Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Gián án Về tác phẩm Vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.12 KB, 5 trang )

NHÂN VẬT TRÀNG
1.Lai lịch, ngoại hình:
- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân
cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không có ruộng đất, những
thứ vô cùng quan trọng đối với người nôn dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối
xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là
“nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn
nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay
chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
- Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con
đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn
vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm
bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý
nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như
lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh.
2.Tính cách:
- Tràng là người vô tư, nông cạn.
+Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh
ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con
trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy
hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa
kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ
trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.
+Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là
lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của
anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng
cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhậ đưa về nhà để thành…
vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!
- Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.
+Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi
thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương


đối với một con người đói khát hơn mình.
+Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị
vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh
một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng
sủa một tí.
+Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà
Tràng coi thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua
dầu về thắp sáng), có lúc muốn thân mật nhưng không dám suồng sã. Tràng trân trọng,
nâng niu hạnh phúc mà mình có được: Trong lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê
chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày
trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên.
Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghò khổ ấy, nó ôm ấp mơn
man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.
- Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.
+Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng,
có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng
mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.
+Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan
tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế
ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có
đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói
ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to
lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá
cờ bay phấp phới... Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những bước ngật
ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào
buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi
sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ
bay phất phới.
3.Số phận:
- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng

Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác
phẩm cùng tên Nam Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu),
trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.
- Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến
của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi
đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với
cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế
lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt
là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng
có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi
vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay
lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề,
tăm tối hằng ngày, chie còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết
ngượng ngiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.
- Qua nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực
xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm
hồn cua họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động
bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao...
Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Vợ nhặt.
Một trong những đặc sắc của truyện Vợ nhặt là Kim Lân đã sáng tạo một tình huống
truyện vô cùng độc đáo.

1. Nhan đề Vợ nhặt cũng là một nét độc đáo (giải thích)
2. Mở đầu truyện là bức tranh xám ngắt về ngày đói: (đưa bức tranh ngày đói vào)
3. Đó là tình huống một anh cu Tràng nghèo khổ xấu trai, ế vợ đang đứng ngấp nghé bên
bờ vực của cái chết vì đói khát lại nhặt được vợ trong nạn đói khủng khiếp 1945.
+ Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì
không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui “ Muốn ăn cơm trắng

mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt
trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo
đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò.
Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái “cười tít mắt của thị” bởi “từ
xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”.
+ Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người
đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “ Điêu, người thế mà điêu”. Tràng
không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn
bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy
lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa. Thấy người đàn bà đói, rách rưới
thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có
một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn
mà còn cho ăn rất nhiều “ bốn bát bánh đúc”. Đó chính là lòng thương một con người đói
khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo. Vốn tính hay đùa,
Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về”. Nói
đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết“mới
đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không,
lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có
lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc
lưỡi “ Chậc kệ!” . Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ
hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.

Bình luận: Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để
nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần
chỗ dựa. Một người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ LIỀU, nhưng cái
Liều kia của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì
họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục
và kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một
giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn
đói ?


4. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng, và cả bản thân của
Tràng nữa, vì hai lí do: - Một là, Tràng - một người nghèo túng, xấu xí, dân ngụ cư (bị
người làng khinh bỉ) xưa nay đàn bà con gái chẳng ai thèm để ý. Vả lại không có tiền cưới
vợ, vậy mà bỗng dưng lấy được vợ, lại là vợ theo hẳn hoi. - Hai là, giữa lúc đói kém này,
người như Tràng, chỉ làm nghề đẩy xe bò thuê kiếm sống qua ngày, đến nuôi thân còn
không nổi lại còn đèo bòng vợ với con. Bời vậy mới dẫn đến SỰ NGẠC NHIÊN VÀ
THƯƠNG CẢM: Trước hết là sự ngạc nhiên của cả xóm ngụ cư: Nhìn theo bóng Tràng và
người đàn bà, mỗi người một suy nghĩ khác nhau, ai cũng ngạc nhiên, phân vân “ai đấy nhỉ
? Hay là người nhà bà cụ Tứ dưới quê lên”, có người cười “ hay là vợ anh cu Tràng ?”, có
người thương hại “Biết có nuôi nổi nhau qua cái thời đói khát này không ?” Bà cụ Tứ: mẹ
Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà
đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng
con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ
nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra. Nhân vật Tràng: Tình huống càng bất ngờ đến hài
hước khi chính Tràng cũng vẫn còn "ngỡ ngàng". "Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn
vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?". Mọi chuyện xảy ra quá bất
ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà
thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị...Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng một câu nói
suông. Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau. Trong cái
thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo,
buồn hay vui cho cặp vợ chồng này?

5. Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật được giá trị hiện
thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm: - Không cần đến những lời kết tội to tát mà tội ác
của bọn thực dân, phát xít và tay sai vẫn hiện lên rõ mồn một. Đó là nạn đói khủng khiếp
năm 1945 với trên hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của con
người thật rẻ rúng. Người ta có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc…. Đúng là “nhặt” được
vợ như lời tác giả nói. - Người dân lao động VN dù ở trong tình huống bi thảm như thế nào
đi chăng nữa họ vẫn tin tưởng vào ngày mai tươi sáng: ( Bà cụ Tứ có niềm tin như thế

nào ? người vợ nhặt sau khi được chấp nhận làm dâu thì trở nên như thế nào? Tràng có ý
thức ra sao sau đêm tân hôn )
DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG BÀ CỤ TỨ
- Bà cụ Tứ là người dân ngụ cư, nghèo khổ, góa bụa, ở vậy nuôi con, chịu nhiều đắng cay,
cơ cực. Bà xuất hiện trong bóng chiều hôm chạng vạng tê tái với hình ảnh "lọng khọng từ
ngoài ngõ vào vừa đi vừa lầm bầm tính toán gì trong miệng". Bà cũng như bao người mẹ
Việt Nam khác rất mực yêu thương con cái.
Vẻ đẹp nhân văn được thể hiện qua diễn biến tâm trạng
* Lúc đầu bà ngạc nhiên
- Thấy Tràng "reo lên như một đứa trẻ", vồn vã khác thường khi thấy mẹ, tâm
trạng bà cụ Tứ cũng trở nên "phấp phỏng": Có cái gì đó bất thường đang chờ đợi bà. Đầu
tiên là tâm trạng ngạc nhiên: Ngạc nhiên đến nỗi bà phải " đứng sững lại". Bởi căn nhà
xưa nay chỉ có bà và Tr nay lại thấy xuất hiện một người đàn bà xa lạ. Vì thế hàng loạt
những câu hỏi luẩn quẩn trong đầu bà: "Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ? Người đàn bà nào đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào
mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?". Vì ngạc nhiên, phân vân nên
bước chân của bà lão cũng "lập cập". Khi đã vào trong nhà, Bà cụ Tứ lại càng ngạc nhiên
hơn khi nghe thấy tiếng người đàn bà xa lạ chào mình bằng u.
* Khi hiểu ra bà tủi phận.
- Khi nghe Tràng phân trần, cắt nghĩa: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ", bà cụ
mới hiểu. "Bà lão cúi đầu nín lặng". Một sự im lặng chất chứa biết bao suy nghĩ. "Bà lão
hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa
xót thương cho số kiếp đứa con mình". Một nỗi tủi hờn, xót thương trào lên trong lòng
bà cụ Tứ "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc ăn nên làm nổi những
mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này...Còn mình thì...". Đằng sau lời độc thoại bỏ lửng
đó người đọc có thể thấy được nỗi cay đắng của bà đang dâng lên tột đỉnh và người mẹ
nghèo khổ ấy đã khóc " Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt...".
* Bà lo lắng: Thương con nên lo lắng cho con: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi
nhau sống qua được cơn đói khát này không". Suy nghĩ này của bà cụ Tứ chứng tỏ bà
đang rất lo lắng cho tương lai của hai con. Cũng chứng tỏ sự ám ảnh về nạn đói ấy thật

khủng khiếp.
*Từ tủi phận và lo lắng bà lão chuyển sang tâm trạng vừa vui mừng vừa
thương xót anh con trai và người vợ nhặt. Vui mừng vì con có hạnh phúc, xót thương
vì sự thật quá phũ phàng. Bà thở dài nhìn người đàn bà đang vân vê tà áo đã rách bợt nay
đã là dâu con của bà. Càng nhìn bà càng thương thị lại càng thương con mình "Người ta
có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được
vợ. May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó".
- Sau khi khẽ dặng hắng một tiếng, bà lão ôn tồn, "nhẹ nhàng" nói với nàng dâu: "Ừ thôi
thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng..." . Ngôn ngữ của bà lão
nhẹ nhàng, cái nhìn của bà với nàng dâu đầy cảm thông. Tất cả xuất phát từ tình yêu
thương con người của bà lão. Lời nói ấy làm anh Tràng nhẹ nhõm và cũng đã trả lại danh
dự cho người đàn bà là mang tiếng "theo trai".
* Bà lão chợt nhớ ra cái bổn phận mẹ chồng. Thế là bà lão bắt đầu nói với 2 vợ
chồng, bà dặn dò các con "Nhà ta thì nghèo con ạ! Vợ chồng chúng mày liệu bảo nhau
mà làm ăn". Bà ấp ủ và hướng hai con vào niềm tin tưởng ở tương lai phía trước với triết
lí dân gian gần gũi "Rồi may ra ông giời cho khá...Biết thế nào hở con, ai giầu ba họ, ai
khó ba đời". Điều này chứng tỏ bà là một bà mẹ chu toàn. Đây chính là niềm lạc quan hy
vọng đổi đời.
* Vì thương con bà lại ám ảnh chuyện cũ: "Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà
lão nghĩ đến ông lão , nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc
của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia
không?".
* Song nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương yêu của bà cụ Tứ : Bà lão, nhìn
người đàn bà, lòng đầy xót thương. Và cũng như biết bao bà mẹ nhân từ khác, bà cụ Tứ
những mong con dâu mình hoà thuận. Bà an ủi đôi vợ chống son "Kể có được dăm ba
mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chẳng ai người ta chấp nhặt chi lúc này.
Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy
nhau lúc này u thương quá". Bà cụ Tứ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ cháy
xuống ròng ròng. Những giọt nước mắt xót xa, tủi nhục ấy, người vô tâm như Tràng làm
sao có thể hiểu nổi.

* Sáng hôm sau: Bà cụ Tứ thật khác với ngày hôm qua . Người đọc thấy bà "nhẹ
nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Cùng
với nàng đâu, bà cụ xăm xắn thu dọn; quét tước nhà cửa. Người mẹ từng trải và nhân hậu
ấy đã bằng mọi cách nhen nhóm một niềm vui, niềm hi vọng cho dâu con của mình. Bà
cụ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà dặn Tràng nuôi gà để
"Chẳng mấy chốc có ngay đàn gà cho mà xem".
Bà cố gắng tạo niềm vui bằng nồi chè cám, nồi chè bà đã dành dụm chắt chiu để hôm nay
mới có dịp đãi con. Tuy không ai nuốt nổi nhưng chắc chắn rằng không ít người đọc đã
chảy nước mắt trước tấm lòng cao thượng ấy của người mẹ nông dân nghèo khổ.
Nghệ thuật:
KL :Bà cụ Tứ là hình ảnh điển hình về một người mẹ nghèo khổ nông dân Việt Nam với
phẩm chất cao đẹp: thương con và giầu đức hy sinh, hiểu biết , lạc quan. Nhân vật mẹ Tứ
thấm đượm tình cảm nhân đạo sâu xa vốn có trong truyền thống dân tộc. Và là một sáng
tạo xuất sắc của KL. Khắc họa hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, KL đã sử dụng một ngòi
bút trong sáng, chọn lọc để miêu tả tỷ mỉ, chân thực tấm lòng vừa trắc ẩn, vừa bao dung
của một người mẹ nông thôn VN.

×