LUẬN VĂN:
Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây
dựng con người mới ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, việc tìm hiểu bản chất, vai trò của con người luôn là một vấn đề
trung tâm trong lịch sử tư tưởng nói chung và lịch sử triết học nói riêng, trong đó có triết
học Trung Quốc cổ đại. Khác với con người trong triết học phương Tây, con người trong
triết học Trung Quốc cổ đại thường được tìm hiểu dưới góc độ chính trị, xã hội. Các nhà
triết học Trung Quốc cổ đại thường đi vào nghiên cứu số phận của con người và con
đường giải phóng, phát triển cho con người. Với những tư tưởng đó, triết học phương
Đông để lại cho nhân loại nhiều bài học quý giá về xây dựng và phát triển con người.
Tiểu biểu cho những đặc trưng và giá trị đó trong triết học Trung Quốc là học thuyết triết
học của Khổng Tử.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, rất nhiều vấn đề đang được đặt ra,
trong đó quan trọng nhất là vấn đề xây dựng và phát triển con người. Bởi, con người
không chỉ là mục tiêu và động lực của sự nghiệp đổi mới mà hơn nữa, con người còn là
chủ thể của sự nghiệp đó. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định, con người là nguồn lực quan
trọng nhất của cách mạng Việt Nam, là yếu tố giữ vai trò quyết định sự thành bại của sự
nghiệp đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" [27, tr.85]. Đến Đại
hội lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Con người và nguồn lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá " [28, tr.201]. Tuy
nhiên, con người, với tư cách là chủ thể của sự nghiệp đổi mới, không phải là con người
chung chung, mà chính là con người mới phát triển toàn diện. Những đặc trưng của con
người mới trong giai đoạn hiện nay được Đảng ta chỉ ra là “con người có ý thức làm chủ, ý
thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi; sống có văn hoá và tình
nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính” [30, tr.322-323]. Đó là những
đức tính cần thiết và phù hợp với yêu cầu khách quan của đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
Xây dựng con người mới là nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức to lớn, tuy nhiên, trong
thời gian qua, sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được, vẫn đang bộc lộ nhiều hạn chế. Trong đó, hạn chế lớn nhất là sự suy thoái đạo
đức của một bộ phận không nhỏ nhân dân và sự khủng hoảng của hệ thống giáo dục. Đây
là hai yếu tố quan trọng nhất trong xây dựng con người mới. Nếu đạo đức là cái gốc của
con người mới thì giáo dục là phương tiện quan trọng nhất để xây dựng con người mới.
Ở nước ta, Khổng học có lịch sử tồn tại hàng nghìn năm. Là một học thuyết
chính trị - đạo đức, lấy con người làm trung tâm, Khổng học đã đáp ứng được yêu cầu
xây dựng Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền và đã trở thành hệ tư tưởng của
giai cấp phong kiến Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Với vị trí đó, Khổng học đã len lỏi vào
mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ tư tưởng chính trị đến đạo đức, từ kinh tế cho đến văn hoá,
giáo dục biểu hiện tập trung trong nhân cách con người Vì lẽ đó, có thể nói dấu ấn của tư
tưởng Khổng học ở con người Việt Nam là sâu sắc, biểu hiện qua thế giới quan, nhân sinh
quan, phong tục tập quán Ở góc độ nào đó, Khổng học là bộ phận của truyền thống,
thậm chí là một trong những cốt lõi của truyền thống.
Trong những tư tưởng của Khổng học có ảnh hưởng lớn tới con người và xã hội
Việt Nam, thì tư tưởng giáo dục có vị trí rất quan trọng. Giá trị trong tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử là ông đã đề cao vai trò của giáo dục và yếu tố đạo đức đối với việc xây
dựng và phát triển con người. Dưới tác động của tư tưởng giáo dục của Khổng học, chế
độ phong kiến ở nước ta đã đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước, góp phần củng cố,
vun trồng đạo lý, gia phong Việt Nam. Mặc dù một số nội dung không còn phù hợp với
điều kiện nước ta hiện nay nhưng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử vẫn còn nhiều ý nghĩa
cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với việc xây dựng con người mới .
Từ vai trò và thực trạng của con người mới, cũng như những giá trị to lớn trong tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử, tôi quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay” làm luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục con người, cũng như vấn đề xây dựng con
người mới đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, hiện có một số tác
phẩm như: Khổng học đăng của Sào Nam, Nxb Văn hoá thông tin; Khổng Tử của
Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hoá thông tin; Nhà giáo họ Khổng của Nguyễn Hiến Lê, Nxb
Tp Hồ Chí Minh; hay Khổng Tử của Lý Tường Hải, Nxb Văn Học;… Các công trình này
về cơ bản đã đề cập khá đầy đủ những nội dung trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
Tuy nhiên, những công trình trên chưa tập trung đi sâu nghiên cứu tư tưởng giáo dục mà
chỉ xem xét nó như một bộ phận cấu thành của hệ thống triết học của Khổng Tử. Bên
cạnh những tác phẩm đi vào nghiên cứu về Khổng Tử ở trên, còn có rất nhiều tác phẩm
khác cũng đề cập đến tư tưởng giáo dục của Khổng Tử như: Nho giáo của Trần Trọng Kim,
Nxb Văn học; Bàn về đạo Nho của Nguyễn Khắc Viện, Nxb Thế giới; Nho học ở Việt Nam
giáo dục và thi cử của Nguyễn Thế Long, Nxb giáo dục;… Hầu hết các công trình này cũng
đã đề cập đến các nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Tuy nhiên, những
nghiên cứu này cũng chỉ xem xét tư tưởng giáo dục của Khổng Tử như là một bộ phận cấu
thành trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo, và là giai đoạn trong sự phát triển hàng ngàn
năm của giáo dục Nho giáo, do đó, không có điều kiện đi vào nghiên cứu một cách đầy đủ và
sâu sắc. Ngoài ra còn có rất nhiều bào báo, tạp chí nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử, nhưng trong phạm vi hạn hẹp của một bài báo không cho phép những công trình
đó đi sâu vào toàn bộ nội dung của tư tưởng giáo dục mà chỉ tập trung bàn luận đến một
phần nào đó của tư tưởng đó như đối tượng giáo dục, phương pháp giáo dục,…
Về mảng nghiên cứu ý nghĩa của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với việc
xây dựng con người ở nước ta hiện nay, cũng được nhiều tác giả nghiên cứu như cuốn
Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người của hai tác giả Nguyễn Thị Nga và Hồ
Trọng Hoài. Trong đó, hai tác giả cũng đã có sự phân tích, trình bày và đánh giá những tư
tưởng cơ bản của Nho giáo về con người và đào tạo con người, từ đó phân tích những
ảnh hưởng của Nho giáo đối với việc giáo dục con người Việt Nam trong lịch sử và trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. Trong công trình này, hai
tác giả chỉ đề cập đến tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo nói
chung mà chưa đi sâu phân tích tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và ảnh hưởng của nó
đối với con người Việt Nam hiện nay. Bên cạnh công trình này, cũng có nhiều bài viết
của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí như: Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam của
Lê Ngọc Anh đăng trên Tạp chí Triết học, số 3, năm 1999; Nho giáo với vấn đề phát
triển kinh tế và hoàn thiện con người của Nguyễn Thanh Bình đăng trên Tạp chí Giáo
dục lý luận, số 5, năm 2000; Khổng giáo với vấn đề hiện đại hoá xã hội của Lê Thanh
Sinh đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội, số 1, năm 2003,… Ngoài ra, các công trình nghiên
cứu về xây dựng con người mới có thể kể tới cuốn Về xây dựng con người mới của Nguyễn
Huy Hoan; Về phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đạo hoá
của Phạm Minh Hạc;… Tuy nhiên, các công trình trên đây mới chỉ nghiên cứu một cách
khái lược về ý nghĩa của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với sự phát triển đất nước nói
chung, hay đi vào từng mảng riêng như văn hoá, giáo dục,… mà chưa đi sâu phân tích ý
nghĩa, giá trị trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với việc xây dựng con người mới ở
nước ta hiện nay.
Như vậy, hiện đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử, cũng như việc xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay. Song, cho đến nay,
còn rất ít những nghiên cứu chuyên sâu, hay trong phạm vi một luận văn thạc sĩ về đề tài
vận dụng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử vào việc xây dựng con người, đặc biệt là xây
dựng con người mới ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, đây là nội dung chủ yếu mà tôi tập
trung bàn luận trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn đi vào làm rõ những nội dung chủ yếu trong tư tưởng giáo
dục của Khổng Tử , từ đó làm rõ ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở nước
ta hiện nay.
* Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đi vào thực hiện một số nhiệm vụ
sau:
- Trình bày và phân tích có hệ thống những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo
dục của Khổng Tử;
- Làm rõ ý nghĩa của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với việc xây dựng con
người mới ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và xây dựng con người
mới ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Những nội dung chủ yếu trong nội dung tư tưởng giáo dục
của Khổng Tử và vai trò của nó đối với việc xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người mới và về chiến
lược xây dựng con người mới.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, đồng thời luận văn còn sử dụng các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, …
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn trình bày tương đối có hệ thống và đánh giá khách quan những tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử, để trên cơ sở đó góp phần làm rõ hơn ý nghĩa của những tư tưởng
này đối với việc xây dựng con người ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy về tư tưởng
Khổng Tử; cũng như làm tài liệu tham khảo trong một số nghiên cứu về xây dựng con
người mới ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 6 tiết.
Chương 1
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại với việc hình thành tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử
Như chúng ta đã biết, sự xuất hiện của mỗi học thuyết, tư tưởng không phải một
cách ngẫu nhiên hay từ hư vô, mà luôn có cơ sở khách quan của nó. Một trong những cơ
sở khách quan quan trọng mà trên đó nó ra đời, tồn tại và phát triển là những điều kiện
kinh tế - xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, giữa tư tưởng và
những điều kiện kinh tế - xã hội có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi học
thuyết luôn nảy sinh trên những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. C.Mác từng viết:
“Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của
dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong
những tư tưởng triết học” [63, tr.156].
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử cũng không
phải là một ngoại lệ, nằm ngoài quy luật trên. Do đó, muốn nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng
Khổng Tử chúng ta không thể không đi vào nghiên cứu, tìm hiểu điều kiện kinh tế - xã
hội, văn hoá, chính trị của thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc - thời đại mà tư tưởng Khổng
Tử nói chung cũng như tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng nảy sinh, hình thành
và phát triển.
Khổng Tử sống trong thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc (770-221T.CN). Đây là thời
kỳ xã hội Trung Quốc đang có những chuyển biến hết sức căn bản và lớn lao. Chế độ
chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế độ “tông pháp” nhà Chu
đang suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành. Trong xã hội Trung Quốc thời kỳ
này diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, tạo
điều kiện cho sự giải phóng tư tưởng của con người thoát khỏi thế giới quan mang tính
chất thần bí, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của tư tưởng triết học.
Thời kỳ Xuân thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương dời đô về phía
Đông đến Lạc Ấp (năm 771 T.CN). Về mặt kinh tế, thời kỳ này nền kinh tế Trung Quốc
đang chuyển từ thời kỳ đồ đồng sang thời kỳ đồ sắt. Sự ra đời của đồ sắt đã tạo ra một
cuộc cách mạng trong công cụ sản xuất. Nó thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển
nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Trong đó nông nghiệp là một ngành kinh tế có truyền
thống lâu đời và giữ vai trò hết sức quan trọng ở Trung Quốc. Với sự xuất hiện của đồ
sắt, đã đem lại cho người Trung Quốc những tiến bộ mới trong cải tiến công cụ sản xuất
và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.… Chính nhờ vậy, vào thời kỳ này, hệ thống thuỷ lợi đã
trải rộng khắp khu vực Trường Giang; diện tích canh tác được mở rộng; kỹ thuật trồng
trọt được cải tiến đã giảm được đáng kể sức sản xuất trong nông nghiệp và năng suất lao
động tăng.
Với sự ra đời của đồ sắt và những cải tiến mạnh mẽ trong công cụ sản xuất nông
nghiệp tất yếu dẫn đến những thay đổi trong quan hệ sản xuất cổ truyền. Người ta thấy
không cần thiết phải chia lại ruộng đất công theo định kỳ căn cứ vào đất tốt hay xấu như
trước nữa. Giờ đây công xã giao hẳn đất công cho từng gia đình nông nô cày cấy trong
thời gian lâu dài. Vì vậy, nông nô có thể dùng phương pháp lưu canh hay luân canh để
tăng năng suất cây trồng. Mặt khác, một số người bình dân do có chút công trạng trong
chiến trận mà có quyền lực đã ỷ vào đó để chiếm ruộng đất công thành ruộng tư; một số
khác là nhà buôn giàu có đã giành tiền để mua ruộng đất; một số khác nữa là những
người nghèo khổ đã tập hợp nhau lại để tiến hành khai khẩn ruộng hoang và trở thành
chủ sở hữu lớn về ruộng đất Tình hình trên, một mặt, đã làm cho chế độ “tỉnh điền” dần
tan rã, chế độ tư hữu ruộng đất từng bước được hình thành và được nhà nước thừa nhận;
mặt khác, đã hình thành trong xã hội một giai cấp mới - giai cấp địa chủ. Giai cấp này
vừa giàu có về kinh tế, vừa đòi hỏi quyền lực về chính trị. Họ tham gia vào giai cấp thống
trị xã hội, sánh vai cùng giai cấp chủ nô.
Cùng với việc thay đổi quan hệ sản xuất, phương thức thu thuế cũng được thay
đổi. Trước đây, theo chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất của công xã được chia đều cho nông nô,
nông nô phải nộp một phần sản lượng nông phẩm thu hoạch được cho công xã để nộp lên
triều đình. Khi chế độ tư hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng đất của nông dân sở hữu
không bằng nhau, nhà nước đã bãi bỏ hình thức thu thuế cũ mà thi hành chế độ thu thuế mới,
đánh thuế vào từng mẫu ruộng (gọi là thuế sơ mẫu). Nước đầu tiên thi hành chế độ thuế mới
này là nước Lỗ vào năm 594 (T.CN).
Đồ sắt ra đời không chỉ thúc đẩy nền nông nghiệp Trung Quốc phát triển mà còn
thúc đẩy nền thủ công nghiệp phát triển. Đồ sắt được sử dụng phổ biến làm cho sự phân
công lao động trong sản xuất thủ công nghiệp đạt tới trình độ cao hơn, chuyên nghiệp
hơn, thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển, như nghề luyện sắt,
nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ gốm,… Chẳng hạn, vào cuối thời Xuân thu,
nước Ngô dựng lò luyện sắt với hơn 300 thợ. Nước Tấn trưng thu sắt để đúc đỉnh hình.
Trong sách Chu lễ có viết về sự phát triển của các ngành thủ công nghiệp rằng: “thợ mộc
chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ thuộc da chiếm năm phần, thợ nhuộm
chiếm năm phần, thợ nề chiếm hai phần…”. Về mặt kinh tế, sự phát triển đa dạng của
nhiều ngành nghề thủ công nghiệp đã có ý nghĩa tích cực trong việc giải phóng sức lao
động, góp phần phá vỡ nền kinh tế thuần nông, nâng cao đời sống của nhân dân Trung
Quốc thời cổ đại, nhưng về mặt chính trị, mặc dù số thợ thủ công nghiệp đông nhưng do
trình độ còn thấp nên họ chưa có ảnh hưởng lớn trong xã hội.
Cùng với nông nghiệp và thủ công nghiệp, đồ sắt ra đời và trở nên phổ biến còn
tạo cơ sở cho thương nghiệp phát triển hơn trước, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi
động. Tiền tệ đã xuất hiện. Do nhờ buôn bán mà giàu có, trong xã hội hình thành một lớp
thương nhân ngày càng có thế lực như Huyền Cao nước Trịnh, Tử Cống (vốn là học trò
Khổng Tử)… Tầng lớp này thường kết giao với các bậc chư hầu, công khanh đại phu, tìm
cách leo lên giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ, gây nhiều ảnh hưởng đối với chính
trị đương thời. Tuy nhiên, do tình trạng xã hội rối ren, lãnh thổ chia năm xẻ bảy do nạn
chư hầu cát cứ, phương tiện giao thông thô sơ, đường sá đi lại khó khăn, do đó việc kinh
doanh không phải ai cũng làm được mà chỉ những người nào có quen biết, kết giao với
quan lại, người có đầu óc tháo vát và lòng quả cảm thì mới làm được. Hơn nữa, trong
quan niệm của người Trung Quốc luôn xem thường, khinh rẻ nghề buôn bán, coi đó là
nghề rẻ mạt nhất với tư duy “nông bản, thương mạt”, “trọng nông, ức thương”. Chính vì
thế, nghề buôn bán ở Trung Quốc thời kỳ này chưa thực sự phát triển. Nhưng sự hình
thành của thương nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp
mới - tiền thân của một bộ phận giai cấp địa chủ sau này.
Về chính trị, những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biến đổi về mặt
chính trị trong thời Xuân thu. Nếu như trong thời Tây Chu chế độ tông pháp, “phong hầu,
kiến địa” vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị, rằng buộc về
huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được sự hưng thịnh trong một thời
gian dài, thì đến thời Xuân thu, chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn trọng, đầu
mối các quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và các nước chư hầu trở nên lỏng
lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn được duy trì như trước.
Thiên tử nhà Chu hầu như không còn quyền uy gì đối với các nước chư hầu. Thiên tử
không còn xét xử được những cuộc tranh chấp giữa các nước chư hầu. Các lãnh chúa nhỏ và
vừa xưa nay vẫn dựa vào quyền uy của Thiên tử thì giờ đây đã trở nên thất vọng, không còn
muốn phụ thuộc vào Thiên tử nữa. Nhiều nước chư hầu mượn tiếng khôi phục lại địa vị tông
chủ của nhà Chu đã đưa ra khẩu hiệu “tôn vương bài di”, nhưng thực chất là mưu cầu lợi
ích cá nhân, mở rộng thế lực và đất đai, thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ
thiên hạ đã đua nhau xuất binh đánh nhau suốt mấy trăm năm. Thời Xuân thu có khoảng 242
năm nhưng đã xảy ra tới 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Đầu thời Tây Chu có hàng ngàn
nước, đến cuối thời Xuân thu chỉ còn hơn một trăm nước. Trong đó có những nước hùng
mạnh nhất thời bấy giờ thay nhau làm bá chủ thiên hạ như nước Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô,
Việt, Tần. Để tập trung tất cả tài lực và vật lực cho các cuộc chiến tranh, các quốc gia này
đều thi hành chính sách “bá đạo” dựa trên sức mạnh và ra sức bóc lột nhân dân và các nước
khác, điều này hoàn toàn khác với chính sách nhân nghĩa “vương đạo” của thánh nhân xưa.
Chính sách “bá đạo” đã làm cho đời sống nhân dân hết sức khổ cực. Người dân phải phải
tham gia vào quân đội thực hiện các cuộc chinh phạt của các tập đoàn quý tộc, đồng thời
phải chịu sưu cao thuế nặng, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường xuyên xảy ra, nạn
cướp bóc lại hoành hành khắp nơi. Đồng ruộng bỏ hoang, cuộc sống nhân dân trăm bề khốn
khổ.
Cùng với các cuộc thôn tính lẫn nhau của các quốc gia thì ngay bên trong mỗi
quốc gia cũng nổ ra không ít các cuộc tranh giành quyền lực và đất đai giữa quý tộc với
nhau. Điển hình là nước Tấn, năm 403 (T.CN) có ba dòng họ lớn là Hàn, Nguỵ, Triệu đã
nổi lên phế bỏ vua Tấn, dựng lên ba nước Hàn, Nguỵ, Triệu.
Hậu quả của những cuộc tranh giành, thôn tính, chinh phạt lẫn nhau của tầng lớp
quý tộc đã dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt các nước chư hầu nhỏ, đạo đức xã hội bị
suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên sâu
sắc, kể cả mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân cũng như giữa giai cấp thống trị
với nhau, làm cho xã hội ngày càng thêm rối loạn. Lễ nghĩa nhà Chu bị phá hoại, đặc biệt
những nghi lễ chặt chẽ, tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo vệ và làm hưng thịnh
chế độ tông pháp nhà Chu, thì đến nay cũng bị xem thường. Hậu quả tất yếu là một vài
nơi đã nổi lên các cuộc khởi nghĩa nông dân và nô lệ. Đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân
thu lên đến đỉnh cao, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi nhanh đến suy tàn và
cáo chung.
Thời Chiến quốc, bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, như sự xuất hiện của
nhiều trung tâm luyện sắt lớn ở Hàm Đan nước Triệu, Đường Khê nước Hàn, Lâm Truy
nước Tề… kéo theo sự phát triển của nghề thủ công như nghề làm đồ gốm, nghề trồng
dâu nuôi tằm, dệt lụa, … tiền tệ bằng kim loại ra đời, thương nghiệp cũng vì thế mà hưng
thịnh thì về mặt chính trị, chiến tranh vẫn xảy ra liên miên, với quy mô lớn hơn và tàn
khốc hơn. Mạnh Tử viết: “đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy thành; đánh
nhau giành đất, giết người thây chết đầy đồng” [70, tr.405-406]. Sự phát triển của kinh tế
hàng hoá và chiến tranh liên miên làm cho chế độ công xã nông thôn nhanh chóng tan rã.
Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở thành quan hệ thống trị. Việc mua
bán ruộng đất được tự do và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã mở đường cho sự tập trung
ruộng đất một số ít lãnh chúa, còn đa số nông dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi làm tá
điền. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện. Trong lòng xã hội đã xuất hiện
những yếu tố của quan hệ sản xuất mới đó là chế độ phong kiến quận huyện. Mâu thuẫn
giai cấp đã ngày càng gay gắt hơn, đẩy xã hội tới nguy cơ tan rã nghiêm trọng, đưa chế
độ tông pháp nhà Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi nhanh vào hồi kết. Với
việc Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc đã đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của nhà
Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ, và mở ra một chế độ mới ở Trung Quốc - chế độ phong
kiến.
Chính trong thời đại lịch sử đầy biến động của thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc đã
đặt ra cho các nhà tư tưởng những dấu hỏi lớn về mặt triết học, chính trị, luân lý đạo đức,
pháp luật, quân sự,… đòi hỏi các nhà tư tưởng phải có những tìm hiểu, nghiên cứu để đưa
ra những câu trả lời, đưa ra những giải pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội lúc
bấy giờ. Vì vậy, trong thời kỳ này đã xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và học
thuyết lớn. Có thể nói, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc, nhiều
nhà nghiên cứu gọi đây là thời kỳ “bách hoa đề phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa
đua nở, trăm nhà đua tiếng). Giáo sư Nguyễn Tài Thư đã nhận xét: “Có một thời kỳ lịch sử
Trung Quốc mà ngày nay nhớ đến có người còn xốn xang bởi sự sôi động của nó, bởi nhiều
sự kiện lịch sử xuất hiện dồn dập, nhiều học thuyết triết học và chính trị - xã hội ra đời, nhiều
khối óc tài ba làm nên sắc thái văn hoá và tư tưởng của Trung Quốc sau này” [91, tr.13]. Mỗi
học thuyết đều cố gắng đưa ra những lý giải và giải pháp của riêng mình để giải quyết vấn đề
thực tiễn xã hội đặt ra. Thuyết Mặc gia, đại biểu là Mặc Địch đã đề xướng thuyết “kiêm ái”,
giải thích nguồn gốc của chiến tranh và mâu thuẫn xã hội là do người ta không yêu nhau. Do
đó, đã làm người phải yêu người khác, “vì yêu người tất được người yêu”, “vì người cũng là
vì mình”. Phái Pháp gia, mà đại diện là Hàn Phi, thì cho rằng: nguyên nhân gây rối loạn xã
hội xuất phát từ chỗ pháp luật không nghiêm. Vì vậy, để lập lại trật tự xã hội thì phải dùng
pháp trị. Đạo gia, mà đại biểu là Lão Tử, Trang Tử lại cho rằng: con người sống không phải
lo gì cả vì sự vật phát triển là theo tự nhiên. Vì vậy, trong cuộc sống không nên tranh giành,
vì “mình không tranh giành với ai, thì không ai tranh giành với mình”. Nho giáo - một học
thuyết lớn nhất trong các học thuyết thời bấy giờ (đứng đầu là Khổng Tử), cho rằng, xã hội
rối loạn là do con người vô đạo, không theo đạo lý, không có nhân nghĩa, nên xã hội ổn định
thì phải làm cho xã hội có đạo, dẫn dắt con người về với đạo lý, với đức nhân, với chính
danh của mình. Với lý do đó, Khổng Tử đã đề cao giáo dục, lấy giáo dục làm phương tiện
nhằm thay đổi xã hội từ “loạn” thành “trị”.
1.1.2. Quan niệm về bản tính con người của Khổng Tử với việc hình thành tư
tưởng giáo dục của ông
Cùng với hoàn cảnh kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, thì quan niệm của Khổng Tử về
bản tính con người cũng là một cơ sở quan trọng làm nảy sinh tư tưởng giáo dục của ông.
Vấn đề bản tính con người là một vấn đề trung tâm và gây tranh cãi nhiều nhất
trong triết học Trung Quốc cổ đại nói chung cũng như Khổng Tử nói riêng. Bởi vì vấn đề
bản tính người chẳng những gắn bó chặt chẽ với vấn đề nguồn gốc, bản chất của con
người mà quan trọng hơn, nó còn là cơ sở, điểm xuất phát để từ đó các nhà tư tưởng của
Nho giáo đề xuất những học thuyết chính trị, đạo đức, giáo dục,…
Thời kỳ này, có rất nhiều triết gia, nhiều trường phái triết học đi sâu vào nghiên
cứu vấn đề bản tính con người. Mạnh Tử cho rằng, bản tính con người là thiện. Thiện là
cái tiên thiên trời phú cho con người, không phải con người tự chọn, đã là con người ai
cũng có tính thiện. Tính thiện là cái vốn có trong tâm con người, là thuộc tính tự nhiên
của con người, cũng như thuộc tính tự nhiên của nước là chảy xuống chỗ trũng. Mạnh Tử
viết:
Cái bản tính của người ta vốn thiện, cũng như bản tính của nước là chảy
xuống vậy. Không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện; cũng như thế,
không một thứ nước nào mà không chảy xuống thấp (Nhân tính chi thiện dã,
du thuỷ chi tựu hạ dã. Nhân vô hữu bất thiện, thuỷ vô hữu bất hạ) [71, tr.144-
145].
Ông còn cho rằng, biểu hiện của tính thiện ở con người trong xã hội là bốn đức
tính: nhân, lễ, nghĩa, trí. Chính vì vậy, Mạnh Tử luôn hướng mục tiêu giáo dục cho con
người bốn đức tính thiện đó. Ngược lại với Mạnh Tử, Tuân Tử lại khẳng định, bản tính
con người là ác. Theo Tuân Tử, cái tham lam, ích kỷ; cái gian ác, đố kỵ; cái dâm loạn là
thuộc về bản năng vốn có của con người. Tuân Tử viết:
Tính của người ta vốn ác, nó mà hoá thiện được là do công của người ta.
Tính con người sinh ra vốn hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt
lẫn nhau mà sự từ nhượng không có, sinh ra đố kỵ, thuận theo tính đó thì thành
ra tàn tặc mà lòng trung tín không có, sinh ra là có lòng muốn của tai mắt, có
lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa,
văn lý không có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của
người ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận (tức quyền lợi của nhau),
làm loạn cái lý mà mắc cái tội tàn bạo [90, tr.113].
Tính ác có ở tất cả mọi người chứ không của riêng ai, từ người thường dân đến bậc
quân vương như Vua Nghiêu, Vua Thuấn đều có bản tính ác ngay từ khi lọt lòng mẹ. Tuy
nhiên, Tuân Tử vẫn khẳng định tính ác là cái tự nhiên, bẩm sinh ở mọi người nhưng không
phải là cái nhất thành bất biến, mà con người có thể chuyển ác thành thiện nhờ vào hoàn
cảnh và giáo dục. Ông nói: “Tính là cái ta không thể làm ra, nhưng mà có thể cải hoá” [90,
tr.53]. Chính vì vậy, Tuân Tử đã ra sức kêu gọi mọi người nỗ lực học tập nhằm gạt bỏ cái ác,
hướng đến cái thiện. Ông cũng đề xuất phép trị nước là giáo hoá dân, trong đó kết hợp giữa
lễ giáo và hình phạt nhằm khắc chế tính ác, hướng thiện cho con người.
Đối lập với cả Mạnh Tử và Tuân Tử, Cáo Tử cho rằng: “cái tính tự nhiên của con
người chẳng phải thiện, cũng chẳng phải bất thiện” (tính vô thiện, vô bất thiện dã) [71,
tr.150]. Theo ông, tính ban đầu nguyên thuỷ của con người là một cái gì đó thuần phác,
mộc mạc, không phân biệt thiện với bất thiện. Nó giống như dòng nước chảy, nếu khai
thông về phía Đông thì nước sẽ chảy về phía Đông, nếu khai thông về phía Tây thì nước
sẽ chảy về phía Tây. Cho nên nói tính người thiện hay không thiện là sự áp đặt khiên
cưỡng vào cái bản tính thuần phác, tự nhiên của con người.
Còn theo Lão - Trang thì Đạo là bản nguyên của vạn vật, tất cả mọi vật đều từ đạo mà
ra và đề trở về với nguồn gốc là đạo. Do đó, Lão - Trang cho rằng, tính của vạn vật sinh ra đã
có, là tính của tự nhiên. Tính của con người sinh ra đã có, đó là tính giản dị, mộc mạc, thuần
phác, không bị nhào nặn, gọt dũa bởi con người. Nếu tính đó bị nhiễm một cái gì như nhân,
nghĩa,… thì không còn là tính nữa. Đạo là cái tự nhiên, vô danh, là quy luật tự nhiên, vô vi.
Bản thân tự nhiên là chuẩn mực, là chân lý. Bởi vậy, theo Lão - Trang, con người chỉ cần
hành động theo lẽ tự nhiên là đạt Đạo, là chân lý. Do đó, theo Lão – Trang quay về với bản
tính tự nhiên ban đầu của con người là hoàn thiện nhất, và để xã hội thịnh trị thì con người
cần phải giữ được cái tính giản dị, thuần phác, tự nhiên của con người, không nên khổ công
giáo dục con người theo nhân, nghĩa, lễ làm gì, vì đó là những việc làm vô ích, trái với lẽ tự
nhiên.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau như trên nhưng khát quát lại chúng ta vẫn thấy
có nhiều nét tương đồng, giống nhau cơ bản. Thứ nhất, họ đều cho rằng bản tính con
người là cái tính, trời sinh ra đã vốn có ở tâm, mang tính “tiên thiên” chứ không do con
người tự lựa chọn. Khổng Tử đã nói: con người ta sinh ra, cái bản tính vốn ngay thật,
(nhân chi sinh giã trực) [62, tr.92-93]; Mạnh Tử cũng viết: con người sinh ra vốn bản
tính là thiện, (nhân chi sơ tính bản thiện) [9, tr.74]. Thứ hai, họ đều quan niệm tính gắn
liền với tâm của con người. Theo họ, “Tâm” là thể, thì “Tính” là lý của tâm, tâm là cái ẩn
dấu ở bên trong, còn tính là cái biểu hiện ra bên ngoài qua các đức tính của con người
như thiện, ác, nhân, nghĩa, lễ,… Nếu đem “tâm” và “tính” ấy mà biểu lộ thành thái độ
của con người đối với sự vật, với người khác thì gọi là “tình”; “tình” gồm có: ái, ố, hỉ, nộ,
lạc, bi, ai. Thứ ba, mặc dù đều xem bản tính con người là tiên thiên, là cái có sẵn, nhưng
họ cũng đều khẳng định bản tính con người có thể thay đổi được, “cải biến” được và họ
đều chủ trương giáo hoá con người theo nhiều cách khác nhau.
Như vậy, có rất nhiều triết gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người, nhưng có
thể nói, Khổng Tử là người đầu tiên đặt ra vấn đề tìm hiểu bản tính con người. Tuy nhiên,
trong hệ thống tư tưởng của mình, ông lại ít khi đề cập đến vấn đề này. Ngay trong cuốn
Luận ngữ, cuốn sách do học trò chép lại các lời dạy của Khổng Tử, có rất nhiều câu, nhiều
dòng viết về con người nhưng lại rất ít những câu, những dòng trực tiếp bàn về tính của con
người. Tử Cống, một học trò tin cẩn của Khổng Tử đã thắc mắc: “Văn chương Thầy ta thì
chúng ta đều được nghe. Còn về bản tính con người cùng Đạo Trời thì chúng ta chẳng được
nghe Thầy ta dạy” (Phu Tử chi văn chương, khả đắc nhi văn giã. Phu Tử chi ngôn tánh dữ
Thiên đạo, bất khả đắc nhi văn giã) [62, tr.70-71].
Về nguồn gốc của Tính, trong cuốn Trung Dung, Khổng Tử đã giải thích: “Cái mà
mệnh trời phú cho gọi là Tính, noi theo tính là Đạo, tu theo Đạo gọi là Giáo” (Thiên
mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo) [18, tr.39]. Như vậy, Tính là cái
có nguồn gốc từ trời, là nguyên lý tự nhiên mà trời phú cho con người và con người bẩm
thụ lấy. Tính là cái bẩm sinh ban đầu, là cái nguyên sơ mà con người có được từ trời.
Theo quan điểm của Khổng Tử, bản tính con người là ngay thật. Ông viết: “nhơn chi
sanh dã trực” [62,tr.92-93], có nghĩa là khi sinh ra con người hoàn toàn ngây thơ, trong
trắng, nguyên sơ, tự nhiên, chưa bị tác động của ngoại cảnh, và các yếu tố xã hội. Đây là
bản tính được bẩm thụ từ trời, cho nên bản tính ấy như nhau, giống nhau ở mọi người.
Và, trong cuộc sống những ai mà sống không ngay thật (tà khúc) mà sống được là do may
mắn mà thôi: “Võng chi sinh dã, hạnh nhi miễn” [62, tr.92-93]. Rõ ràng ở đây Khổng Tử
không nói bản tính con người là thiện hay ác. Có ý kiến cho rằng, khi bàn về bản tính con
người, Khổng Tử chưa nói rõ bản tính con người là thiện hay ác, mà muốn khẳng định rằng,
cái bản tính ban đầu của con người có thể bị biến đổi bởi các điều kiện, yếu tố ngoại cảnh,
bởi ở chính sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người.
Khổng Tử còn cho rằng: “người ta tất thảy đều giống nhau, vì ai nấy đều có bản tính
ngay thật; nhưng bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra khác nhau” (Tính tương cận dã, tập
tương viễn dã) [62, tr.268-269]. Khi mới sinh ra mọi người đều có bản tính giống nhau,
nhưng trong cuộc sống mỗi người lại có một hoàn cảnh, một điều kiện khác nhau, nghề
nghiệp khác nhau, tập quán khác nhau, làm cho mọi người xa dần bản tính ban đầu, làm
cho bản tính mọi người khác nhau. Bản tính ban đầu của con người là ngay thật, nhưng chỉ
cần trong cuộc sống con người gặp những hoàn cảnh bất lợi mà chạy theo thói đời, mê vật
dục sẽ dẫn đến xa bản tính của mình, làm cho mọi người khác nhau. Để mọi người gần nhau
và trở lại bản tính ban đầu, tức là bản tính vốn lành, ngay thẳng, làm cho xã hội vô đạo
trở về với hữu đạo, Khổng Tử chủ trương giáo hoá, mọi người phải học tập, tu dưỡng
hướng tới những điều nhân nghĩa để giữ bản tính thiện của mình, xa rời cái ác, cái bất
nhân, hiểu được cái đạo và trở về với đạo thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn.
Như vậy, không chỉ riêng Khổng Tử, bản tính con người là một vấn đề được rất
nhiều nhà tư tưởng quan tâm. Mỗi triết gia đều dựa trên việc đánh giá thực tế mà đưa ra
những quan điểm và sự luận giải hết sức khác nhau. Mặc dù là những ý kiến chủ quan
nhưng đó là những quan điểm rất quan trọng, mang tính nền tảng cho việc thừa nhận và
đề cao vai trò của giáo dục trong việc giáo dục và hoàn thiện tính người cho con người.
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
1.2.1. Mục đích và đối tượng giáo dục của Khổng Tử
Về mục đích giáo dục. Như đã trình bày ở phần trên, tư tưởng giáo dục của Khổng
Tử ra đời trên cơ sở kinh tế, xã hội văn hoá của thời đại và từ quan niệm về bản tính con
người của ông. Những cơ sở đó là những vấn đề thực tiễn bức bách đòi hỏi phải được luận
giải và giải quyết trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Chính vấn đề này chi phối mục
đích giáo dục của Khổng Tử.
Trong xã hội nhiễu nhương, loạn lạc, các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau, chiến
tranh diễn ra liên miên, không năm nào là không có; nhân dân lâm vào cảnh lầm than cơ
cực, thiên hạ trở nên vô đạo, nên mục đích giáo dục của Khổng Tử không đơn thuần chỉ
là đào tạo ra những người “lý tưởng”, biết đạo, hiểu đạo, mà cao hơn nữa ông muốn là
đào tạo ra người có đủ năng lực để tham gia gánh vác công việc quốc gia, bình ổn xã hội.
Từ mục đích đó, Khổng Tử tập trung vào việc đào tạo người quân tử. Nếu giáo
dục được Khổng Tử xem là phương tiện chính góp phần cải biến xã hội từ loạn thành trị,
thì người quân tử là nhân tố cốt lõi, là động lực dẫn dắt xã hội đến thịnh trị. Chính vì vậy,
ông dành huyết tâm huyết của mình cho việc đào tạo người quân tử. Trần Trọng Kim cho
rằng: “Đã nói rằng đạo của Khổng Tử là đạo người quân tử cốt dạy người ta cho thành
người có đức hạnh hoàn toàn và có nhân phẩm tôn quý, cho nên bao nhiêu những sự dạy
dỗ, học tập của Khổng giáo đều chú cả vào sự gây thành người quân tử” [49, tr.99].
Nhằm mục đích trên, Khổng Tử luôn hướng họ vào mục đích làm người cai trị.
Khổng Tử cho rằng: mục đích của học giả đời xưa là học để có tri thức, để sửa mình, còn
mục đích của học giả đời nay là học để có địa vị và danh phận trong xã hội, tức là học để
làm quan, để dẫn dắt xã hội tới thịnh trị: “Người đời xưa vì mình mà học đạo; người đời
nay vì người mà học đạo” (Cổ chi học giả vị kỷ; kim chi học giả vị nhơn) [62, tr.226-
227]. Tư tưởng “Học chí dĩ dụng”, tức là học để ứng dụng có ích cho quốc gia xã hội,
luôn là mục đích cao nhất của người học. Nếu học mà không ứng dụng được, không thể
đưa tài học để giúp nước thì việc học đó há chẳng vô ích. Ông nói:
Như có ai đã học thuộc hết ba trăm thiên trong kinh thi, được bực quốc -
trưởng trao quyền hành chính cho mình, nhưng cai trị chẳng xuôi; được phái đi sứ
đến các nước ở bốn phương, nhưng tự mình chẳng có tài ứng đối; người ấy dẫu học
nhiều, nhưng có biết dùng tài học của mình chăng? (Tụng thi tam bá, thọ chi dĩ
chính, bất đạt; sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối; tuy đa, diệc hề dĩ vi?) [62,
tr.200-201].
Nếu người học chỉ có khư khư ôm lấy cái đạo học ấy mà không đem ra ứng dụng
thực hành thì sao có thể gọi là thực học được. Vì vậy, học đạo để hành đạo là yêu cầu
thiết thân đối với người được giáo dục.
Tư tưởng học để làm chính sự, làm quan để biến xã hội từ “loạn thành trị” của
Khổng Tử được các học trò rất thấm nhuần. Tử Lộ, một học trò của ông cho rằng: người
có học, có tài đức mà không ra làm quan là không hợp đạo nghĩa. Người quân tử ra làm
quan là để thi hành cái nghĩa lớn trung quân ái quốc mà thôi, chứ không phải mưu cầu
phú quý [62, tr.291]. Tử Hạ, một học trò khác của Khổng Tử, cho rằng: học ra làm quan
là một quá trình học đạo và hành đạo bổ sung cho nhau. Người đã làm quan thì cũng cần
phải học thêm, còn người học thì nên làm quan [62, tr.301].
Tuy nhiên, để truyền bá một cách rộng rãi tư tưởng nhân nghĩa của mình, mục
đích của Khổng Tử không chỉ là giáo dục cho người quân tử, mà đồng thời ông cũng giáo
dục cho cả bậc thứ dân. Một mặt, ông muốn kén chọn những người có đủ đức, đủ tài
trong nhân dân để gia nhập đội ngũ của giai cấp thống trị, tham gia vào công việc chính
trị quốc gia để ổn định trật tự xã hội, nhưng quan trọng hơn, Khổng Tử còn nhằm giáo
dục cho dân chúng đạo lý tam cương, ngũ thường, khuyên họ nên biết an phận thủ
thường, nên sống đúng với cái danh của mình, chịu sự cai trị của tầng lớp trên, tất cả
cũng nhằm duy trì trật tự, kỷ cương và sự ổn định của xã hội phong kiến. Ông nói:
“Người quân tử ở ngôi trên nhờ học đạo mà thương dân mến chúng; kẻ tiểu nhân ở bực
dưới nhờ học đạo mà biết tuân lệnh nhà cầm” (Quân tử học đạo tắc ái nhân. Tiểu nhân
học đạo tắc dị sử dã) [62, tr.270-271].
Như vậy, xuất phát từ việc coi giáo dục là một phương tiện chính trị hữu hiệu nhất
nhằm ổn định trật tự xã hội, mục đích của nền giáo dục Khổng Tử không thể không gắn
liền và góp phần thực hiện những mục tiêu chính trị. Có thể nói, trước yêu cầu của thực
tiễn, Khổng Tử đã “chính trị hoá” giáo dục một cách sâu sắc, trong đó, mục đích giáo dục
con người và mục đích phục hưng xã hội là thống nhất, không tách rời nhau. Những mục
đích này đã chi phối đến việc lựa chọn đối tượng giáo dục của Khổng Tử.
1.2.1.2. Đối tượng giáo dục
Khổng Tử đã đưa ra tư tưởng hết sức tiến bộ, đó là: “Hữu giáo vô loại” [62,
tr.254]. Câu này Đoàn Trung Còn dịch là “Quân tử giáo hoá người, chẳng phân biết
người thiện kẻ ác”, nghĩa này cũng tương tự như nghĩa Chu Hy dịch là “dù là người
thiện hay kẻ ác thì cũng dạy, chứ không phân biệt”, nhưng có một số tác giả khác lại
hiểu theo nghĩa khác. Nguyễn Đăng Thục giải thích là “có giáo dục thì không phân
biệt giai cấp”, còn Hà Thúc Minh thì giải thích là “Bất kỳ người nào cũng có thể giáo
dục được”. Mỗi học giả giải thích theo cách hiểu riêng của mình nhưng chung quy lại
đều thống nhất thừa nhận tư tưởng của Khổng Tử là: mọi người đều được giáo dục
không phân biệt giai cấp, thiện ác, và được giáo dục là quyền lợi của tất cả mọi người.
Tư tưởng này không chỉ xuất phát từ mục đích chính trị của ông mà nó còn bắt
nguồn từ quan niệm “tính tương cận dã, tập tương viễn dã”, tức là bản tính con người là
giống nhau, nhưng do tập quán thói quen mà làm cho bản tính con người xa nhau. Chính
vì vậy, Khổng Tử lấy giáo dục làm phương tiện để làm cho con người trở về bản tính ban
đầu.
Với quan niệm “hữu giáo vô loài”, Khổng Tử đã có đông đảo học trò theo học.
Học trò của ông có đủ các lứa tuổi, tầng lớp, hạng người, bởi ai đến xin học ông đều nhận
dạy. Trong số học trò của ông có không ít người nghèo khó, nhưng ông quan niệm: “Kẻ
nào xin nhập môn, tự mình làm lễ dâng lên một thúc nem; thì chẳng bao giờ ta chê lễ
mọn mà chẳng dạy” (Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên) [62, tr.100-
101]. Theo Khổng Tử, người ham học hỏi thì dù nghèo khó đến đâu thì ông vẫn tận tình
dạy bảo, tuần tự dẫn dắt từng bước để người học tiến đến chỗ hiểu biết, kể cả những
người kém cỏi, năng lực nhận thức yếu ông vẫn nhận làm học trò và chỉ dạy chu đáo.
Ông nói: “Nếu có kẻ thô bỉ đến hỏi ta, dầu là kẻ tối tăm mờ mịt tới đâu, ta cũng đem hai
bề từ đầu chí đuôi mà dẫn giải cho thật tường tận mới nghe” (Hữu bỉ phu vấn ư ngã,
không không như giã, giã khấu kỳ lưỡng đoan, nhi kiệt yên) [62, tr.134-135].
Thậm chí Khổng Tử còn sẵn sàng dạy cho cả những người ác nghịch, khó dạy.
Chương Thuật nhi - 28 của cuốn Luận ngữ có kể lại câu chuyện: Ở làng Hồ Hương có
anh thanh niên có tiếng ác nghịch, khó có thể giảng dạy điều lành, lẽ phải cho được. Anh
thanh niên ấy đến yết kiến Khổng Tử để xin vào học, các môn đồ của ông có vẻ nghi kỵ
anh ta. Khổng Tử bèn dạy rằng:
Người ta có lòng tinh khiết mà đến với mình, thì mình vì lòng tinh khiết
ấy mà thâu nhận người, chớ mình không bảo lãnh những việc đã qua của
người. Lại nữa, ngày nay người ta đến với mình thì mình thâu nhận, chớ mình
chẳng bảo đảm người khi người thôi ra. Chỉ có thế thôi, cần gì phải nghiêm
khắc thái quá?. - Nhơn khiết kỷ dĩ tấn, dữ kỳ khiết dã, bất bảo kỳ vãng dã; dữ
kỳ tấn dã, bất dữ kỳ thối dã. Dã hà thậm [62, tr.112-113].
Với tư tưởng “hữu giáo vô loài”, Khổng Tử đã thâu nhận một lượng học trò đông
đảo và đa dạng. Trong số các học trò của ông vừa có con em quý tộc như Tử Du, Tử
Tiện, Nam Cung Kinh Thúc,…; lại có cả bình dân gia cảnh bần hàn, xuất thân hèn kém
như Nhan Hồi, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Cầu, Nhiễm Ung,…; vừa có những người buôn
bán như Tử Cống, Tử Trương,…; vừa có con nhà lao động như Tăng Sâm,…; vừa có
người trước đây là hạng bất thiện như Nhan Trác Tụ, hay “cuồng phóng” như Sầm
Trương, Mục Bì,…
Tuy nhiên, bên cạnh quan niệm bình dân trong giáo dục, Khổng Tử lại chia ra
nhiều hạng người khác nhau. Sự phân chia này cho thấy nhiều mâu thuẫn và hạn chế
trong quan niệm của ông về đối tượng giáo dục. Khổng Tử cho rằng:
Con người sinh ra, tự nhiên biết được đạo lý, đó là hạng người cao
thượng. Cần phải học rồi mới biết, đó là hạng thứ hai. Tự mình ám độn, nhưng
chịu khó học tập đạo lý, đó là hạng thứ ba. Đã ám độn mà chẳng chịu học tập
là hạng người đê hèn vậy (Sanh nhi chi tri giả, thượng giã. Học nhi chi tri giả,
thứ giã. Khốn nhi học chi, hựu kỳ thứ giã. Khốn nhi bất học, dân tư vi hạ hỹ)
[62, tr.264-265].
Thậm chí, ông còn khẳng định: “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không đổi
nết của mình” (Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di) [62, tr.270]. Rõ ràng ở đây, có nhiều
mâu thuẫn với quan niệm “hữu giáo vô loài” của ông, và khi xét đến cùng, Khổng Tử
cũng chưa thể vượt qua những rào cản hoàn cảnh và thời đại.
Như vậy, đối tượng giáo dục của Khổng Tử, một mặt, mang tính chất bình đẳng
và hết sức tiến bộ, nhưng mặt khác, nó không vượt qua được hạn chế bởi tầm nhìn lịch sử
và tính chất hết sức nghiệt ngã của chế độ phong kiến. Nhìn chung, đối tượng giáo dục
của Khổng Tử có thể chia làm hai loại: trước hết là tầng lớp quý tộc thống trị, đây vẫn là
đối tượng giáo dục chính của Khổng Tử nhằm tạo ra lớp người bổ sung vào tầng lớp cai
trị xã hội. Sau đó tầng lớp thứ dân, tuy rằng không phải tất cả mọi người trong tầng lớp
này đều là đối tượng của giáo dục mà chỉ có những người biết lắng nghe lời khuyên bảo
của thánh hiền, còn đối với những kẻ vô đạo, tiểu nhân thì mãi mãi không cải tạo được.
1.2.2. Nội dung giáo dục của Khổng Tử
Xuất phát từ quan niệm bản tính con người là ngay thẳng, là thiện; cũng như quan
niệm cho rằng nguyên nhân của “vương đạo suy vi, bá đạo nổi lên” là ở con người. Do
con người không có “đạo”, làm trái với “đạo”. “Đạo” mà Khổng Tử nói đến ở đây thực
chất là “đạo làm người”. Chính vì con người không có “đạo” mới dẫn đến chuyện tranh
giành quyền lực, địa vị, đất đai, chém giết lẫn nhau làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn,
làm cho xã hội rối loạn. Để cho xã hội trở lại thanh bình, theo Khổng Tử phải làm cho
con người có “đạo”, hiểu “đạo”, làm theo “đạo”. Đạo mà Khổng Tử nói đến ở đây chính
là Nhân, Lễ và Chính danh định phận.
Nhân vốn là một phạm trù đạo đức của quý tộc chủ nô thời Ân, Thương, bao gồm
nhiều nội dung như việc tuân theo ông cha, yêu con người, làm lợi cho đất nước, che chở
cho dân,… nhưng những nội dung đó chưa trở thành một hệ thống chặt chẽ mà là những
nội dung riêng rẽ. Khổng Tử đã kế thừa tư tưởng Nhân của người trước, đồng thời bổ
sung cho Nhân những nội dung mới, biến nó trở thành một hệ thống chặt chẽ, rộng lớn
bao trùm tất thảy các phạm trù khác như Trung thứ, Trí, Dũng, Nghĩa, Hiếu đễ, Khoan
thứ,… và chứa đựng toàn bộ tư tưởng của ông về đạo trị nước an dân, đạo làm người.
Nhân là phạm trù cốt lõi trong đạo trị nước và đạo làm người của Khổng Tử. Cho
nên, nó được ông đề cập rất nhiều và rất phong phú. Trong cuốn “Luận ngữ” - một tác
phẩm do học trò chép lại những lời dạy của Khổng Tử, có đến 58 chương với 109 lần
Khổng Tử nói đến Nhân nhưng không lần nào giống lần nào. Tuỳ theo từng đối tượng,
từng hoàn cảnh mà Khổng Tử đề cập đến Nhân theo những nghĩa khác nhau. Theo nghĩa
sâu rộng nhất, Nhân là một nguyên tắc đạo đức trong triết học Khổng Tử. Nhân được ông
coi là cái quy định bản tính con người thông qua Lễ, Nghĩa, quy định quan hệ giữa người
và người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội.
Nhân trong tư tưởng Khổng Tử đó là yêu người. Khi Phan Trì hỏi Khổng Tử về
đức nhân, Khổng Tử đáp: Nhân là “yêu người” (Ái nhơn) [62, tr.192-193]. Nếu nhìn toàn
bộ tư tưởng của ông, phải xem nội dung trên là tiêu biểu cho điều Nhân. Nhân là "yêu
người", nhưng người nhân cũng còn phải biết "ghét người". Với Khổng Tử thì chỉ có
người có đức nhân mới biết "yêu người" và "ghét người". Khổng Tử nói: "Duy có bậc
nhân mới thương người và ghét người một cách chính đáng mà thôi” (Duy nhân giả năng
háo nhơn, năng ố nhơn) [62, tr.50-51].
Có người cho rằng, Nhân với nghĩa là “yêu người” là chỉ con người trong giai cấp
thống trị, và yêu người trong tư tưởng Khổng Tử chỉ là yêu người trong giai cấp phong
kiến. Thực ra, khái niệm Nhân mà Khổng Tử dùng ở đây là để đối với "cầm thứ”. Do đó,
đi liền với Nhân là các khái niệm "thiện nhân", "đại nhân", "thành nhân", "nhân nhân",
"thánh nhân", "tiểu nhân" Các khái niệm này nhằm chỉ những con người có tính cách
khác nhau, trình độ đạo đức khác nhau. "Thánh nhân" là người có đạo đức cao siêu, "tiểu
nhân" là người có tính cách thấp hèn… Nhân ở đây là chỉ con người nói chung và "ái
nhân" là yêu người, yêu bất cứ người nào, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội của họ.
Nhân còn có nghĩa là Trung thứ. Tức là cái gì mà mình muốn làm thì cũng phải
giúp người khác được như vậy. Khổng Tử nói: “người nhân muốn tự lập lấy mình thì
cũng lo mà thành lập cho người khác; hễ muốn cho mình thông đạt thì cũng lo làm cho
người được thông đạt; hễ xử với mình thế nào thì cũng xử với người chung quanh mình
thế ấy” (Nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhơn; kỷ dục đạt nhi đạt nhơn; năng cận thủ thí)
[62, tr.96-97]. Ý nghĩa của câu nói trên tạo thành hai vế của đạo trung, thứ. Vế tích cực
và vế tiêu cực. Vế tích cực là “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”, nghĩa là
mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì giúp
người khác thành đạt; đó chính là đức trung, là yêu người, hết lòng với người; còn vế tiêu
cực là “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, đây là đức thứ, là suy lòng mình mà biết lòng
người, mình muốn cái gì thì người cũng muốn cái đó, vậy nên làm cho người những cái
mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mà mình không muốn. Theo Lý Tường
Hải, yêu cầu nguyên tắc ở trung thứ là muốn người ta trong mọi lời nói việc làm đều lấy
một tấm lòng nhân ái mà làm theo. Đã không đem cái xấu của mình mà cưỡng chế người
khác, cũng không ép người ta cứ phải theo ý tứ của mình, mà là vui vẻ giúp đỡ người khác gặt
hái được thành tựu. Cái mà đạo trung thứ nhấn mạnh là thông qua có lòng nhân ái gần gũi với
mọi người, đạt đến một sự cảm thông chan hoà và có được một khung cảnh lý tưởng: thiên hạ
quy tụ ở Nhân ái [38, tr.31].
Nhân còn bao hàm năm tiêu chí: cung, khoan, tín, huệ, mẫn. Năm điều “đức hạnh”
này, theo Khổng Tử đó là nghiêm trang tề chỉnh (cung), có lòng rộng lượng (khoan); có
đức tín thật (tín); mau mắn siêng năng (huệ); và thi ân bố đức (mẫn). Khổng Tử cũng giải
thích vì sao có năm điều “đức hạnh” này lại có nhân. Ông nói: “Nếu mình nghiêm trang
tề chỉnh, thì chẳng ai dám khinh dễ mình. Nếu mình có lòng rộng lượng, thì mình thâu
phục lòng người. Nếu mình có đức tín thật, thì người ta tin cậy mình. Nếu mình mau
mắn, siêng năng, thì làm được công việc hữu ích. Nếu mình thi ân bố đức, thì mình sai
khiến được người” (Cung tắc bất vũ; khoan tắc đắc chúng; tín tắc nhơn nhậm yên; mẫn
tắc hữu công; huệ tắc túc dĩ sử nhơn) [62, tr.272-273]. Theo Nguyễn Hiến Lê, năm đức
trên nếu xem xét kỹ thì có thể thấy: cung, mẫn, tín là kỷ dục lập, kỷ dục đạt; còn khoan,
tín, mẫn, huệ là lập nhân, đạt nhân. Vậy nhân tuy có nhiều phương diện, phạm vi rộng,
nhưng không ngoài nội dung “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” [55,
tr.197-198].
Ngoài ra, Nhân còn bao gồm Hiếu đễ. Hiếu đễ là tiêu chuẩn trong gia đình. Hiếu
là tiêu chí của con cái đối với cha mẹ. Đễ là tiêu chí của người em đối với anh chị và
người lớn tuổi. Khổng Tử xem Hiếu đễ là cái gốc của nhân. Ông cho rằng, người mà biết
giữ gìn nết hiếu, nết đễ, tức là biết nắm lấy cái gốc của nhân. Người có nhân là người biết
kính yêu cha mẹ và người lớn trong nhà, có như vậy mới biết yêu thương người ngoài.
Người cầm quyền muốn trị nước an dân thì cần phải có hiếu đễ.
Chính vì vậy, Khổng Tử yêu cầu rất chặt chẽ về Hiếu đễ. Những người biết đem
hết sức mình thờ phụng cha mẹ, liều thân phục vụ vua, chân tình với bằng hữu đó là
những người có học. Đối với cha mẹ, Khổng Tử yêu cầu không chỉ chăm sóc cha mẹ có
hiếu đễ, mà đồng thời phải có lòng thành kính. Trả lời Tử Du về đạo hiếu, Khổng Tử nói:
Đời nay, hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là người có hiếu.
Nhưng những thứ như chó, ngựa thì người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên nuôi
cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu) (kim chi hiếu giả, thị
vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng. Bất kính hà dĩ biệt hồ?)
[62, tr.18-19].
Khổng Tử cũng đã mắng Tể Dư là người bất nhân vì bất hiếu, muốn rút thời gian
để tang cha mẹ từ ba năm xuống còn một năm [62, tr.280-281].
Khổng Tử cũng khuyên mọi người phải thờ phụng cha mẹ một cách sáng suốt, khôn
khéo nhưng phải cung kính. Không phải cha mẹ nói gì cũng nghe dù cha mẹ đúng hay sai.
Người có hiếu phải biết phân biệt những điều đúng của cha mẹ mà tuân theo, những điều
chưa đúng của cha mẹ mà can gián. Ông nói: “làm con thờ cha mẹ, như thấy cha mẹ lỗi lầm
thì nên can gián một cách dịu ngọt. Như thấy ý tứ cha mẹ chẳng thuận theo lời khuyên của
mình, thì mình vẫn một lòng cung kính và chẳng trái nghịch. Như cha mẹ giận mà khiến
mình làm công việc cực khổ, chớ có đem dạ oán hờn” (Sư phụ mẫu cơ gián. Kiến chí bất
tùng, hựu kính, bất vi. Lao, nhi bất oán) [62, tr.58-59].
Như vậy có thể thấy, mặc dù Hiếu đễ là gốc của nhân nhưng nếu Nhân là bậc
thang cao nhất của người quân tử thì hiếu đễ lại là giá trị phổ biến hơn, có ở tất cả mọi
người, vì con người hầu như ai cũng có hiếu đễ, nhưng nhân thì chỉ có ở người quân tử.
Có hiếu đễ chưa hẳn có nhân, nhưng chưa thấy người nào có nhân mà bất hiếu.
Nhân cũng cao hơn đức trung và cao hơn sự thanh khiết. Theo Khổng Tử, một
người có trung, có thanh khiết chưa hẳn đã là người có nhân. Khi Tử Trương hỏi thầy
mình về chuyện ông Tử văn ba lần được bổ đi làm quan nhưng không tỏ vẻ hân hoan, ba
lần bị phế nhưng không tỏ ra giận dữ vậy là người có nhân không?, thì Khổng Tử trả lời:
“Ta không biết, nhưng với lòng trung ấy, sao được gọi là nhân?” [62, tr.74-75]. Tử
Trương lại hỏi thầy mình về chuyện ông Trần Văn Tử bỏ chức quan đại phu và sự phú
quý vì vua phản nghịch thì có được gọi là nhân không?, Khổng Tử trả lời: “Ta chưa biết.
Nhưng với đức thanh khiết ấy sao được gọi là nhân?” [62, tr.74-75].
Nhân trong tư tưởng của Khổng Tử còn bao hàm rất nhiều nghĩa khác nữa. Khi
Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về Nhân, Khổng Tử đã nói:
Làm nhân là khắc kỷ, phục lễ, tức là chế thắng lòng tư dục, vọng niệm
của mình và theo về lễ tiết. Ngày nào cũng khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi
người trong thiên hạ tự nhiên cảm hoá mà theo về đức nhân. Vậy nhân là do
mình, chớ há do người sao? (Khắc kỷ, phục lễ, vi nhân. Nhứt nhựt khắc kỷ,
phục lễ, thiên hạ quy nhân yên. Vi nhân do kỷ, nhi do nhơn hồ tai?) [62,
tr.180-181].
Còn khi Phàn Trì hỏi về Nhân, Khổng Tử giảng giải rằng, “khi ở nhà thì giữ diện mạo
cho khiêm cung, khi làm việc thì thi hành một cách kính cẩn, khi giao thiệp với người thì giữ
đức trung thành. Dẫu có đi đến các nước rợ Di, Địch cũng chẳng bỏ ba cái đó, như vậy là
người có đức nhân” (Cư xử cung, chấp sự kinh, dữ nhơn trung. Tuy chi di - địch, bất khả khí
dã) [62, tr.206-207]. Không những thế, theo Khổng Tử, “Người nhân trước phải làm những
việc khó, rồi sau mới đến thu hoạch kết quả, như vậy mới có thể gọi là nhân” (nhân giả tiên
nan; nhi hậu hoạch, khả vị nhân hỹ) [62, tr.92-93] và "người cứng cỏi, can đảm, kiên tâm,
quyết chí, chất phác, thật thà, ít ăn ít nói thì gần với nhân” (Cương, nghị, mộc, nột cận
nhân) [62, tr. 212-213].
Theo Khổng Tử, chỉ có người nhân mới có thể có được cuộc sống an vui lâu dài
với lòng nhân của mình và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào, cũng có thể yên ổn, thanh thản.
Do vậy, theo ông, "bậc quân tử không bao giờ lìa bỏ điều nhân, dẫu chỉ trong một bữa ăn.
Người quân tử không bao giờ ở sai điều nhân, dẫu trong lúc vội vàng, khi ngả nghiêng
cũng vẫn theo điều nhân - Quân tử khử nhân, ố hồ thành danh?” (Quân tử vô chung thực
chi gian vi nhân. Tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị) [62, tr.52-53].
Nhân là một phạm trù cốt lõi trong triết học Khổng Tử. Nó có quan hệ chặt chẽ
với các phạm trù đạo đức khác để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ và do
vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như
những vòng tròn đồng tâm thì Nhân là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong
bản tính con người, còn xung quanh có Trí, Dũng, Lễ…