục năm hoặc một vài kỷ (mỗi kỷ 12 năm) nữa thì sẽ thời kỳ hèn yếu qua
đi, thời kỳ lớn mạnh sẽ đến chăng?” [15, tr. 66].
Như vậy, Phan Bội Châu với sự nhìn nhận đầy “khâm phục và ngưỡng
mộ” về những thành tựu rực rỡ của thời kỳ duy tân Minh Trị, đã làm cho tư
tưởng ơng có những biến chuyển quan trọng về cải cách giáo dục ở nước nhà.
Tại Trung Quốc đang ở giai đoạn cuối thời đại Mãn Thanh, tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội đi vào suy thối. Cuộc đụng độ giữa chế độ phong kiến và
các nước đế quốc Anh, Pháp, Nhật cùng nhau xâu xé đã biến Trung Quốc thành
một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân rơi vào thảm cảnh “một cổ hai
trịng”. Đối nội thì đàn áp, đối ngoại thì nhu nhược. Nền kinh tế gặp rất nhiều
khó khăn. Với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân, Trung Quốc xuất
hiện các xí nghiệp, hầm mỏ, bắt đầu hình thành những khu cơng nghiệp khai
thác, chủ yếu phục vụ cho sự vơ vét của cải của các nước tư bản xâm lược. Hơn
nữa, chính sách bảo thủ của triều đình Mãn Thanh, một mặt quá nhân nhượng
với bọn đế quốc, một mặt tiếp tục duy trì những tàn tích phong kiến trong nơng
nghiệp, kìm hãm sức sản xuất trong tình trạng lạc hậu nên mức sống của nhân
dân rất thấp, đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển cơng thương nghiệp. Về chính
trị, triều đình Mãn Thanh khơng chuyển biến kịp với sự phát triển của thời đại,

hệ tư tưởng lạc hậu cùng với chính sách bảo thủ của chế độ phong kiến lại càng
làm cho xã hội Trung Quốc ngày càng đi sâu vào con đường suy tàn. Trước thực
trạng trên, cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đề xuất chủ trương duy


18

tân, nhằm thay đổi hiện thực thối nát của xã hội Trung Quốc. Người đầu tiên là
Hồng Tú Toàn với phong trào Thái Bình Thiên Quốc nhằm lật đổ triều đại
phong kiến Mãn Thanh. Thái Bình Thiên Quốc thực hiện bình đẳng xã hội, địi
xóa quyền quyền sở hữu ruộng đất của phong kiến, chia đều ruộng đất cho dân
cày, xây dựng một xã hội khơng có người bóc lột người. Một trong những chính
sách xã hội có tính cách mạng đã được thi hành ở vùng Thái Bình Thiên Quốc
quản lí đó là chính sách tuyển dụng hiền tài. Thái Bình Thiên Quốc mở khoa thi,
xóa bỏ những điều kiện quy định thành phần xã hội ngặt nghèo thời phong kiến.
Hễ là người tài giỏi đều được tuyển dụng. Bỏ lối thi văn chương cổ mà thêm vào
môn thi nghề nghiệp, tính tốn..., nghề in được khuyến khích. Cuộc khởi nghĩa
của Thái Bình Thiên Quốc đến ngày 19 tháng 7 năm 1864 thì bị thất bại. Đây là
một phong trào nông dân, theo xu hướng dân chủ tư sản. Cuộc cách mạng khơng
thành cơng, sau đó, lịch sử Trung Quốc lại xuất hiện sự nổi dậy mới bằng cuộc
chính biến một trăm ngày của Khang Hữu Vi với tư tưởng “biến pháp”, chủ
trương phát triển khoa học kĩ thuật, phát triển ngành nghề, trang bị máy móc, hiện
đại, đề cao dân chủ, tự do, bình đẳng, phế bỏ quan lại bất lực, tiến hành cải cách
văn hóa, giáo dục theo kiểu phương Tây như lập trường học, tổ chức học theo
kiểu phương Tây, cải cách chế độ thi cử, bỏ lối thi bát cổ, mở nhà in, in sách báo,
cử người đi du học ở nước ngoài. Cuộc vận động Duy tân chủ trương rất ơn hịa,
song nó vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của phái thủ cựu trong giai cấp phong
kiến. Từ đó tạo nên một làn sóng chống lại tư tưởng thủ cựu, lạc hậu của chế độ
phong kiến, truyền bá các học thuyết chính trị phương Tây, tư tưởng dân chủ tư
sản, tự do, bình đẳng và phổ biến khoa học tự nhiên vào đời sống xã hội.

Đầu thế kỷ XX, lịch sử Trung Quốc có một sự chuyển biến quan trọng, đó
là cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, đập tan triều
đại cuối cùng của chế độ phong kiến Trung Quốc, thiết lập một chế độ chính trị
mới, dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản. Cương lĩnh chính trị của Tơn Trung Sơn
đưa ra dựa trên học thuyết Tam dân: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh
hạnh phúc. Mục tiêu đấu tranh được ông đề ra là: “Đánh đuổi giắc Thát, khôi
phục Trung Hoa; thành lập Dân quốc; bình quân địa quyền”, và nêu lên ba


19

nhiệm vụ: Lật đổ triều đại Mãn Thanh, thành lập Trung Hoa dân quốc, thực hiện
được một số chủ trương dân chủ như xây dựng chế độ tổng thống, tổ chức nghị
viện, xây dựng luật pháp, thực hiện các quyền con người, công dân...
Phong trào Duy Tân, đặc biệt là cách mạng Tân Hợi (năm 1911) đã ảnh
hưởng rất lớn đến các nhà tư tưởng tiến bộ ở Việt Nam như Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh... Sự ảnh hưởng đó,
được Phan Bội Châu khẳng định: “Phong triều của Trung Hoa cách mệnh thành
công, ảnh hưởng nước ta hung lắm. Nhiệt độ người nước ta so với trước kia lên
gấp bội. Nếu ở ngồi có cái gì tiên thanh, thì khí thế ở trong nước khắc sống lại”
[18, tr. 215].
Tóm lại, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới
chuyển sang giai đoạn mới - chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang
tư bản độc quyền, điều này biểu hiện ở năm đặc trưng sau: một là, ở giai đoạn
này sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới mức độ phát triển rất cao, tạo thành
những tổ chức lũng đoạn có một vai trò quyết định trong sinh hoạt kinh tế; hai
là, sự dung hợp tư bản ngân hàng với tư bản công nghiệp thành tư bản tài chính;
ba là, việc xuất khẩu tư bản thời kỳ này trở thành vấn đề quan trọng trong nền
kinh tế tư bản; bốn là, sự hình thành những khối liên minh tư bản độc quyền
chia nhau thế giới; năm là, các cường quốc tư bản đã hoàn thành việc chia đất

đai trên thế giới. Với những đặc điểm trên, mỗi nước đế quốc do điều kiện lịch
sử xã hội và kinh tế khác nhau sẽ có nhưng nét phát triển riêng biệt của mình.
Với năm đặc trưng cơ bản trên, mỗi nước do điều kiện lịch sử và kinh tế
của mình đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc với những nét riêng biệt. Lê - nin
đã chỉ ra đặc điểm ở Mỹ là sự hình thành các tơrớt khổng lồ với những tập đồn
tài chính giàu sụ; còn ở Anh là “đế quốc thực dân” với hệ thống thuộc địa rộng
lớn và đông dân; ở Pháp là “đế quốc cho vay lãi” với những món tiền cho vay
xuất cảng sang các nước khác, nhất là sang nước Nga; hay ở Đức thì đó là “đế
quốc tư bản gioongke” với sự kết cấu về quyền lợi của hai giai cấp tư bản và
quý tộc; còn ở Nga và Nhật là “đế quốc phong kiến quân sự” với những tàn dư
của chế độ phong kiến và quân phiệt [118, tr. 228].


20

Như vậy, với sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho
thế giới có nhiều biến động, việc phân chia thị trường thế giới của các nước đế
quốc hầu như đã hoàn tất. Đa số các nước phong kiến phương Đông, các nước
lạc hậu ở châu Phi, châu Mỹ Latinh đã bị xâm chiếm làm thuộc địa. Chỉ một số
nước đế quốc như Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Mỹ... nô dịch
và bóc lột đa số nhân loại. Chính những điều kiện lịch sử này đã làm xuất hiện
những mâu thuẫn lớn ngày càng gay gắt, đó là: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản ở các nước đế quốc; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và
bè lũ thực dân; mâu thuẫn giữa quảng đại quần chúng nhân dân chủ yếu là giai
cấp nông dân với địa chủ phong kiến trước hết là với triều đình phong kiến ở
các nước thuộc địa phương Đông; mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân ở các
nước thuộc địa với giai cấp tư sản thực dân; mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế
quốc với nhau trong sự phân chia thị trường... Những mâu thuẫn này cần phải
được giải quyết và điều này làm xuất hiện nhiều phong trào giải phóng con
người, giải phóng dân tộc diễn ra rộng khắp trên tồn thế giới với nhiều hình

thức đấu tranh khác nhau, đặc biệt là cuộc Cách mạng tháng Mười Nga giành
thắng lợi, chủ nghĩa xã hội đang trở thành hiện thực, đó cũng là mong ước của
hàng triệu con người trên trái đất, là nguồn cổ vũ động viên, khích lệ rất lớn cho
các nước, các giai cấp bị áp bức bóc lột trên con đường cách mạng của mình.
Bên cạnh đó cùng với tư tưởng Tân thư, cơng cuộc cải cách, duy tân ở Trung
Quốc hay ở Nhật Bản đem lại những kết quả khác nhau, nhưng đều có đặc điểm
chung là phải thay đổi tư duy giáo dục con người nhằm cải biến xã hội phong
kiến thối nát đương thời, thực hiện canh tân đất nước đặc biệt là canh tân về
giáo dục góp phần bảo vệ và phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo kịp với
các nước trong khu vực.
Tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu không chỉ phản ánh, chi phối bởi
điều kiện lịch sử xã hội thế giới mà còn phản ánh thực tiễn lịch sử xã hội Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX với sự xâm lược của thực dân Pháp.
Nửa đầu thế kỷ XIX Việt Nam vẫn là một nước phong kiến độc lập có chủ
quyền, khi thực dân Pháp xâm lược (năm 1858), tình hình xã hội Việt Nam có


×