BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________________________
-----------------------
NGUYỄN ĐỨC THIỆN
XÂY DỰNG MƠ HÌNH TRUNG TÂM
XÂY
HÌNH
TRUNG
TÂM HỌC
TẬP
HỌCDỰNG
TẬP MƠ
CỘNG
ĐỒNG
Ở HUYỆN
TÂN
CỘNG
ĐỒNG Ở
HUYỆN
THÀNH, TÀU
TỈNH BÀ
THÀNH,
TỈNH
BÀTÂN
RỊA-VŨNG
RỊA-VŨNG TÀU
Chun ngành
Mã số
: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
: 60 14 05
LUẬN
LUẬN VĂN
VĂN THẠC
THẠC SĨ
SĨ GIÁO
GIÁO DỤC
DỤC HỌC
HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS : LÊ XN HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến :
- Thầy, Cô trong khoa Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
- Cán bộ, nhân viên Phịng Khoa học Công nghệ- Sau đại học trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh.
- Q Thầy, Cơ đã giảng dạy, tư vấn và cung cấp cho tôi nhiều ý tưởng nghiên cứu và kiến
thức quý báu trong thời gian tôi học tập tại trường. Đặc bịệt là Tiến sĩ Lê Xuân Hồng, người Cô
đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ, động viên tơi hồn thành luận văn này.
Qua đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn:
- Lãnh đạo Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu và các cán bộ quản lý các phòng
chức năng thuộc Sở.
- Lãnh đạo UBND và các phòng chức năng huyện Tân Thành.
- Lãnh đạo UBND và các ban, ngành đoàn thể , tổ chức xã hội thị trấn Phú Mỹ.
- Ban Chủ nhiệm các TTVH-HTCĐ xã Hắc Dịch, Phước Hoà, Mỹ Xuân và đặc biệt là Ban Chủ
nhiệm TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ.
- Gia đình thân yêu và các đồng nghiệp của tôi đã động viên, giúp đỡ tơi trong q trình nghiên
cứu đề tài.
Bằng hết sự nỗ lực của mình để hồn thành đề tài đã chọn, nhưng tôi chắc chắn luận văn
cũng không tránh khỏi những thiếu sót cần bổ sung. Hằng kính mong được tiếp nhận sự góp ý
xây dựng chí tình của q Thầy, Cô, quý bậc đàn anh đi trước và quý đồng nghiệp hầu giúp tơi
bổ sung thêm kiến thức bổ ích và sâu sắc hơn nữa về đề tài này.
Bà Rịa- Vũng Tàu, tháng 08 năm 2008
Nguyễn Đức Thiện
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục nước ta trong những thập niên qua đã đạt được một số thành tựu nhất định nhờ
sự chỉ đạo, quan tâm và đầu tư của Đảng và Chính phủ. Tính chất và nguyên lý giáo dục đã
được Luật Giáo dục 1998 và 2005 nêu rõ ở Chương I, Điều 3 “Nền giáo dục Việt Nam là nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại lấy chủ nghĩa MacLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo
nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.[32.tr 18]. Tuy
nhiên nền giáo dục vốn được xem là phúc lợi xã hội với cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch hóa
trước đây đã trở nên lạc hậu và kém hiệu quả. Vấn đề ngân sách trở nên quá tải đối với Nhà
nước, không thể đáp ứng đủ nhu cầu phát triển giáo dục nước nhà. Hơn thế nữa, cơ chế quan
liêu bao cấp cũng khơng cịn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi
mới. Trong bối cảnh đó, chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước càng trở nên
đúng đắn và hợp lý hơn bao giờ hết. Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là một giải pháp thích hợp
với thời kỳ phát triển kinh tế thị trường - thời kỳ mà đất nước ta đang nỗ lực đẩy nhanh q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. XHHGD phù hợp với xu thế học tập thường xuyên, cập
nhật và suốt đời đang phát triển và thịnh hành trên thế giới. Điều 12 Luật Giáo dục 2005 nêu “
Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại
hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá
nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.”[32,tr.22]. Một trong những phương thức
XHHGD có hiệu quả chính là mơ hình Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) phường, xã.
TTHTCĐ có thể đáp ứng các cơ hội học tập, sinh hoạt tinh thần cho tất cả mọi người trong
cộng đồng; thu hút mọi cá nhân, mọi tổ chức tham gia vào hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm
thỏa mãn những nhu cầu thay đổi trong đời sống cộng đồng, góp phần đưa cộng đồng trở nên
chủ động, tự lực trong giáo dục, trở thành một xã hội học tập (XHHT), góp phần thực hiện chủ
trương chiến lược “cả nước trở thành một xã hội học tập” của Đảng và Chính phủ. Những văn
bản về xã hội hóa và xây dựng XHHT gần đây đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng
và Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động giáo dục và chiến lược xây dựng xã hội học
tập giai đoạn 2005-2010.
Tháng 10/1999 , UNESCO đã chính thức đặt văn phòng đại diện tại Hà Nội và kể từ đó
văn phịng UNESCO Hà Nội đã hỗ trợ phát triển giáo dục nói chung và TTHTCĐ nói riêng.
Mơ hình TTHTCĐ đã hình thành và phát triển từ năm 1999 đến nay và cũng đã có nhiều địa
phương tiêu biểu trong phong trào xây dựng và phát triển TTHTCĐ. Số lượng các TTHTCĐ
trên toàn quốc đã tăng nhanh từ 15 vào năm 1999 đến hơn 5000 vào năm 2006 và dự kiến 7500
đến tháng 08 năm 2008. Những địa phương đi đầu trong quá trình xây dựng và phát triển mạnh
mạng lưới TTHTCĐ là tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Kon Tum,… với nhiều phương
thức hoạt động khá hiệu qủa. Tuy vậy ở nhiều tỉnh thành, hoạt động của TTHTCĐ cịn mang
tính hình thức. Mơ hình TTHTCĐ cịn khá mới mẻ và chưa được sự quan tâm đúng mức của
lãnh đạo các cấp chính quyền, các cơ quan, ban ngành , các cấp quản lý giáo dục. Thực tế, chưa
có một cơng trình nghiên cứu cấp nhà nước hồn chỉnh nào để làm cơ sở lý luận khoa học cho
hoạt động của TTHTCĐ. Nhìn từ góc độ quản lý vĩ mơ, Nhà nước cũng chưa hề có sự đánh
giá, tổng kết kinh nghiệm những hoạt động giáo dục cộng đồng mà nhiều địa phương trên cả
nước đã thực hiện từ nhiều năm qua để làm cơ sở thực tiễn cho việc tiến hành xây dựng và phát
triển TTHTCĐ rộng khắp ở các tỉnh, thành trên toàn quốc.
Huyện Tân Thành thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu được thành lập từ năm 1994 trên cơ sở
tách từ huyện Châu Thành cũ. Thời điểm đó, kinh tế địa phương chủ yếu là nơng nghiệp, văn
hóa, giáo dục chưa phát triển chỉ dừng lại ở mức độ học chữ chứ chưa chú trọng học nghề vì
người dân có quan điểm làm ruộng, rẫy chỉ cần có sức chứ khơng cần trí. Từ năm 1995, khi
Chính phủ có những dự án xây dựng các khu công nghiệp và các cụm cảng ở địa phương thì cơ
cấu kinh tế cũng thay đổi và biến động mạnh mẽ. Nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ và tay
nghề trở nên bức bách cả trong lĩnh vực nông nghiệp lẫn công nghiệp. Mãi đến lúc này nhận
thưc về học tập và giáo dục, đào tạo nói chung mới được đánh thức trong nhân dân.
Sau mười năm phát triển, mạng lưới trường lớp ở huyện được xây dựng đều khắp kể cả ở các
xã vùng sâu. Công tác xóa mù chữ được thực hiện rất thành cơng. Tuy nhiên hệ thống giáo dục
chủ yếu là hệ thống chính quy bao gồm các trường phổ thơng cơng lập từ bậc tiểu học đến
trung học phổ thông. Trung tâm Giáo dục thường xuyên của huyện hầu như chỉ để đảm nhận
cơng tác xóa mù chữ, hỗ trợ phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở và tổ chức các lớp bổ
túc văn hóa dành cho các đối tượng tại chức cần bổ túc bằng tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc
trung học phổ thông. Các TTHTCĐ chỉ mới được xây dựng ở một số nơi và giao cho cán bộ
văn hóa xã quản lý, phụ trách. Nhìn chung các TTHTCĐ này mới có hình thức chứ chưa có nội
dung, chương trình hoạt động nên chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, cập nhật kiến thức của
nhân dân địa phương. Nhận thức của nhân dân, thậm chí của một bộ phận cán bộ lãnh đạo về
xã hội học tập còn rất hạn chế, hầu như chỉ khoán trắng cho các trường phổ thông và Trung tâm
Giáo dục thường xuyên (TTGDTX). Trong khi đó nhu cầu học tập , nhu cầu được đào tạo và
tìm việc làm của nhân dân ở từng địa bàn cơ sở là rất lớn và rất đa dạng. Thực tế đó địi hỏi các
cấp chính quyền địa phương cần quan tâm đến thực hiện các chủ trương nhằm đẩy mạnh xã hội
hóa giáo dục, xây dựng một XHHT ở huyện nhà. Một trong những giải pháp hữu hiệu để xây
dựng XHHT theo kinh nghiệm của một số địa phương là mơ hình TTHTCĐ ở xã, phường, thị
trấn và thậm chí ở thơn ấp. Đây chính là vấn đề bức bách đặt ra cho các nhà lãnh đạo, quản lý
các cấp chính quyền, các cơ quan giáo dục địa phương và cũng chính là đề tài mà người viết
quan tâm nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng xây dựng XHHT bằng mơ hình TTVH-HTCĐ xã, thị trấn ở huyện
Tân Thành .
- Đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển TTVH-HTCĐ ở địa phương, góp phần
xây dựng XHHT ở huyện Tân Thành trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Tìm hiểu , phân tích , đánh giá thực trạng hoạt động của các TTVH-HTCĐ các xã và
thị trấn ở huyện Tân Thành trong thời gian 2005 đến nay.
- Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả một số hoạt động của TTVH-HTCĐ gắn liền với cuộc
sống cộng đồng ở các xã, thị trấn thuộc huyện Tân Thành .
- Nghiên cứu thử nghiệm hiệu quả của hoạt động TTVH-HTCĐ ở một xã- thị trấn ( thị
trấn Phú Mỹ)
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp xây dựng mơ hình TTVH-HTCĐ ở huyện Tân Thành , tỉnh Bà
Rịa Vũng Tàu.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Thực trạng XHHGD và xây dựng XHHT bằng mơ hình TTVH-HTCĐ ở tỉnh Bà RịaVũng Tàu và huyện Tân Thành.
5 . Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận về mơ hình TTHTCĐ làm định hướng cho
việc nghiên cứu đề tài.
5.2. Phân tích thực trạng các TTVH-HTCĐ xã, thị trấn ở huyện Tân Thành
5.3. Đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển mơ hình TTVH-HTCĐ góp phần
xây dựng XHHT ở huyện Tân Thành .
6 . Giả thuyết khoa học của đề tài
Việc các cấp chính quyền địa phương quan tâm, thực hiện tốt một số giải pháp phù hợp
với thực tiễn mà đề tài nghiên cứu, đề xuất sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động TTVH-HTCĐ ở
huyện Tân Thành phát triển có chiều sâu, hiệu quả và thu hút người học hơn .
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận :
- Phân tích , tổng hợp tài liệu .
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn :
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu .
- Phương pháp phỏng vấn .
- Phương pháp chuyên gia .
- Xử lý thông tin.
- Phương pháp thực nghiệm
8. Cấu trúc của luận văn
Luận vn gồm 3 phần : Mở ðầu - Nội dung - Kết luận và kiến nghị
Mở ðầu
: Một số vấn ðề chung
Nội dung
: Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương :
- Chương 1: Cơ sở lý luận về mơ hình hoạt động của TTVH-HTCĐ.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động TTVH-HTCĐ trên địa bàn huyện Tân Thành và thị
trấn Phú Mỹ.
- Chương 3: Kết quả thử nghiệm ở TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ và một số giải pháp
tăng cường công tác quản lý và tổ chức hoạt động TTVH-HTCĐ xã .
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu đề tài
- XHHGD nói chung và giáo dục cộng đồng nói riêng đã được tiến hành một cách hiệu
quả và tiến đến xây dựng một nền giáo dục tiên tiến ở nhiều quốc gia ở Châu Á như Malaixia,
Thai lan, Indonexia, Myanma,…. Với sự hỗ trợ của tổ chức UNESCO họ rất chú trọng xây
dựng một xã hội học tập bằng mơ hình TTHTCĐ xã, phường.
- Ở Việt nam, chủ trương xây dựng cả nước thành một xã hội học tập đã được Đảng và
Nhà nước khẳng định trong Nghị quyết TW4 khóa VII “ cần thực hiện một nền giáo dục
thường xun cho mọi người, khuyến khích các loại hình giáo dục khơng chính quy” và Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ IX cũng chỉ rõ “ Xây dựng một XHHT. Giáo dục và đào tạo là nền
tảng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của người Việt nam. Mọi tổ chức chính trị, xã hội, mọi gia đình đều có trách nhiệm chăm
lo và quản lý các hoạt động giáo dục” và “ đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng
những hình thức giáo dục chính quy và khơng chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả
nước thành một xã hội học tập”.
Ngày 14/04/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TW về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Chỉ thị nêu rõ
: Ban cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ngành, UBND các cấp trong phạm vi, quyền hạn, nhiệm
vụ của mình khẩn trương chỉ đạo việc xây dựng, ban hành các chủ trương, chính sách, kế hoạch
triển khai thực hiện đề án “xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010” của Chính phủ, nhất
là các chủ trương, chính sách đảm bảo phát triển hệ thống giáo dục thường xuyên, tổ chức dạy
nghề ở các quận, huyện, tạo điều kiện cho các hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng ở
xã, phường, thị trấn. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng các TTHTCĐ, phát triển nhiều loại hình
học tập đa dạng, phù hợp với điều kiện và nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân từng địa
phương, đơn vị. Vận động nhân dân tích cực học tập nâng cao dân trí, nghề nghiệp chuyên môn
nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng công việc và chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát
triển phong trào học tập với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, với phong trào làm kinh
tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Các viện nghiên cứu khoa học và phát triển giáo dục và các nhà nghiên cứu giáo dục đã
dành nhiều tâm sức nghiên cứu loại hình giáo dục khơng chính quy này. Tiêu biểu có các tác
giả và tác phẩm cũng như cơng trình nghiên cứu:
* “Xã hội hóa cơng tác giáo dục” (Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc chủ biên) nêu lên cơ sở lý
luận , cơ sở thực tiễn và cách làm XHHGD thông qua Đại hội giáo dục các cấp đồng thời nhấn
mạnh XHHGD là động lực nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài với các tiêu
chí : giáo dục hóa xã hội, dân chủ hóa giáo dục, cộng đồng hóa trách nhiệm, đa dạng hóa loại
hình giáo dục, đa phương hóa nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục, thể chế hóa sự quản lý
của nhà nước về giáo dục. [21]
* “ Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI” -cũng do GS.TS.Phạm Minh Hạc chủ biên -tổng hợp
kinh nghiệm thế giới về XHHGD. Theo đó XHHGD chính là việc giáo dục phải thích nghi với
xã hội, phải phục vụ nền kinh tế xã hội, phục vụ cuộc sống xã hội.[23]
* “ Xã hội hóa giáo dục” (PGS. Võ Tấn Quang ) giới thiệu các quan điểm và cách làm
XHHGD ở các bậc học, cấp học , XHHGD ở địa bàn nông thôn và đề cập đến vấn đề quản lý
nhà nước trong việc thực hiện XHHGD.[31]
Ngoài ra cịn nhiều bài báo, tạp chí viết về mơ hình TTHTCĐ, tiêu biểu như :
* “ Thực trạng và những giải pháp xây dựng và phát triển các trung tâm học tập cộng đồng
nhằm góp phần nâng cao dân trí ở thành phố Hải Phòng” của ThS Vũ Thị Thanh Hương.[26]
* “Trung tâm học tập cộng đồng- một mơ hình cần tiếp tục hoàn thiện và phát triển ở Việt
Nam” của Tạ Văn Sỹ.[33]
* “ Trung tâm học tập cộng đồng ở phường xã- hướng đi phù hợp để xây dựng xã hội học tập”
của ThS Phạm Quang Huân.[25]
* “ Những điều kiện xây dựng xã hội học tập” của PGS.TS.Mạc Văn Trang.[35]
Gần đây nhất có loạt bài viết về tiến trình xây dựng XHHT ở tỉnh Thái Bình đăng trên tạp chí
Thế giới trong ta.
Trên cơ sở lý luận được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, nhiều địa phương đã
bắt tay vào nghiên cứu thực hiện chiến lược xây dựng xã hội học tập. Tiêu biểu của phong trào
này là một số tỉnh ở phía bắc tổ quốc như Thái Bình, Hải Dương, Lào Cai, Hịa Bình, Bắc
Giang, Vĩnh Phúc và các tỉnh Tiền Giang, Kon Tum ... . Đặc biệt là tỉnh Thái Bình, một tỉnh có
phong trào giáo dục cộng đồng bằng mơ hình TTHTCĐ được xem là điển hình trên tồn quốc.
Tỉnh Thái Bình đã thực hiện tiến trình xây dựng xã hội học tập một cách có tổ chức từ lãnh
đạo các cấp chính quyền tỉnh, huyện đến xã / phừơng, thơn xóm và thực hiện thơng qua các
phong trào khuyến học “Gia đình hiếu học”, “ Dịng họ khuyến học”, “TTHTCĐ đạt chuẩn”
với sự tham mưu, góp sức của Hội Khuyến học tỉnh, huyện, xã. Đến đầu năm 2003 , Thái Bình
đã trở thành tỉnh đầu tiên trong tồn quốc hồn thành về số lượng và quy mơ xây dựng các
TTHTCĐ với 284 TTHTCĐ trên 284 xã, phường. Những xã/phường tiêu biểu trong hoạt động
này là Việt Thuận, Nguyên Xá, Hồng Phong, Tân Hòa, Song Lãng, Bách Thuận ở huyện Vũ
Thư, Thái Hồng ở huyện Thái Thụy,... . Phong trào giáo dục cộng đồng tỉnh Thái Bình đã được
Đảng và Nhà nước đánh giá cao như lời phát biểu của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm : “Đây
là một sự kiện thành công, quan trọng của Đảng bộ và nhân dân Thái Bình trong việc xây dựng
XHHT từ cơ sơ, đã đóng góp những kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển chung của cả
nước”. Tuy nhiên phong trào xây dựng và phát triển các THHTCĐ tỉnh Thái Bình cũng chưa
được đúc kết và nhân rộng.
Riêng ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, từ năm học 2000-2001 Sở Giáo dục và Đào tạo đã cử
các chuyên viên tham dự các lớp tập huấn, hội thảo về xây dựng và phát triển các TTHTCĐ do
Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Trong nội dung học nghiệp vụ hè 2001, 2002, 2003 sở Giáo
dục và Đào tạo đã hướng dẫn các cán bộ, giáo viên các TTGDTX về phương thức tổ chức hoạt
động của TTHTCĐ xã, phường và các phương pháp dạy chuyên đề. Năm 2002 Sở Giáo dục và
Đào tạo đã xây dựng đề án thành lập TTHTCĐ giai đoạn 2002-2005 trình UBND tỉnh phê
duyệt và được phép triển khai đề án. Tuy nhiên do Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa ban hành quy
chế tổ chức và hoạt động TTHTCĐ nên địa phương vẫn còn nhiều vướng mắc trong quá trình
thực hiện. Thực tiễn cho thấy rằng hoạt động của các TTHTCĐ gắn liền với hoạt động của các
trung tâm văn hóa xã, phường do đó UBND tỉnh giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với
Sở Văn hóa- Thơng tin và Hội Khuyến học tỉnh xây dựng đề án mơ hình Trung tâm Văn hóaHọc tập cộng đồng (TTVH-HTCĐ). Ngày 16/07/2004 UBND tỉnh đã phê duyệt và ban hành
“Quy chế tạm thời tổ chức hoạt động Trung tâm Văn hóa- Học tập cộng đồng xã, phường tỉnh
Bà Rịa- Vũng Tàu” [37]. Quy chế gồm năm chương, mười một điều quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy, điều kiện cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động
của TTVH-HTCĐ xã, phường. Những văn bản này chính là hành lang pháp lý và là tiền đề để
các cộng đồng xã, phường, thị trấn đẩy mạnh tiến trình xây dựng và phát triển TTVH-HTCĐ ở
địa phương. Tuy vậy, vấn đề không dừng lại ở chỗ làm sao để xây dựng một TTVH-HTCĐ
khang trang về hình thức mà cốt lõi là việc làm sao để duy trì hoạt động TTVH-HTCĐ một
cách hiệu quả vẫn là vấn đề cịn bỏ ngõ đối với chính quyền và ban chủ nhiệm các TTVHHTCĐ địa phương.
1.2. Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
1.2.1 Vai trị, vị trí của giáo dục, đào tạo đối với phát triển kinh tế xã hội
Từ năm 1945, trong ngày khai trường đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà,
trong thư gởi học sinh, Bác viết: “Non sơng Việt Nam có trở nên vẻ vang hay khơng, dân tộc
Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ
một phần lớn ở cơng học tập của các cháu”. Sáu mươi hai năm trôi qua, đến nay câu nói đó
vẫn nhắc nhở chúng ta không thể coi thường việc học tập của thế hệ trẻ và giờ đây cả người lớn
tuổi, cả xã hội đều phải biết
nâng cao trình độ của mình để tồn tại và phát triển.
Đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Trung ương Đảng lúc phát biểu tại cuộc gặp gỡ
các đại biểu quốc tế tham dự Hội thảo “ Việt Nam trong thế kỷ XX”, vào tháng 09 năm 2000
tại Hà Nội, có nói: “ Dân tộc chúng tơi hiểu đầy đủ rằng dân tộc mình là một dân tộc nghèo,
một đất nước tuy đang phát triển nhưng ở mức thấp. Chúng tôi hiểu rõ khoảng cách của nền
kinh tế của chúng tôi và nền kinh tế của những nước phát triển trên thế giới. Chúng tôi hiểu rõ
khoa học cơng nghệ trong thế kỷ XXI sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ
đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, chúng tơi phải tri thức hố
Đảng, tri thức hoá dân tộc, tiếp tục tri thức hoá công nông, cả nước là một xã hội học tập, phát
huy truyền thống những ngày mới giành được độc lập năm 1945, cả nước học chữ, cả nước
diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói… Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm ngọn cờ dân
tộc. Một dân tộc dốt, đói nghèo là một dân tộc yếu. Nhân dân Việt Nam ngày nay có câu: đã
biết cầm đũa thì biết vót chơng, đã biết vót chơng thì mười ngón tay ấy sẽ biết học tập, sử dụng
máy vi tính, đi vào cơng nghệ thơng tin, cánh cửa của kinh tế tri thức …” ( Thông tin công tác
tư tưởng của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương Đảng CSVN số 10/2000- trang 3). Hiện tại,
chúng ta đang đi vào nền kinh tế tri thức vì ta thừa hiểu rằng thế kỷ XX khoa học kỹ thuật có
những bước nhảy vọt và thế kỷ XXI sẽ nhảy vọt cao hơn, sẽ xuất hiện nền kinh tế tri thức và đó
là nền kinh tế mà tri thức chiếm ưu thế hơn ba yếu tố vốn, lao động và công nghệ tạo nên sự
tăng trưởng của nền kinh tế. Khi đi vào nền kinh tế như vậy, yếu tố trí tuệ của con người trở
nên cực kỳ quan trọng và giáo dục trở thành một lĩnh vực cơ yếu quyết định đến vấn đề dân trí,
dân sinh.
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền
lợi của mọi người dân, mọi tổ chức kinh- tế xã hội. Theo quan điểm giáo dục thuần túy, giáo
dục giúp người học mở mang trí óc, gia tăng kiến thức và khả năng suy nghĩ trừu tượng, hiểu
biết sự thật, phát triển đạo đức cá nhân và năng khiếu thưởng thức mỹ thuật, nghệ thuật và biết
sống hài hòa với mọi người chung quanh. Thực tiễn hơn, giáo dục được xem là một phương
tiện giúp người học tích lũy tri thức, tiếp cận khoa học kỹ thuật, cải thiện khả năng và chất
lượng lao động cho tương lai. Mục tiêu giáo dục Việt nam là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài hay nói cách khác giáo dục chính là q trình tích lũy vốn con người
(human capital) cho cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục tác động mạnh mẽ
đến cả quá trình phát triển nhanh hay chậm của một quốc gia vì chính nền giáo dục quốc dân là
chiếc máy cái khổng lồ chịu trách nhiệm đào tạo ra con người phục vụ cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo trong tiến trình xây
dựng đất nước đã được Đảng và Nhà nước ta đặt lên vị trí “quốc sách hàng đầu” với quan
điểm chủ đạo “ đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” ( văn kiện Đại hội VII (1991),
VIII (1996), và IX (2001)) . Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đúc kết vấn đề này thành một chân
lý : “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.Với triết lý đó, giáo dục và nền kinh tế-xã hội có mối
quan hệ tương tác hai chiều theo tỷ lệ thuận: giáo dục, đào tạo tốt sẽ làm tăng chất lượng vốn
con người dẫn đến kết quả tất yếu là tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống
cộng đồng , đồng thời khi kinh tế tăng trưởng sẽ làm tăng thêm các nguồn lực đầu tư dành cho
giáo dục, thúc đẩy giáo dục phát triển. Có thể mượn ý câu nói của Bác để khẳng định vai trò
của giáo dục đối với nền kinh tế quốc dân : dân tộc Việt Nam có vẻ vang sánh vai các cường
quốc năm châu được hay khơng chính là nhờ tầm vóc của nền giáo dục nước nhà.
1.2.2. Quan điểm phát triển giáo dục thế giới trong xu thế hội nhập thế kỷ XXI
Trong bối cảnh thế giới đang phát triển như vũ bão về khoa học, kỹ thuật , công nghệ
đồng thời cũng đầy những biến động cực kỳ nhanh chóng về chính trị, văn hóa, tơn giáo và
lãnh thổ đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng muốn tồn tại và phát triển tốt phải thay đổi tư
duy và phải biết cách thích nghi. Trong xu thế đó UNESCO chủ trương phát triển giáo dục theo
chiến lược bao gồm 21 điểm, trong đó người viết chỉ đề cập đến những điểm quan trọng liên
quan đến việc hình thành và xây dựng một xã hội học tập mà giáo dục Việt nam cần vận dụng :
(1). Giáo dục thường xuyên phải là nét chủ đạo của mọi chính sách giáo dục.
(2). Giáo dục thường xuyên qua mọi lứa tuổi trong suốt cuộc đời và phải thực sự trở thành
phong trào quần chúng.
(3). Giáo dục phải được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác nhau và phải chú trọng đến
việc học cái gì và học được cái gì.
(4). Giáo dục cơ bản phổ thơng dưới nhiều hình thức khác nhau phải là mục tiêu hàng đầu của
chính sách giáo dục.
(5). Xóa bỏ sự phân biệt giữa giáo dục phổ thông và khoa học kỹ thuật và công nghệ. Giáo dục
phải kết hợp lý thuyết, công nghệ, thực hành và thủ công.
(6). Phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi nghề nghiệp; thực hiện đào tạo bổ sung
bằng hình thức tu nghiệp và học tập định kỳ.
(7). Giáo dục ngồi nhà trường, các xí nghiệp, các ngành kinh doanh cũng phải chịu trách
nhiệm về đào tạo kỹ thuật.
(8). Nhanh chóng phát triển giáo dục cho người lớn. Đây là một mục tiêu ưu tiên trong chiến
lược phát triển giáo dục.
(9). Mọi hoạt động giáo dục cộng đồng đều phải hướng vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội.
(10). Khi xây dựng các hệ thống giáo dục cần tính đến những khả năng do các kỹ
thuật mới đem lại. Các chương trình đào tạo giáo viên cần triệt để sử dụng các thiết bị và
phương pháp giảng dạy mới nhất.
(11). Cần tranh thủ sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức. Tạo điều kiện cho người học biết cách
tự học và giúp đỡ người khác học tập.
(12). Việc giảng dạy phải thích nghi với nhu cầu người học. Người học và công
chúng tham gia nhiều hơn trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến giáo dục.
Các quan điểm trên rất coi trọng giáo dục thường xuyên, giáo dục suốt đời cho mọi
người, không phân biệt tuổi tác. Chiến lược xây dựng cả nước thành một xã hội học tập, trong
đó xem trọng giáo dục khơng chính quy, giáo dục cộng đồng, của Đảng và Chính phủ rất phù
hợp với việc xây dựng nền giáo dục với các quan điểm
mới này.
1.2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chiến lược xây dựng cả nước thành một xã hội
học tập
Thế kỷ XXI được đánh dấu cho một kỷ nguyên khoa học công nghệ phát triển cao, kỷ
nguyên của nền kinh tế tri thức và sự hội nhập toàn cầu, và tất yếu nền giáo dục nước ta sẽ
được chú trọng đổi mới một cách sâu sắc và toàn diện “ chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay
sang mơ hình giáo dục mở - mơ hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên
tục, liên thông giữa các cấp học, ngành học ...” (Nghị quyết Đại hội Đảng X). Trên quan điểm
đó Đảng đã định hướng giáo dục nước ta trong thế kỷ XXI phải phát triển đạt đến mức quán
triệt nguyên tắc “ Giáo dục suốt đời” theo mơ hình XHHT. Đề án “Xây dựng xã hội học tập
giai đoạn 2005-2010” nêu rõ: “Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập với tiêu chí cơ
bản là tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập
thường xuyên, học liên tục, học suốt đời ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi trình độ; huy động
sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục, mọi người, mọi tổ
chức đều có trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập và tham gia tích cực xây dựng xã hội học
tập”. “Giáo dục thường xuyên thực hiện các chương trình học tập nhằm tạo các điều kiện tốt
nhất đáp ứng mọi yêu cầu học tập suốt đời, học tập liên tục của mọi công dân” được xem là
một bộ phận có chức năng quan trọng làm tiền đề để xây dựng xã hội học tập.[18,tr.146] Các
mục tiêu và nhiệm vụ của đề án đã phê duyệt thể hiện sự quyết tâm cao của toàn Đảng tồn dân
thực hiện thắng lợi cơng cuộc xây dựng cả nước thành một xã hội học tập. Các mục tiêu với
những tiêu chí cụ thể nhằm đảm bảo tỷ lệ người biết chữ trong từng độ tuổi và giữa hai giới
nam, nữ; tỉ lệ cán bộ xã, phường, cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước
được học tập, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ; tỷ lệ
người lao động được thụ hưởng các chương trình bồi dưỡng để nâng cao năng lực, năng suất
lao động và chất lượng cuộc sống. Trong đó, có mục tiêu đạt tỷ lệ 100% quận, huyện có Trung
tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện; 100% các tỉnh, thành phố có Trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp tỉnh và trên 80% các xã, phường, thị trấn trong cả nước xây dựng được
Trung tâm học tập cộng đồng. Chỉ thị số 02/2008/CT-TTg ngày 08 tháng 01 năm 2008 của
Thủ Tướng Chính phủ về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học
tập một lần nữa nhấn mạnh: “ Xây dựng XHHT là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là mục
tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta. Cần đẩy mạnh công
tác khuyến học, khuyến tài gắn với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, với phong trào
làm kinh tế giỏi, xố đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hố ở cơ sở, học đi đơi với
hành”. Thủ Tướng cũng yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện các giải pháp để phát triển
và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục thường xuyên, các TTHTCĐ, cơ sở dạy
nghề, trong đó tập trung đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu, phương pháp học tập đáp ứng
nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân. Bên cạnh đó, Chỉ thị cũng nêu rõ trách nhiệm của các
bộ, các tổ chức liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính phải nghiên cứu, xây
dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ hợp lý tạo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển các cơ sở giáo
dục thường xuyên, các TTHTCĐ.Như vậy, với quan điểm giáo dục cho mọi người và mọi
người đều tham gia giáo dục, bên cạnh những nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm, đề án “xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2005-2010” đã chú ý việc “phát triển bền vững và nhân rộng mơ hình
Trung tâm học tập cộng đồng trên các địa bàn xã, phường, thị trấn trong cả nước nhằm thực
hiện các chương trình xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ và các chương trình giáo
dục đáp ứng yêu cầu người học trong cộng đồng dân cư”.[18, tr.148].
1.2.4. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của mơ hình TTHTCĐ xã, phường
- Nguyên lý giáo dục của Đảng ta là giáo dục nhà trường phải gắn liền với xã hội. “Phát
triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình
và mỗi công dân. … . Phát động phong trào rộng khắp toàn dân học tập, người người đi học,
học ở trường lớp và tự học suốt đời, người biết dạy người chưa biết, người biết nhiều dạy người
biết ít, mỗi người phải khơng ngừng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ” [ 16,
tr.11]. Như vậy nền giáo dục của ta là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân nên nó phải được
triển khai đến tận từng người dân ở từng địa bàn dân cư. Do đó đơn vị xã, phường thậm chí
thơn, ấp là đơn vị cơ sở gần gũi người dân nhất và là đơn vị tổ chức học tập theo nhu cầu cộng
đồng hợp lý nhất.
- Vai trị của nhóm và tập thể trong hoạt động và tổ chức hoạt động đã được nghiên cứu,
khẳng định và ứng dụng trong lĩnh vực tâm lý học quản lý. Trong nhóm nhỏ tần số giao tiếp
của các thành viên diễn ra nhiều lần hơn so với nhóm lớn nhờ vậy mới phát huy được tính tích
cực hoạt động của mỗi chủ thể trong nhóm hoặc trong một tập thể. Vì vậy “trong bất kỳ tổ chức
vĩ mô nào hay trong lĩnh vực hoạt động phức hợp nào, để đảm bảo sự thành công của hoạt động
quản lý, nhà quản lý phải xác lập được nhóm cơ sở trong tổ chức của mình và phải xác định
được thủ lĩnh của nhóm đó. Trong lĩnh vực giáo dục xã hội, nhóm cơ sở chính là làng xã” [33].
- Kinh tế xã hội càng phát triển đòi hỏi giáo dục càng phải phát triển không những tương
xứng với nền khoa học cơng nghệ hiện đại mà cịn phải tạo ra những bước nhảy vọt cả về
phương thức lẫn nội dung chương trình giáo dục nhằm “đi tắt đón đầu” vận hội mới, tương lai
mới của đất nước. Vấn đề đặt ra là phải phát triển đồng bộ hệ thống giáo dục chính quy và
khơng chính quy, giáo dục thường xuyên và giáo dục suốt đời. Các kênh giáo dục đó được triển
khai thực hiện bởi nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức xã hội nhưng trong đó các cơ quan
quản lý giáo dục cấp cao quản lý chủ yếu hệ thống giáo dục chính quy và một số tổ chức, cơ
sở giáo dục khơng chính quy cấp quận, huyện trở lên mà còn bỏ ngõ việc quản lý giáo dục
cộng đồng cấp phường, xã. Tuy nhiên để tạo ra hiệu lực thực sự thì các kênh giáo dục này phải
được tổ chức thành một mạng thống nhất trong đó phải có một tổ chức có chức năng tích hợp
các loại hình giáo dục một cách đa dạng và cập nhật đồng thời có khả năng tác động trực tiếp
đến người dân, làm cầu nối giữa người dân với các tổ chức giáo dục khác cao hơn. Xét về mặt
quản lý hành chánh nhà nước thì xã, phường chính là đơn vị cơ sở đủ điều kiện tích hợp các
kênh giáo dục nói trên và mơ hình giáo dục tích hợp đó hiện nay có lẽ khơng có mơ hình nào
hiệu quả bằng TTHTCĐ xã, phường.
- Một trong những đặc trưng của nền văn hóa truyền thống nước ta là văn hóa làng, xã.
Làng, xã là tổ chức hành chính cơ sở quan trọng , có nhiệm vụ truyền tải và thực thi các chủ
trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đồng thời làng, xã cũng là tổ chức xã hội,
nơi đó diễn ra mọi hoạt động của cộng đồng trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo
dục ,…. với đặc thù và tập quán địa phương nhằm duy trì và phát triển đời sống của cá nhân và
của cộng đồng. Thực tế ở Việt nam có rất nhiều làng nghề truyền thống với những nét văn hóa
rất riêng, rất độc đáo. Việc giáo dục người dân nhằm duy trì và phát huy truyền thống làng, xã,
tiến tới hội nhập với cộng đồng và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của chính quyền và của mọi người dân trong làng, xã.
Chính trên những cơ sở đó, trong Quyết định số 112/2005/QĐ-TTG ngày 18-5-2005 về việc
phê duyệt đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010”, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ
“Phát triển bền vững và nhân rộng mơ hình TTHTCĐ trên các địa bàn xã, phường, thị trấn
trong cả nước nhằm thực hiện các chương trình xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ
và các chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học trong cộng đồng dân cư” [15, tr.4]
1.3. Các khái niệm
1.3.1. Xã hội hóa giáo dục
Từ điển Giáo dục học định nghĩa xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là chủ trương, biện
pháp biến sự nghiệp giáo dục trong nhà trường thành cơng việc chung của tồn xã hội để thu
hút mọi thành phần, thành viên trong xã hội tích cực tham gia vào hoạt động giáo dục thế hệ trẻ
tùy theo chức năng, điều kiện của mình.[20]. Tư tưởng XHHGD khơng phải xuất phát từ các
khó khăn trước mắt của ngành giáo dục khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, mà là từ
bản chất của giáo dục, từ quy luật hình thành nhân cách con người như là một sản phẩm , một
chủ thể của xã hội vì mơi trường xã hội là một yếu tố khách quan có tác dụng quyết định khơng
nhỏ trong việc đào tạo nhân lực, nhân tài cho xã hội. Xã hội hóa giáo dục bao gồm các hoạt
động hết sức đa dạng của các lực lượng xã hội: đó là việc tuyên truyền, vận động, huy động
nhân lực, tài lực của xã hội cùng tham gia sự nghiệp giáo dục thơng qua các hình thức như hội
bảo trợ, hội khuyến học, quỹ học bỗng, quỹ sáng tạo, nhà tài trợ, cơ sở đỡ đầu, lớp học đầu bờ,
… [20,tr. 481].
Khái niệm xã hội hóa giáo dục cịn được hiểu trên một số vấn đề cơ bản như :
- Làm cho xã hội nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của giáo dục, thực trạng của giáo dục địa
phương, nhận thức rõ trách nhiệm của xã hội đối với giáo dục . Giáo dục liên quan đến mọi
người, là lợi ích của mọi người, mọi cộng đồng.
- Làm cho giáo dục phù hợp với phát triển xã hội, phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương.
- Tạo ra nhiều nguồn để làm giáo dục, thực hiện việc giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà
trường, kết hợp các lực lượng giáo dục, tạo ra môi trường giáo dục tốt, thuận lợi hơn cho việc
thực hiện các mục tiêu giáo dục. Muốn thưc hiện mục tiêu “giáo dục cho mọi người” thì mọi
người phải làm giáo dục chứ không thể coi đây là việc riêng của ngành giáo dục [ 21, tr.17-18].
Do đó XHHGD khơng chỉ là đa dạng hóa hình thức và các nguồn đầu tư cho giáo dục đào tạo
mà quan trọng nhất là đa dạng hóa nội dung hay đa dạng chương trình giáo dục thích ứng với
những địi hỏi của xã hội, phải coi xã hội như một kho tư liệu sống luôn luôn phát triển và biến
các vấn đề xã hội thành nội dung giảng dạy.
Như vậy XHHGD là quá trình làm cho sự nghiệp giáo dục thâm nhập vào các ngành,
các cấp, các tổ chức xã hội, mọi gia đình và mỗi cá nhân đồng thời giáo dục phải trở thành
hoạt động chung của tồn xã hội, tạo ra một xã hội học tập.
Chính vì vậy XHHGD trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng với mục tiêu
huy động toàn lực trong xã hội tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển giáo
dục nước nhà. Mọi người phải hiểu rằng XHHGD là một giải pháp lâu dài có tính chiến lược và
quyết định trong việc làm cho hoạt động giáo dục- với tính chất chuyên ngành- trở thành một
hoạt động xã hội gắn liền với nhu cầu thực tế, thâm nhập và tác động tích cực đến mọi lĩnh vực
hoạt động của cuộc sống , thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ ngày một cao hơn của xã hội.
1.3.2. Xã hội học tập
Trong XHHT mỗi con người đều phải được giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học
tập suốt đời. Đã đến lúc phải thay đổi khẩu hiệu “Đào tạo một lần cho một đời người” thành “
Đào tạo liên tục trong suốt đời người”. Trong XHHT, các tổ chức, tập thể hoặc cá nhân theo
khả năng của mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập cho cộng đồng , mọi người, tùy theo
nhu cầu, năng lực và điều kiện của cá nhân, đều có thể tận dụng cơ hội để học tập nâng cao
chất lượng cuộc sống của bản thân và tham gia phát triển giáo dục cộng đồng.
XHHT là một hiện tượng có tính quy luật của sự phát triển, là vấn đề chung của thời đại,
là mơ hình nền giáo dục tương lai thuộc thời đại kinh tế tri thức trong đó nguyên tắc hàng đầu
là “giáo dục suốt đời cho mọi người”. XHHT vận hành với phương châm “ Giáo dục cho mọi
người và mọi người cho giáo dục” chính là một hệ thống giáo dục gắn kết và liên thơng các
hình thức giáo dục chính quy, khơng chính quy và phi chính quy. Mục tiêu của người học
khơng phải chỉ để đi làm mà nhằm hoàn thiện nhân cách và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Xã hội học tập là một xã hội ở đó ai cũng học tập , học ở mọi lứa tuổi, ở mọi nơi, mọi lúc.
Xã hội học tập chứa đựng ý tưởng về giáo dục suốt đời, học tập suốt đời .
Tùy theo sự quan tâm của người học mà mọi hiện tượng, mọi sự kiện, mọi hoạt động
đều có thể trở thành đối tượng hay nội dung học tập. Phương pháp học đa dạng, linh động tùy
theo điều kiện cụ thể của từng người : có thể học tập chính quy theo trường lớp hoặc theo
những phương thức đa dạng trong cuộc sống như trong lao động, trong giao tiếp, trong giải
trí,… và bằng mọi phương tiện thông tin. [ 20, tr.482]
Để xây dựng một XHHT, giáo dục Việt nam phải thực sự tiến hành nhiều bước thay đổi
lớn lao về nhận thức và hành động trong đó thay đổi quan trọng nhất là chú trọng việc học tập
của người lớn, chăm lo việc học tập cho mọi người thuộc mọi lứa tuổi . Mơ hình XHHT của đất
nước ta phải vừa thể hiện được xu thế hội nhập quốc tế và tồn cầu hố trong lĩnh vực giáo dục
thế kỷ XXI, vừa phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta như các đặc điểm truyền
thống lịch sử, văn hố, về chính trị xã hội và kinh tế của ta [4.] . Khơng phải chỉ có nhà nước
mới có trách nhiệm tạo điều kiện học tập cho người dân mà mọi người dân phải nhận thức
được trách nhiệm học tập, học để khỏi bị thất nghiệp , khỏi bị xã hội đào thải, không bị lạc hậu
trong thời đại khoa học công nghệ hiện đại và nền kinh tế thị trường tồn cầu hóa . Luật Giáo
dục 2005 đã thể chế hoá “ Phát triển giáo dục, xây dựng XHHT là sự nghiệp của Nhà nước và
của toàn dân” [32, Điều 12] và “ Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên,
thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng XHHT” [32, Điều 44]. Một trong những phương
thức giáo dục đáp ứng tốt nhất nhu cầu học tập của người dân trong XHHT là giáo dục phi
chính quy. Đó chính là phương thức giáo dục mà cá nhân người học tự đề ra chương trình và tổ
chức học tập theo những mục tiêu cụ thể, độc lập với hệ thống giáo dục chính quy ( chương
trình quy định bởi các thể chế giáo dục gồm hệ thống các loại hình trường lớp, cấp học, bậc
học) và khơng chính quy ( chương trình, giáo trình học ngồi hệ thống giáo dục chính quy như
các lớp tại chức, đào tạo từ xa, lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,…) . Với
phương thức này, cá nhân hoặc một nhóm người học có nhu cầu, tự đề ra mục đích học tập, tự
tìm tài liệu học hỏi trao đổi để nâng cao sự hiểu biết và kỹ năng về lĩnh vực đang có nhu cầu
tìm hiểu [28, tr. 130-132]. Để biến mục tiêu “ cả nước trở thành một XHHT” trở thành hiện
thực thì Nhà nước và cả xã hội phải huy động được sự tự giác tự nguyện tham gia học tập và
học tập suốt đời của mọi người dân. Chúng ta phải nhanh chóng kết hợp nghiên cứu lý luận với
thực tiễn xây dựng mô hình XHHT Việt nam và tạo ra các tiền đề cho XHHT tương lai, thử
nghiệm các mơ hình cụ thể và tổng kết thực tiễn để đúc kết thành lý luận về mơ
hình XHHT Việt nam.
1.3.3. Trung tâm văn hóa-học tập cộng đồng
a) Khái niệm Trung tâm học tập cộng đồng :
(1) Theo tổ chức APPEAL (Asia-Pacific Programme of Education for All) của
UNESCO , trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) là một học viện / cơ sở giáo dục địa
phương nằm ngồi hệ thống giáo dục chính quy dành cho các xã, phường hoặc các vùng nông
thôn, thường được thành lập và quản lý bởi chính quyền hoặc người dân địa phương , đem đến
cơ hội học tập đa dạng cho mọi người dân trong cộng đồng nhằm cải tiến chất lượng cuộc sống
của họ đồng thời phục vụ cho sự phát triển cộng đồng và làm thay đổi bộ mặt xã hội.
(2) Theo tài liệu của UNESCO Hanoi (Việt nam) thì TTHTCĐ là một học viện giáo dục
khơng chính quy cung cấp nền giáo dục cơ bản cho cộng đồng. Được trực tiếp thành lập và
quản lý bởi chính quyền địa phương xã, phường hoặc thị trấn với mục đích cung cấp cơ hội học
tập thường xuyên và suốt đời cho mọi người nhằm mở rộng kiến thức, kỹ năng và văn hóa để
nâng cao chất lượng cuộc sống.
(3) Theo các tác giả quyển Từ điển giáo dục học, “ TTHTCĐ là cơ sở giáo dục bậc tiểu
học được cộng đồng làng xã, thôn bản tự đứng ra tổ chức, quản lý, đài thọ nhằm mục đích giúp
người lớn, trẻ em tiếp thu kiến thức văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp phổ cập theo chương trình
của bậc tiểu học và theo yêu cầu của thực tiễn địa phương”[ 24, tr.432].
Khái niệm TTHTCĐ là khá rõ ràng, tuy nhiên để kết hợp hoạt động văn hóa vốn
đã tồn tại trong cộng đồng với nhiệm vụ học tập, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã ban hành
Quy chế thành lập và hoạt động của TTVH-HTCĐ. Để làm rõ khái niệm TTVH-HTCĐ ta cần
hiểu khái niệm văn hoá. Văn hoá được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, người viết xin nêu
tóm tắt những khái niệm sau
b) Khái niệm văn hóa :
(1) Tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh xã hội để tồn tại và phát triển; những di vật,
những tinh hoa trong lịch sử dân tộc và nhân loại cần phải được giữ gìn và phát huy nhằm thúc
đẩy xã hội tiếp tục phát triển lên những trình độ cao hơn.
(2) Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội nói chung và trong từng mặt cụ thể nói riêng,
biểu hiện qua các kỹ năng hoạt động, các hành vi ứng xử và lối sống. Là một mặt quan trọng và
tiêu biểu của nhân cách hình thành trong cả ba mơi trường giáo dục : nhà trường, gia đình và xã
hội.
(3) Lĩnh vực hoạt động tạo ra những giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời
sống xã hội như văn học, nghệ thuật, âm nhạc, điện ảnh,…Về lĩnh vực này , giáo dục cần bồi
dưỡng cho người học thị hiếu văn hóa lành mạnh.
(4) Văn hóa cịn được hiểu là trình độ học vấn của một người. Dù học vấn có
un thâm đến đâu cũng khơng thể hiểu biết hết mọi thứ trên đời, đó chính là lý do phải học tập
suốt đời và không ngừng học tập.
Như vậy, kết hợp các khái niệm về văn hóa và TTHTCĐ, ta có thể hiểu :
TTVH-HTCĐ là cơ sở giáo dục thường xuyên trong hệ thống giáo dục quốc dân, do
chính quyền và người dân địa phương thành lập và quản lý tạo ra môi trường học tập, vui
chơi lành mạnh; mang lại cơ hội, điều kiện thuận lợi cho việc học tập và các sinh hoạt văn
hóa, tinh thần hữu ích khác; cung cấp kiến thức và
kỹ năng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho mọi người trong cộng đồng.
Quy chế Tổ chức và hoạt động của TTHTCĐ tại xã, phường, thị trấn ban hành kèm theo
Quyết định số 09/2008/QĐ-BGDĐT ngày 24 tháng 03 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định TTHTCĐ có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
1.4. Những vấn đề liên quan đến hoạt động của TTVH-HTCĐ xã, phường tỉnh Bà RịaVũng Tàu ( gọi chung là TTVH-HTCĐ )
1.4.1. Mục đích của TTVH-HTCĐ
“Cung cấp và đáp ứng các cơ hội học tập, sinh hoạt tinh thần cho tất cả mọi người trong
cộng đồng, thu hút mọi cá nhân, tổ chức tại địa phương tham gia vào
công tác XHHGD, đáp ứng những nhu cầu thay đổi trong đời sống của cộng đồng, góp phần
giúp cộng đồng trở thành tự lực, chủ động trong giáo dục, trở thành một XHHT đích thực”
[37,tr.13]. Mục tiêu của TTVH-HTCĐ nhằm thỏa mãn các tiêu chí sau :
- Cải thiện việc tiếp cận trình độ giáo dục cơ bản cho mọi người trong cộng đồng.
- Phát huy chất lượng quá trình học tập chính quy và khơng chính quy.
- Cung cấp chương trình giáo dục thường xun, khơng chính quy và chương trình tập huấn các
kỹ năng tương thích với nhu cầu thiết thực của cộng đồng. Cung cấp phương tiện tiếp cận
thông tin về các lĩnh vực mà cộng đồng quan tâm.
- Tăng cường khả năng tự thực hiện các chương trình giáo dục phi chính quy dẫn
đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân và góp phần vào việc xóa đói giảm
nghèo trong cộng đồng.
- Bồi dưỡng thị hiếu thưởng thức văn hóa lành mạnh.
Như vậy mục tiêu của TTVH-HTCĐ là cung cấp cơ hội học tập suốt đời, cơ hội hưởng
thụ văn hóa cho mọi người dân (đặc biệt là những người ít cơ hội học tập, trẻ em bỏ học, phụ
nữ và những người lớn tuổi) nhằm cải thiện năng lực của cá nhân và tăng cường sự phát triển
của cộng đồng.
1.4.2. Nhiệm vụ của TTVH-HTCĐ
- Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình cơng tác, nội dung hoạt động thường
kỳ và từng đợt phù hợp với tình hình, nhiệm vụ của địa phương, của ngành giáo dục - đào tạo
và ngành văn hóa- thơng tin.
- Phối hợp các trường tiểu học, trung học cơ sở thuộc địa bàn để điều tra, tổ chức các lớp xóa
mù chữ, sau xóa mù, các lớp phổ cập cho nhân dân địa phương.
- Phối hợp với các ngành liên quan tổ chức điều tra nhu cầu học tập của nhân dân. Lập kế
hoạch triển khai các lớp chuyên đề với nội dung và hình thức phù hợp với điều kiện học tập của
cán bộ và nhân dân .
- Tổ chức các hoạt động văn hóa quần chúng như xây dựng phong trào văn nghệ
quần chúng, các loại hình sinh hoạt câu lạc bộ, các lớp năng khiếu, đọc sách báo và
các hình thức vui chơi, giải trí khác.
- Tổ chức một số loại hình hoạt động thể dục thể thao như thể dục dưỡng sinh, bóng đá, bóng
chuyền, bóng bàn, cầu lông, cờ tướng, võ thuật, …
- Tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao trong và ngồi địa
phương nhằm nâng cao trình độ tổ chức hoạt động chuyên môn cũng như công tác quản lý.
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể ở địa phương như các hội, đồn, nhà
máy, xí nghiệp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng của các loại hình sinh hoạt câu lạc bộ.
Cập nhật kiến thức, kỹ năng, tập huấn chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ để
phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng
cuộc sống như : mở lớp học nghề ngắn hạn, các câu lạc bộ khuyến nông, khuyến công, khuyến
ngư, khuyến lâm, các lớp tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, các buổi tham quan, trao
đổi kinh nghiệm thực tế, các “lớp học đầu bờ”, các buổi nói chuyện về sức khỏe, vệ sinh an
tồn thực phẩm, dân số, môi trường,….
- Quản lý, sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính phù hợp với các quy định của nhà
nước và của cộng đồng.
1.4.3. Chức năng, hoạt động của TTVH-HTCĐ
“Giáo dục và đào tạo; cung cấp thông tin và tư vấn về nguồn lực; tổ chức các hoạt động
công cộng nhằm phát triển cộng đồng; phân phối và liên kết các tổ chức vì sự nghiệp giáo dục
chung; khuyến khích việc học tập suốt đời” [37,tr.13]
TTVH-HTCĐ được xem là nơi gặp gỡ của mọi người dân để trao đổi, học tập, sinh hoạt văn
hóa, thể dục thể thao. Các hoạt động ở TTVH-HTCĐ phải được chính quyền hoặc người dân
tại cộng đồng tổ chức và quản lý một cách linh động và dễ tham gia đối với mọi người qua đó
tăng cường và củng cố sự hợp tác giữa các thành viên trong cộng đồng. Bằng việc tạo ra một
khơng khí học tập thuận tiện và thoải mái với nhiều cơ hội học tập và sự giúp đỡ thiết thực,
TTVH-HTCĐ sẽ giúp người dân tiếp cận và đạt được mục tiêu của mình trong việc tìm ra các
giải pháp để cải
thiện kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng sống.
TTVH-HTCĐ xã có chức năng tổ chức nhiều hoạt động về nhiều lĩnh vực:
- Phối hợp với các đơn vị giáo dục, các tổ chức xã hội trên địa bàn thực hiện chương trình xóa
mù chữ, giáo dục tiếp tục sau biết chữ (chống tái mù), phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung
học cơ sở, phổ cập trung học.
- Tổ chức các hoạt động học tập cộng đồng, bồi dưỡng và phổ biến kiến thức về mọi mặt sinh
hoạt đời sống kinh tế- xã hội, góp phần xây dựng phong trào học tập suốt đời cho mọi tầng lớp
nhân dân địa phương.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thơng tin tuyên truyền, thể dục thể thao nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt và hưởng thụ văn hóa trong cộng đồng. Tuyên truyền các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương.
- Liên kết với các đơn vị và các tổ chức kinh tế, xã hội thực hiện các chương trình
phổ biến kiến thức thuộc các lĩnh vực chuyên ngành nhằm mục tiêu nâng cao kỹ năng, chất
lượng nghề nghiệp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội của địa phương.
1.4.4. Kế hoạch thành lập và tổ chức bộ máy TTVH-HTCĐ
- Tùy theo vùng, miền và nhu cầu thực tế của cộng đồng mà các cấp quản lý nhà
nước địa phương tiến hành các bước thiết lập một TTVH-HTCĐ :
(1). Tuyên truyền, vận động người dân nhận thức về học tập suốt đời nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống .
(2). Điều tra, thu thập các thông tin cơ bản về cộng đồng như : vị trí địa lý; diện tích; dân số;
tình hình kinh tế, văn hóa, giáo dục và đời sống của người dân; phong tục tập quán và các vấn
đề xã hội trong cộng đồng; vấn đề sức khỏe, vệ sinh, mơi trường; các nguồn lực sẵn có và tiềm
năng của địa phương. Đánh giá nhu cầu học tập của các thành viên trong cộng đồng, xem xét
các điều kiện cần thiết để hình thành TTVH-HTCĐ. Thống nhất tư tưởng và quan điểm học
tập, xác lập nhu cầu
học tập của cộng đồng.
(3). Xây dựng và trang bị cơ sở hạ tầng TTVH-HTCĐ.
(4). Vận động thành lập ban quản lý, điều hành TTVH-HTCĐ.
(5). Xây dựng mục tiêu, chương trình hành động của TTVH-HTCĐ .
(6). Tổ chức đội ngũ giảng viên, hướng dẫn viên.
(7). Huy động mọi nguồn lực, tiềm năng trong cộng đồng .
(8). Thiết lập hệ thống các mối quan hệ liên kết và hỗ trợ của các tổ chức xã hội và cá nhân.
(9). Tổ chức triển khai thực hiện các chương trình hành động .
(10). Kiểm tra, đánh giá chương trình hành động .
Đến nay cũng chưa có một khn mẫu thống nhất nào cho việc thiết lập một TTVHHTCĐ. Các bước trên cũng chỉ là kết luận được đúc kết từ sự tham khảo tài liệu ( nguồn
UNESCO Bangkok’s web, Myanmar The Community Learning Centre Experience) và nghiên
cứu thực tiễn tại một số TTVH-HTCĐ ở địa phương , do đó chắc chắn thứ tự các bước khơng
mang tính cố định.
Sơ đồ biểu thị mối quan hệ giữa các bước trong kế hoạch xây dựng và tổ chức TTVH-HTCĐ
Tổng hợp
&
Ðnh gi
nhu cầu
phổ biến
Gim st
&
ðnh gi
Tng cýờng
nng lực
Chu trình
lập kế
hoạch &
quản lý
Mạng lýới
v lin kết
Ln kế hoạch
Huy ðộng
v quản lý
nguồn lực
Pht triển
học liệu ðịa
phýng
Khi hội đủ các điều kiện phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục của địa
phương và đáp ứng nhu cầu học tập của cộng đồng, UBND xã, thị trấn - có tham khảo ý kiến
của phịng Giáo dục-Đào tạo và phịng Văn hóa-Thơng tin- trình văn bản đề nghị UBND huyện
ra quyết định thành lập TTVH-HTCĐ xã, phường. Việc bổ nhiệm các chức danh của TTVHHTCĐ do UBND huyện, thị xã, thành phố ra quyết định trên cơ sở tuyển dụng và đề nghị
thống nhất của UBND xã, phường, Phòng Giáo dục và Đào tạo và Phịng Văn hóa thơng tinThể thao. Các chức danh này có tên gọi khác nhau tùy địa phương; nơi thì gọi là Ban quản lý,
nơi gọi là Ban điều hành; có nơi gọi là giám đốc TTHTCĐ; ở Bà Rịa-Vũng Tàu thống nhất tên
gọi những cán bộ quản lý TTVH-HTCĐ là Ban chủ nhiệm. Định biên chính thức của TTVHHTCĐ xã ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu gồm một chủ nhiệm, hai cán bộ chuyên trách và một hợp
đồng, các định biên này được bố trí theo chế độ kiêm nhiệm. Ngồi ra ban chủ nhiệm cịn có
thể bao gồm các thành viên kiêm nhiệm khác là những đại diện các ban, ngành, đoàn thể ở địa
phương.
- Ban chủ nhiệm có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động cụ thể
theo tháng, quý, năm của TTVH-HTCĐ, xây dựng quy chế làm việc nhằm đảm bảo
cho hoạt động của TTVH-HTCĐ.