Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Giáo trình văn học Pháp thế kỉ 17

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.91 KB, 24 trang )

Phần III: Văn học cổ điển thế kỷ 17- Chủ nghĩa cổ
điển Pháp
Chương I: Khái quát
I/ Nước Pháp trên đường tiến tới một quốc gia thống nhất hùng mạnh:
1.1 - Đến cuối thế kỉ 16 nước Pháp nghèo nàn bị chia cắt bởi nhiều lãnh chúa phong
kiến.Chiến tranh tôn giáo và phong kiến liên miên và tàn khốc: cuộc viễn chinh sang
Italia vừa chấm dứt thì nội chiến tơn giáo đẫm máu giữa đạo Thiên Chúa và đạo Tin
Lành xảy ra suốt hơn 30 năm (1562 - 1598). Nước Pháp bị tàn phá khủng khiếp,
thành thị và nông thôn đều hoang tàn xơ xác. Người thất nghiệp, đói khổ bệnh tật
nhan nhản khắp nơi. Tài chính kiệt quệ. Quan lại địa phương và thị dân giành lấy
quyền tự trị. Nông dân và dân nghèo nổi dậy ở nhiều nơi... Chế độ phong kiến cát cứ
trở thành vật chướng ngại lớn trên bước đường đi tới của lịch sử dân tộc Pháp. Trong
khi đó, giai cấp tư sản Pháp hình thành từ thế kỉ 16 đang lớn dần lên nhờ phương
thức kinh doanh tư bản – đặc biệt các ngành công nghiệp dệt, hàng xa xỉ, ngoại
thương, nơng nghiệp... Tình trạng phong kiến cát cứ gây trở ngại quá trình phát triển
tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản khao khát giành lấy chính quyền, tuy có ưu thế` về
chính trị nhưng chưa thể lật đổ g/c phong kiến thống trị. Họ quay ra dựa vào nhà
nước phong kiến tập quyền để mở rộng kinh doanh. G.c phong kiến đang sa sút
nhưng vẫn cố giữ chính quyền, tự biết cịn đủ mạnh để ngăn trở tư sản. Mặt khác, g/c
phong kiến cũng muốn lợi dụng khả năng kinh tế tư bản để tồn tại. Tình trạng đó tạo
ra thế qn bình tạm thời giữa q tộc và tư sản dưới hình thức Nhà nước quân chủ
chuyên chế (quân chủ tập trung tuyệt đối). Đó là nền quân chủ cố giữ vai trị trung
gian giữa q tộc và tư sản - cố gắng dung hòa bảo vệ quyền lợi của cả hai.
1.2- Nền quân chủ chuyên chế Pháp trải qua ba triều đại:
- Dịng họ Bourbon Vua Henry IV lên ngơi giữa cảnh hoang tàn của nước Pháp sau
chiến tranh trong khi ấy các lãnh chúa địa phương bạo loạn lung tung. Henry thực
hiện đương lốì cứng rắn xen kẽ mềm dẻo về chính 1trị, tơn giáo nhằm củng cố chính
quyền trung ương. Vua chủ trương nâng đỡ nông dân, giảm thuế xóa nợ, đẩy mạnh
cơng thương nghiệp, ngoại thương, kí kết nhiều hiệp ước thương mại. Nhà vua rời
bỏ đạo Tin Lành, theo đạo Thiên Chúa (Cơ đốc, Gia Tô) đã được coi là quốc giáo.
Năm 1598 vua ban hành pháp lệnh Nante bảo đảm tự do tín ngưỡng và tự do chính


trị. Vua bị ám sát, con trai là Louis 13 lên ngôi giữa lúc bọn lãnh chúa phong kiến lại
nổi lên khắp nơi. Vua Louis 13 (1610-1643) dựa vào Giáo chủ Richelieu nắm quyền
tể tướng, tiếp tục sự nghiệp của Henry 4, quyết tâm xây dựng một nhà nước dân tộc
thống nhất, phát triển nhiều mặt chiếm vị trí cao trên trường quốc tế. Richelieu kiên
quyết bảo vệ thống nhất quốc gia, trấn áp Tin Lành và các lãnh chúa địa phương
ngoan cố, mở mang thêm lãnh thổ, đặt Pháp viện tối cao dưới quyền vua, ban bố
1


chính sách đặc quyền cho giai cấp tư sản phát triển kinh tế, đẩy mạnh cơng thương,
qui định thuế khóa thống nhất, chiếm thêm thuộc địa (quần đảo Angti, đảo
Madagasca).Thống nhất hoạt động văn hóa tư tưởng dưới sự lãnh đạo tập trung của
nhà nước chuyên chế. Thành lập Viện Hàn lâm năm 1634, trợ cấp văn nghệ sĩ, mở ra
những cuộc phê bình văn học... Những hoạt động đó cịn nhằm thống nhất ngơn ngữ
Pháp, tách nhà văn ra khỏi ảnh hưởng quí tộc phong kiến, đàn áp nhà văn chống chế
độ quân chủ chuyên chế. Sự cứng rắn của tể tướng - giáo chủ Richelieu bị nhiều
người thù ghét phản ứng. Tuy nhiên ông ta vẫn là một nhà chính trọ nhà hoạt động
xã hội xuất sắc, người sáng lập thực sự, trực tiếp của nhà nước mang tính dân tộc
Pháp. Louis 14 (1643 - 1715) lên ngơi lúc 15 tuổi. Nhà nước do giáo chủ Madarin
lãnh đạo thực sự. Giáo chủ cho tăng thuế, bán quan chức lấy tiền nuôi quân đội tham
gia chiến tranh Trung Âu 1618 -1648.Chính sách đó khiến nhân dân bất bình, nhất là
nông dân và nghị viện (phần lớn là đại biểu tư sản và quí tộc) đều căm giận. Kết quả
là một cuộc nội chiến nổ ra ở Paris và một số tỉnh miền Bắc, miền Đông nước pháp.
Giai cấp tư sản và quí tộc, do quyền lợi ích kỉ, cuối cùng đã phản bội, bỏ mặc quần
chúng khiến khởi nghĩa thất bại. Sự thất bại này chấm dứt tình trạng rối ren nhưng
vẫn chưa bảo đảm cho đất nước thống nhất. Cuộc khởi nghĩa chia thế kỉ ra hai phần nửa sau sẽ là thời kì phát triển huy hồng của chế độ quân chủ chuyên chế. Năm
1661, Madarin chết, Louis mới thực sự nắm chính quyền. Vua tuyên bố " nhà nước
chính là ta ! " và khẳng định sự tập trung quyền lực cao độ trong tay nhà vua. Mười
hai năm đầu của triều đại Louis thanh bình êm ả thuận lợi cho những cuộc cải cách
và những dự án lớn:

- Về kinh tế - chính trị: Colbert trợ thủ đắc lực của nhà vua đã tích cực bảo hộ các
hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa, khuyến thương nhằm thu lợi nhuận cho công
quĩ. Tăng cường quân đội làm áp lực cho kinh tế.Kiến thiết nhiều lâu đài nguy nga
đồ sộ
- Về văn hóa nghệ thuật: Chaplin cánh tay phải của " vua mặt trời " đã cho lập
thêm hàng loạt viện hàn lâm nghệ thuật và khoa học, bảo trợ các nhà nghệ sĩ, tổ chức
sinh hoạt văn nghệ ở cung đình, biến cung điện Verseille thành trung tâm văn hóa
quốc gia... Tất cả nhằm đề cao cá nhân vua Louis 14, thúc đẩy văn hóa, củng cố
quốc phịng nâng cao địa vị uy tín nước Pháp. Người ta gọi thế kỉ 17 là " thế kỉ của
Louis 14 " hoặc " thế kỉ vĩ đại " (đại thế kỉ). Năm 1803, Coibert chết, sinh ra sự
chuyển biến mới của đời sống vật chất tinh thần nước Pháp cuối thế kỉ này: chính
sách kinh tế của Colbert bị vứt bỏ, nền kinh tế suy sụp vì gánh nặng chiến tranh
chống Hà Lan và Anh. Hủy bỏ pháp lệnh Nante, khủng bố tàn bạo những người dị
giáo, đi xâm lược láng giềng. Nhà nước độc tài không chịu được khuynh hướng tự
do dân chủ và cản trở giai cấp tư sản. Làn sóng khổng lồ hàng chục vạn nhà cơng
thương nghiệp bỏ chạy ra nước ngồi gây chảy máu nghiêm trọng về dân số, tiền
của, tài năng trí tuệ của dân tộc.
2


Nhận xét chung về Nhà nước quân chủ thế kỉ 17: Một mặt nhà nước là nhân tố
lịch sử tiến bộ tích cực góp phần thống nhất đất nước, khơi phục và mở mang văn
hóa dân tộc .Mặt khác, nền quân chủ chuyên chế vẫn là hình thức thống trị dựa trên
sự liên minh giai cấp tạm thời giữa hai g/c bóc lột. Nó vừa hịa giải vừa đối kháng
với nhau, lại vừa đàn áp và bóc lột nhân dân.
Càng về cuối thế kỉ, nhà nước thối hóa, phản động và trở thành đối tượng bị phê
phán của lịch sử
II/ Ảnh hưởng sâu sắc rộng lớn của triết học Gassendy và triết học Descartes
trong tinh thần Pháp thế kỷ 17
Cùng ra đời vào nửa đầu thế kỉ 17, mỗi học thuyết có cống hiến riêng. Triết học duy

vật của Gassendy và triết học duy lí của Descartes có điểm chung, đều là thành tựu
văn hóa tư tưởng của một thế kỉ lớn, đều có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh
thần của thời đại.
Gassendy:1592-1655: Nhà toán học, nhà khoa học lớn hiểu biết nhiều về vật lí
thiên văn. Hoạt động trong nhóm bác học, thường tổ chức kín đáo những cuộc hội
thảo khoa học quan trọng với tinh thần tự do, chống chủ nghĩa ngu dân của các thế
lực phong kiến và tôn giáo. Gassendy bỏ nhiều công phu viết cuốn " Triết học đại
tồn ", cơng trình in sau khi ông mất Học thuyết của ông dựa trên " học thuyết về
nguyên tử " của hai nhà bác học cổ Hi Lạp Epiccure và Lucres. Trong khi phát biểu
thuyết nguyên tử ông đề xướng " cảm giác luận duy vật ": cho rằng con người có thể
nhờ cảm giác để nhận thức thế giới," cảm giác không bao giờ lừa dối ". Tin tưởng
vàocảm giác, đánh giá cao cảm giác, Gassendy chống lại " duy lí luận " của
Descartes và bác bỏ triết học kinh viện duy tâm trung cổ. Về đạo đức học, ông tập
trung ca ngợi niềm vui sướng cuộc đời và sự trong sáng tâm hồn. Theo ông hạnh
phúc con người là ở sức khỏe thể xác và sự thanh tĩnh tâm hồn. Các nhà văn tiến bộ
của thế kỉ 17 đã chịu ảnh hưởng triết học Gassendy như: nhà hài kịch Molier nhà
ngụ ngôn La Fontaine nhà văn La Brue.
Descartes:1596-1650: Là nhà triết học và khoa học lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ và
lâu dài đến thời đại và lịch sử dân tộc Pháp. Có nhiều khám phá trong hình học vật lí
vũ trụ học. Trong tiểu luận triết học nổi tiếng Bàn về phương pháp (1637) ơng đề cao
vai trị lí trí trong nghiên cứu khoa học và xác định nhiệm vụ của mình là " bàn về
phương pháp hướng dẫn tốt lí trí và tìm tịi chân lí trong khoa học ": Tác phẩm này
đề xướng triết học duy lí, đánh giá cao vai trị của tư duy lí luận. Lí trí là giai đoạn
cao của sự nhận thức thế giới, nó độc lập khơng phụ thuộc vào tri giác cảm tính.
Theo ơng, lí trí có thể đem lại sự hiểu biết tất cả những gì mà giác quan con người
khơng đạt tới. nh sáng của lí trí có thể rọi thấu (nhận thức) được thế giới tự nhiên
một cách vô hạn. Chỉ có lí trí là có thực và đáng tin cậy, lí trí là quan tịa tối cao của
chân lí. Bàn về một vấn đề cơ bản của triết học - mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại ông nêu lên một nguyên lí: " Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại ". Nghĩa là nếu sống mà chỉ
3



biết tin tưởng mù qng vào mọi tín điều tơn giáo thì chưa phải là sống. Descartes đã
đánh địn quyết liệt vào triết lí kinh viện nhà thờ trung cổ, tiếp tục giương cao lá cờ
nhân văn chủ nghĩa Phục Hưng, ca ngợi con người vớiù hoạt động tư duy sáng suốt.
Bàn về phương pháp nghiên cứu, ông chủ trương phương pháp phân tích. Khâu đầu
tiên là " hồi nghi " - đó là điểm xuất phát của khoa học chân chính. Cần phải nghi
ngờ tất cả những gì mà người ta đã tin là chân lí. Sự hồi nghi này nhằm ngăn ngừa
những kết luận mù quáng. Bước thứ hai là phân chia nhỏ đến tận cùng các hiện
tượng để giải quyết. Bước thứ ba là hướng dẫn tư duy theo thứ tự từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp. Cuối cùng là thao tác tổng hợp, xem xét lại từng chi tiết nhỏ
đã phân tích để dẫn tới kết luận. Tiểu luận Bàn về phương pháp là lời tuyên chiến
chống lại tất cả những gì hỗn độn bừa bãi tùy tiện giáo điều để hướng tới một trật tự
sáng sủa, chặt chẽ, chính xác - đó là triết học duy lí Descartes. Tư tưởng triết học
Descartes là thành tựu lớn của tư tưởng Pháp thế kỉ 17, sản phẩm tiến bộ của khoa
học và của ý thức hệ tư sản đang trưởng thành. Nó đạt cơ sở cho thế giới quan khoa
học của thời đại. Trước hết nó tích cực chống phong kiến và tơn giáo. Thời ấy, ông
đã bị Nhà thờ và những kẻ cuồng tín lên án chỉ trích, thù ghét. Triết học Descartes
cũng cịn có nhược điểm khơng nhỏ
: tính cách mạng nửa vời vừa duy tâm vừa duy vật (nhị nguyên luận). Triết lí
Descartes đã in dấu đậm nét trong văn học cổ điển Pháp thế kỉ 17 Tình hình văn học
và chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỷ 17
3.1 BA DÒNG VĂN HỌC TÁC ĐỘNG LẪN NHAU
3.1.1 - Dòng văn học kiểu cách: tiếng nói của tầng lớp qúi tộc phong kiến thất thế.
Bị sa sút về chính trị, giai cấp quí tộc ra sức vớt vát bằng những vinh quang giả tạo
bằng hình thức văn nghệ. Họ tụ tập ở các sa - lơng (salon: phịng khách q tộc) bàn
chuyện văn chương nghệ thuật. Sinh hoạt salon trở thành phong trào thời thượng của
xã hội thượng lưu. Những salon nổi tiếng trở thành những trung tâm văn hóa q tộc
đối lập với cung đình của vua Louis 13. Những văn nghệ sĩ lớn thường lui tới các
salon ấy. Nơi đây ấp ủ những tiểu thuyết mục đồng tràng giang đại hải với những
mối tình hiệp sĩ lí tưởng cầu kì tế nhị. Nhân vật chính là kiểu " con người q tộc hào

hoa phong nhã " với ngơn ngữ chau chuốt khác hẳn với ngôn ngữ thô mộc của đời
sống thường ngày. Nội dung chính là đào sâu tâm lí trình bày dục vọng quanh co
phức tạp kì thú của " tâm hồn quí tộc ". Bên cạnh tiểu thuyết mục đồng cịn có loại
thư từ chuyền tay nhau đọc, nối tiếp những cuộc đàm thoại nơi phòng khách
salon.Thơ cầu kì cũng là phản ứng của q tộc đối với thị hiếu thẩm mĩ tư sản mới
(thơ phá cách, trần trụi) đang được ưa chuộng ở đô thị. Cảm hứng chủ đạo của dòng
văn học kiểu cách là phản ứng lại cuộc sống mới, rút vào cố thủ trong văn chương
kiểu cách. Họ khơng đóng góp được bao nhiêu cho văn học và bị cơng kích từ nhiều
phía. Tuy nhiên dịng này cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến trào lưu văn học cổ điển
chính thống của thế kỉ.
4


3.1.2 - Dòng văn học hiện thực dung tục đối lập với dòng văn học kiểu cách gồm
truyện và thơ. nh Đó là văn chương cười cợt nghịch ngợm khơi hài thô lỗ của những
người tự do cố ý chế giễu văn học q tộc kiểu cách salon. Dịng văn này phác họa
những bức tranh cuộc sống hiện thực, phơi bày thực trạng những thế lực lỗi thời, bộc
lộ khát khao xã hội lí tưởng tốt đẹp - đó là tinnh tích cực tiến bộ của nó. Tuy nhiên
nó cịn nhược điểm là tư tưởng nông cạn tầm thường đôi khi rơi vào vơ chính phủ,
tầm nhìn cuộc sống hạn chế. Dịng này có ảnh hưởng tới nhà hài kịch Molier và nhà
văn ngụ ngơn La Fontaine.
3.1.3 - Dịng văn học cổ điển chủ nghĩa cùng tồn tại song song với hai dòng kia
nhưng lại vượt lên một tầm cao rõ rệt. Đây là tiếng nói nghệ thuật của bộ phận tiên
tiến trong giai cấp tư sản đang lên, tiếng nói mạnh mẽ tích cực và có sức sống lâu dài
về sau.
3.2. VĂN HỌC CỔ ĐIỂN CHỦ NGHĨA, DÒNG TIÊU BIỂU CỦA THỜI ĐẠI:
Văn học cổ điển phát triển liền mạch mạnh mẽ sôi nổi suốt từ những năm 30 đến
cuối thế kỉ có lúc độc chiếm văn đàn. Họ có quan điểm mĩ học tiến bộ, tư tưởng
chống phong kiến tơn giáo cùng những thói hư tật xấu tư sản và có những đóng góp
nghệ thuật mới. Nhiều cuộc tranh luận nghệ thuật nổ ra kéo dài nửa thế kỉ, nhất là sự

kiện vở kịch Le Cid của Corneill và cuộc tranh luận giữa Phái Mới và Phái Cũ. Phân
biệt các thuật ngữ: chủ nghĩa cổ điển, văn học cổ điển chủ nghĩa. Nguyên văn là
Classicisme bắt đầu dùng từ thế kỉ 18 để chỉ trào lưu văn học tiến bộ nhất của thế kỉ
17. Lúc đó nhà trường Pháp muốn nêu cao tinh thần dân tộc nên đã dùng văn học ấy
đưa vào nhà trường thay thế văn chương Hi Lạp - La Mã bấy lâu vẫn chiếm lĩnh văn
đàn và nhà trường. Từ đây lần đầu tiên văn học Pháp mới được đưa vào lớp học
(class). Nghĩa là từ đây văn học thế kỉ 17 được coi là mẫu mực, do đó phải cho học
sinh được học như khuôn mẫu. (Về sau người ta dùng từ Classicique / Classic (tính
từ) để chỉ những tác phẩm ưu tú mẫu mực của cả những giai đoạn văn học khác.
3.2.1 Những nguyên lí mĩ học cổ điển chủ nghĩa Tác phẩm Nghệ thuật thơ của
Boileau là cuốn sách lí luận văn học viết bằng thơ - được coi là bộ luật thơ của chủ
nghĩa cổ điển, nhà văn Boileau được coi là nhà lập pháp của phương thức sáng tác
và trào lưu văn học này. Từ đó rút ra ba tiêu chuẩn của classicisme là: • Tơn sùng lí
trí (theo Decartes - chủ ngĩa duy lý) • Theo mẫu mực tự nhiên (theo Gassendy - chủ
nghĩa duy cảm) • Theo mẫu mực cổ đại (Hi - La - truyền thống, nhắc lại từ Phục
Hưng) Nhà hài kịch Moliere viết: " Tôi muốn biết rõ rằng qui tắc lớn nhất của mọi
qui tắc có phải là khơng được làm vui hay khơng, và một số vở kịch đã đạt được
mục đích có phải đã khơng đi theo một con đường đúng hay không (...) Nếu các vở
kịch làm theo qui tắc mà lại khơng được vui thích và những vở kịch gây được vui
thích lại khơng theo qui tắc thì cần phải thấy rằng qui tắc đã sai " (trích phê bình vở
kịch Trường học làm vợ - hài kịch Moliere). La Fontaine viết: " Ở Pháp, người ta chỉ
xem cái vui là qui tắc lớn nhất và cũng là qui tắc duy nhất " (bài thơ Mục đồng và sư
5


tử). Racine viết: " Qui tắc chính là làm vui và xúc động. Tất cả các qui tắc làm ra chỉ
để đạt tới qui tắc đó " (Lời tựa vở kịch Berenix). Boileau nói về bi kịch: " Bí mật
trước hết là làm vui và làm cho xúc động " (Nghệ thuật thơ - bài ca số Mười) Nhìn
chung, các nhà cổ điển chủ nghĩa chỉ coi trọng hiệu quả thực tế của sáng tác nghệ
thuật mà khơng thích lí luận trừu tượng. Theo họ, vui là hiểu biết tự nhiên, vui là

được thanh lọc cảm xúc, vui gắn bó hơn với đất nước dân tộc đang lớn dậy trong khi
đang gạt bỏ những trở ngại của cái cũ và phê phán ngay những cái xấu thói hư mới,
nhằm khẳng định một tương lai tự do, dân chủ và nhân đạo.
3.2.2 Hai giai đoạn tương phản của chủ nghĩa cổ điển: Giai đoạn trước 1660:
Nước Pháp đã thống nhất nhưng chưa ổn định, chế độ quân chủ chuyên chế đang
được củng cố. Văn học cổ điển là tiếng nói ủng hộ nhà nước phong kiến tập quyền vì
nhà nước này đang khuyến khích sự phát triển tư bản chủ nghĩa đưa nước Pháp đến
thống nhất quốc gia. Trong giai đoạn này có sự kiện đáng chú ý nữa là cuộc cải cách
ngôn ngữ lịch sự của Malecber, tác phẩm văn của Pascal và kịch Corneill. Giai đoạn
sau 1660: Thời kì phát triển toàn diện rực rỡ của chủ nghĩa cổ điển. Nổi bật là: Thơ
châm biếm của Boileau, thơ ngụ ngôn của La Fontaine, bi kịch của Racine, hài kịch
Moliere và văn tiểu luận của La Brue. Nhìn chung văn học chính thống giai đoạn
này là tiếng nói phản kháng chế độ phong kiến độc tài, đả kích giai cấp q tộc và
chế giễu những thói xấu tư bản chủ nghĩa.
3.2.3 Một số nhà văn và tác phẩm tiêu biểu:
- Malecber (1555- 1628). Là nhà thơ cung đình được ưu đãi dưới triều vua Henry
IV và Louis XIII, Malecber sáng tác một số thơ trữ tình, thù tạc, ít có giá trị... Nhưng
đối với sự nghiệp cải cách ngôn ngữ thơ ca dân tộc, ơng là người có cơng đầu. Ông
thường viết chú giải, bình luận về sáng tác của Deport - một nhà thơ kiểu cách - qua
đó thể hiện xu hướng cải cách của mình. Về mặt ngơn ngữ: Ơng chống lại những
thói kiểu cách và những thói dung tục, phản đối thói lạm dụng tiếng nước ngồi,
tiếng cổ và tiếng địa phưng. Ơng địi hỏi sự trong sáng ngôn ngữ. Do cố gắng của
ông, tiếng thành thị đã thắng tiếng nông thôn, tiếng Paris trở thành chuẩn mực của
nước Pháp. Về nghê thuật thơ: Malecber yêu cầu câu thơ phải cân đối, bài thơ phải
chia đoạn mạch rõ ràng, đề tài thơng thường dễ hiểu. Nhìn chung lí luận của
Malecber tạo ra cuộc đấu tranh thống nhất ngôn ngữ phù hợp với cuộc đấu tranh
thống nhất đất nước của thời đại.
- Pascal (1623 - 1662): Nhà khoa học - nhà văn nổi tiếng đầu thế kỉ 17. Có nhiều
phát minh giá trị về Tốn và Lý. Mang tinh thần duy vật và duy lí, cơng trình của
Pascal phản đối sự sùng bái quá khứ, phủ nhận những tín điều giả dối mặc dù ơng là

tín đồ tơn giáo với niềm tin hạn chế. Là nhà văn, Pascal viết tác phẩm " Những bức
thư tỉnh nhỏ " - tập bút chiến gồm 18 bức thư viết cho một người ở tỉnh nhỏ, kịch liệt
phê phán thói vơ ln của những nhà thần học ở Đại học Sorbone, nhất là những
người theo giáo phái Jesus. Nhà văn vách trần thứ lí luận bào chữa cho tội ác cho
6


phép những kẻ quyền thế đứng trên cả pháp luật. Tin tưởng ở chân lí tuyệt đối, ơng
dám chống lại bất kì thứ quyền lực nào kể cả giáo hồng. Mặc dù đả kích mạnh mẽ
nhà thờ và bị họ thù ghét, Pascal vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, ông
vẫn đề cao sức mạnh của " đức tin ". " Những tư tưởng " là cuốn sách của Pascal ghi
chép tản mạn xoay quanh đạo Cơ đốc. Theo ông, thế giới là mênh mang vô tận.
Trong cái cõi vơ tận ấy, con người cảm thấy mình chỉ là một " cây sậy nhỏ bé yếu ớt
" nên cần phải có thượng đế và Tơn giáo giúp đứng vững. Nhận thức về con người,
Pascal vạch ra hai mặt đối lập tự nhiên: Cái cao cả và cái khốn cùng. Chỉ có tư tưởng
mới đem lại sự cao cả cho con người. Ơng khâm phục những người có tư tưởng như
nhà bác học, triết gia, nhà thơ và nhà tâm lí học. Theo ơng, chính dục vọng đã đẩy
con người vào chỗ khốn cùng. Pascal thể hiện một bút pháp phân tích sâu sắc, biện
chứng khi phân tích tâm lí tiêu biểu cho ngơn ngữ thế kỉ 17.

Chương II: Truyện thơ ngụ ngôn La Fontaine (1621-1695)
La Fontaine làm thơ viết văn, nổi bật nhất là viết truyện kể ngụ ngôn, Tác phẩm
Những truyện kể (1665) nội dung bắt nguồn từ kho tàng truyện dân gian, kể cả
những truyện thơ ngụ ngôn trung cổ của Rabelais thời Phục Hưng và những truyện
trong văn học Phục Hưng Italia. Những mối tình vụng trộm lén lút của các thầy tu,
ca ngợi những thú vui trần tục, tự nhiên, bác bỏ luân lí khổ hạnh của nhà thơ. Ông đã
chịu ảnh hưởng thật rõ nét triết lí Gassendy. Thơ ngụ ngơn La Fontaine vươn lên
ngang tầm mọi loại thơ khác trên văn đàn, gồm ba tập viết trong 26 năm. Nhân vật
trong truyện thơ ông thường là con sư tử. Là chúa sơn lâm, sư tử quen ăn bám phè
phỡn trên sự đói khổ cực nhọc của mn lồi. Nó ưa phỉnh nịnh, ln ln hống

hách. Nó kết thân với một lũ tay chân luồn cúi bợ đỡ, lập ra một chế độ cai trị hà
khắc bịp bợm xảo trá. Các loài vật bé nhỏ hiền lành chỉ biết cắn răng chịu đựng. tiêu
biểu là truyện Các lồi vật bị dịch hạch. Tơn giáo - chỗ dựa của nền chuyên chế quân
chủ cũng xuất hiện trong thơ ơng, như: Chó sói và Cáo, Đám ma sư tử, Cụ cố đạo và
Thần chết, Thầy bói rơi xuống giếng, Lá số, Động vật trên cung trăng... La Fontaine
cũng đả kích giai cấp tư sản - những thói hợm hĩnh và thói xấu khác, như Cây sồi và
cây sậy và tính háo danh, bạc bẽo của chúng. Quay về với nhân dân, La Fontaine có
cái nhìn đúng đắn sâu sắc về người lao động. Lão nông và các con. Nhà thơ ca ngợi
niềm vui thanh thản của họ: Cơ hàng sũa và bình sữa,Thần chết và bác tiều phu. Ca
ngợi tình yêu tự do và chung thủy, dũng cảm chống áp bức của dân chúng: Người
nông dân sơng Danube. Nhà văn có lịng u thiên nhiên nổi hơn hẳn các nhà văn
cùng thời. Hình ảnh đó được mô tả đầy cảm hứng, tạo vật hùng vĩ, tươi sáng đầy sức
sống trong thơ văn ông. Bên cạnh chủ đề lên án chế độ chuyên chế như một thế lực
đe dọa cuộc sống và tự do của nhân dân, ơng khơng qn giáo dục sửa chũa cả
những thói xấu của quần chúng. Nhà thơ nói " tơi dùng lồi vật để dạy người đời
một cách có tình có lý, đồng thời phải làm cho người ta vui vẻ ". Ở Việt Nam, thơ
7


ngụ ngôn La Fontaine được dịch từ trước Cách mạng Tháng Tám, sau 1954 tiếp tục
được phổ biến. Gần bốn thế kỉ qua, đối với loài người,thơ La Fontaine vẫn cịn giá
trị và rất hiện đại.
MỘT SỐ BÀI NGỤ NGƠN TIÊU BIỂU CỦA LA FONTAINE
THỎ VÀ RÙA Chạy tốt nhỉ, cốt đi đúng lúc. Chuyện Thỏ, Rùa ngẫm thực rõ hay
Rùa rằng: Ta đánh cuộc này Đích kia chạy đến, anh thách tôi chăng? Chị điên chắc!
Nghĩ xằng mơ hão Chạy hơn ta? Tẩy não đi thôi Khăng khăng mà cứ giũ lời “Điên
hay không, tôi vẫn chơi cuộc này” Họ vào cuộc theo như Rùa thách, Giải hai bên
cạnh đích cùng bày. Hỏi chi vật nọ món này! Lại cần chi biết ai đây trọng tài! Thỏ
chỉ việc nhảy vài bốn cái. (Cái nhảy khi xuýt phải xa cơ, từng làm bày chó ngẩn ngơ,
Rượt theo mà chẳng bao giờ bén chân) Vâng! Thỏ đủ giờ ăn giờ ngủ. Giờ vểnh tai

nghe ngóng đơng tây, Mặc cho cái ả Rùa này Như ơng quan cụ khoan thai lê mình
Rùa rời gót tận tình tận lực, Ỳ ạch lê từng bước cố mau Hợm mình thỏ định chạy sau
Khởi hành cùng lúc hơn nhau quá thường Thỏ nghĩ bụng, “không bươn bả vội Càng
phất phơ càng nổi tài ba! " Thỏ gặm cỏ, thỏ lê la, Thỏ nằm Thỏ nghỉ nhởn nhơ đủ trò
Nhơn nhơn chẳng buồn lo tranh cuộc Cuối cùng … khi Thỏ ngước nhìn lên, Đích kia
Rùa đã kế bên Thỏ ta vội phóng như tên bay vù. Nhưng bay vội q ư vơ ích Chị
Rùa ta tới đích nhanh thay! Rùa cười: Tơi nói chẳng sai, Có ai ăn được cái tài chạy
nhanh? (Huỳnh Lý – Nguyễn Đình dịch)
ƠNG GIÀ VÀ CÁC CON Phú nơng gần đất xa trời, Họp riêng con lại ngỏ lời thiết
tha Rằng: ruộng đất ông cha để lại Các con đừng khờ dại bán đi Kho vàng chôn dưới
đất kia Cha khơng biết chỗ, kiên trì gắng cơng Tìm khắc thấy, cuối cùng sẽ thắngXốc
ruộng lên, tháng tám sau mùa, Tay cày, tay cuốc, tay bừa, Xới qua xới lại chẳng chừa
chỗ không. Bố chết. Các con cùng gắng gổ Lật tung đồng đây đó khắp nơi Kỹ càng
cơng việc xong xuôi Cuối năm lúa tốt bời bời bội thu. Vàng với bạc giấu mô chẳng
thấy Rõ ràng ông bố ấy khôn ngoan. Trước khi từ giã trần gian, Lấy câu “lao động là
vàng” dạy con. (Tú Mỡ dịch)
CÁC LOÀI VẬT BỊ DỊCH HẠCH Một hoạ lớn gây tai dữ dội. Hoạ trời gieo lúc
nổi lơi đình Để trừng trị tội chúng sinh. Chính là dịch hạch - âu đành gọi tên Cái hoạ
một ngày đêm cũng đủ, Làm ngổn ngang đầy ứ tuyền đài. Hoạ nhè loài vật gieo tai.
Dù khơng chết hết mn lồi đều vương, Chán cuộc sống đau thương hấp hối. Kế
bảo sinh chẳng đối chẳng hồi, Cao lương cũng chẳng buồn xơi. Thờ ơ, chồn sói
mặc mồi thơ ngây. Chim gáy cũng lìa bầy lánh bạn. Hết ái ân, thôi cạn nguồn vui!
Thiết triều, Sư tử phán lời: “Chư khanh thân ái nếu tôi không lầm, Trời cố phạt lỗi
lầm ta đấy, Nên bắt ta gánh lấy hoạ này Tội tình ai nặng nhất đây Phải hy sinh để
chịu ngay lịng Trời, May ra bệnh mn lồi được khỏi. Sử sách xưa đã nói rành
rành Gặp tai biến ấy âu đành Vì nhau ta phải quên mình cứu nguy. Đừng tự dối làm
chi các bạn, Nghiêm xét mình cho tận lương tâm … Trẫm thì tham thực quên thân,
Miệng rỗng trót nhá hàng trăm cừu rồi! Cừu đâu đụng đến người của trẫm? Không
8



dối vua chẳng dám khinh nhờn Đôi khi tội trẫm cịn hơn, Ngon mồm có lúc xơi ln
mục đồng. Nếu cần trẫm vui lòng hiến mạng Nhưng xét ra muốn đặng phân minh,
Mỗi khanh nên thú tội mình. Theo gương của trẫm chí tình mới hay… Phải hy sinh
mới thật cơng bình”. Cáo ta đứng dậy tấu trình: “Mn tâu thánh thượng anh minh
tuyệt trần, Lệnh ngài quả băn khoăn q mức, Nhá cừu ư? giống ngốc, giống tồi, Có
gì đáng tội ngài ơi? Chúng còn hân hạnh được ngài nhá cho! Thằng chăn nữa! cái đồ
vơ lại! Chính hắn nên chịu mọi nhục hình, Cái đồ ngợm quá hợm mình, Toan trên
mn vật ngơng nghênh trị vì!” Cáo vừa tấu lời ty tiện đó, Lũ nịnh thần rầm rộ vỗ
tay, Chẳng ai động đến tội dày Của Hùm, của Gấu, của bầy đầu to Lồi vật gây sự
đồ chó má, Theo lời cung đều hoá thành oan! Lừa ta đến lượt mở mồm: “Thưa, tơi
cịn nhớ một hơm thế này: Qua bãi cỏ nhà thày tu nọ, Đói, thời cơ, ngọn cỏ mịn
màng, Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng, Cỏ kia tôi gặm khoảng bằng lưỡi tôi Tôi nào có
quyền xơi thế chứ, Vì lẽ cơng xin thú rạch ròi.” Lừa ta chưa kịp dứt lời, Nhao nhao
kết tội, tiếng sơi cả triều Sói am hiểu ít nhiều pháp luật, Liền hô hào, diễn thuyết ba
hoa, Rằng cần hiến mạng lừa ta, Cái con ghẻ lở gây ra vạ trời! Lỗi tí tẹo tức thời
thành án, xử giảo ngay mới đáng tội đày! Gặm cỏ người! Tội ghê thay! Tội kia chỉ
có cách này: Giết thơi! Để Lừa biết tội trời đầy đủ, Chúng lơi ngay cổ nó hành hình
Lạ chi cơng lý triều đình, Sang hèn thay đổi tội tình trắng đen (Nguyễn Đình dịch)
Chương III: Bi kịch cổ điển Pháp, Corneill và RacineI/ Hai khuôn mặt tiêu biểu Bi kịch là thể loại nghệ thuật phát triển nhanh
mạnh và liên tục, đạt tới tột đỉnh vinh quang và gây nhiều chấn động lớn.
Corneill và Racine là hai gương mặt khác nhau đại biểu ưu tú cho hai thời kì và hai
phong cách khác nhau của bi kịch cổ điển Pháp
1.1 Piere Corneill 1606-1684 người mở đường vinh quang cho bi kịch Pháp Ông
được coi là người khai sinh nền nghệ thuật sân khấu Pháp. Trước ông, nền kịch dân
gian Pháp cịn rất non nớt, chưa có tổ chức, chưa có qui tắc sáng tác chưa thành một
loại hình nghệ thuật hẳn hoi, chỉ giải trí thuần túy với tiếng cười dễ dãi. Trên sân
khấu chuyên nghiệp đã có một số cây bút đáng chú ý nhưng phải chờ đến Corneill
mới thỏa mãn được địi hỏi của cơng chúng nghệ thuật và chiếm lĩnh sân khấu Pháp.
Corneill- người anh hùng của những bi kịch anh hùng - sinh tại Ruan xứ Normandie

trong một gia đình cơng chức. Sau khi tốt nghiệp trường dòng, anh học luật và đỗ
luật sư (1624). Cuộc sống dễ chịu ở quê nhà, Corneill say mê thơ ca và sân khấu,
năm 1629 anh viết vở kịch đầu tay " Meliter ", đưa cho chủ gánh hát kiêm diễn viên
là Mondori. Thành công đầu tiên khiến anh phấn khởi dời Ruan đi Paris, và viết tiếp
một số hài kịch về tình yêu với những đối thoại sinh động hấp dẫn. Năm 1635
chuyển sang viết vở bi kịch đầu tiên là Medee (thuộc truyền thuyết Hi Lạp, tác giả
tiền bối là Euripide). Dù Corneill cố gắng sáng tạo cho hình tượng nhân vật chính
Medee có tính người hơn thời cổ đại nhưng vở kịch vẫn chưa thu được kết quả mong
9


đợi. Sau đó chuyển sang đề tài Tây ban nha, Corneill viết một số bi hài kịch trong đó
nổi bật như ngôi sao là Le Cid (1637). Vở kịch châm ngịi cho một cuộc bút chiến
nảy lửa, lơi cuốn hầu khắp mọi tầng lớp xã hội chú ý, xôn xao. Tể tướng Richelieu
không tán thành cách lựa chọn và giải quyết vấn đề của tác giả nên đã ra lệnh cho
Viện Hàn lâm mang vở kịch ra kết án một cách bất công. Mặc dù vậy quần chúng
vẫn nhiệt liệt hoan nghênh kiệt tác của Corneill. quyền quân chủ chuyên chế phản
ứng quyết liệt, buộc Corneill phải im lặng nghỉ viết một thời gian, lui về Ruan, xem
xét lại nghệ thuật của mình và nghiên cứu kĩ hơn nghệ thuật kịch của thời đại. Thời
kì sáng tác thứ nhất của ông kết thúc tại đây.
Năm 1640 lấy đề tài từ cổ La mã, ông viết hai vở Orax và Sinna ca ngợi những nhân
vật ln ln gạt bỏ lợi ích cá nhân, dù phải tàn nhẫn với cả người thân thích, quyết
đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết. Năm 1644, vở kịch Rodoguine đánh dấu bước
ngoặt mới trong sáng tác của Corneill. Vẫn dựa vào sự kiện thời cổ Hi Lạp, tác giả
muốn miêu tả tập trung sự thèm khát quyền lực và yêu đương của một số nhân vật
quí tộc phong kiến. Những dục vọng ích kỉ này đã vượt lên, đẩy lùi lí trí, dẫn họ đến
tội lỗi. Tiếc rằng về sau ông lại viết tiếp những vở kịch sút kém, khoa trương giả tạo.
Mặt trời bi kịch Corneill bắt đầu lu mờ báo hiệu sự khủng hoảng nghiêm trọng của
nhà thơ trước thời đại và nghệ thuật cung đình. Cái mới trong giai đoạn ba này là:
bên cạnh đấu tranh nội tâm diễn ra ở người anh hùng dũng cảm ln ln gạt bỏ tình

cảm riêng tư vì lợi ích quốc gia, xung đột bên trong đã được chuyển ra ngoài thành
xung đột hai lực lượng xã hội – chính nghĩa và phi nghĩa...
Vở bi kịch Le Cid Ra mắt công diễn tại rạp hát Mare thủ đơ Paris tháng 12 năm
1636. Thắng lợi của nó thật huy hồng, cơng chúng nồng nhiệt chào đón. Khi đánh
giá những tác phẩm khác, người ta lấy Le Cid làm mẫu mực, " đẹp như / hoặc không
bằng Le Cid ".Vở kịch được trình diễn nhiều lần trước hồng hậu và tể tướng, được
thưởng 15000 livre. Vở kịch in thành sách hai lần trong năm đầu. Nhờ vở kịch, cha
của Corneill được phong tước quí tộc. Lấy đề tài từ kịch Tây Ban Nha, sở trường của
sân khấu Pháp, Le Cid là tiếng Ả rập nghĩa là "đức ông " - biệt hiệu của nhân vật
chính Rodrigue. Rodrigue vốn là nhân vật lịch sử có thật, một chiến binh anh hùng
có cơng đánh thắng qn Ả rập nên được binh lính gọi là Đức ơng. Anh trở thành
anh hùng dân tộc, theo đạo Cơ đốc. Truyền thuyết dân gian và truyện thơ dân gian
đã kể nhiều về anh.. Corneill đã sử dụng tài liệu sưu tầm, sử liệu, chọn lọc chi tiết,
thêm vào những chất thời sự nước Pháp để xây dựng thành vở bi kịch điển hình
chung của Tây Âu.
CỐT TRUYỆN: Tiểu thư Simen và công tử Rodrigue u nhau, được hai gia
đình thuận tình cho đính hơn. Trước khi cưới, một sự cố xảy ra. Trong một hội nghị
ở triều đình, cha của Simen gây xung đột với cha của Rodrigue (nguyên sự việc là:
Don Diego - cha của Rodrigue - được bổ nhiệm chức quân sư phó, bá tước Don
Gormas - cha của Simen - một võ tướng lão thành - phản đối, cãi cọ và tát vào mặt
10


Don Diego. Bá tước Diego ôm hận về nhà kể cho con nghe và bảo con rửa nhục cho
cha. Anh tự đấu tranh dằn vặt, cuối cùng đành đến gặp lão tướng Don Gormas cha
vợ tương lai. Trước hết anh tha thiết đề nghị ơng giảng hịa với cha mình. Nhưng lão
tướng từ chối. Buộc lòng, anh phải thách đấu. Kết quả lão tướng đã ngã gục dưới
lưỡi kiếm của anh. Tiểu thư Simen quá đau đớn, đòi nhà vua phải xử tội Rodrigue
đền mạng.Lão đại thần Don Diego xin vua cho ơng nhận án tử hình thay con trai.
Vua cịn đang phân vân khó xử. Rodrigue đến gặp Simen, nghe được tâm sự day dứt

khổ đau của nàng giữa tình yêu và bổn phận, anh tình nguyện nộp mình cho nàng trả
thù nhà. Nhưng Simen từ chối và bảo:" chàng đã làm đúng bổn phận! ". Còn nàng,
để xứng đáng với chàng Simen cũng sẽ làm tròn bổn phận - nghĩa là đòi nhà vua xét
xử anh. Một cuộc xâm lấn của quân Moore khiến triều đình phải lo đối phó. Vụ xét
xử Rodrigue hỗn lại. Vua cử chàng cầm quân ra trận. Simen phản đối nhà vua, vua
khuyên giải: " chừng nào Rodrigue chiến thắng trở về hãy xét xử cũng chưa muộn,
còn nếu anh ta hy sinh thì coi như quân Moore đã thay chúng ta thi hành án (!)
Rodrigue lập nhiều chiến công, đang trên đường thắng trận trở về. Nhà vua giả bộ
báo tin cho Simen biết chàng đã tử trận. Nàng đau đớn thương xót chàng, khóc ngất
đi. Khi biết mình lầm, nàng lại địi triều đình phải thi hành cơng lý. Trở về, Rodrigue
lại đến nhận tội với Simen và xin chờ nàng ra tay hành động. Nàng chối từ nhưng
nghĩ cách khác. Có một gã q tộc tên Don Sanche vốn theo đuổi nàng từ lâu, nay
chộp cơ hội tiếp tục theo đuổi, đến an ủi Simen. Nàng bảo gã thay mặt nàng ra tay
bảo vệ danh dự nàng bằng một cuộc quyết đấu với Rodrigue, sau đó nàng sẽ nhận lời
cầu hôn của hắn. Rodrigue chối từ, một mực chấp nhận chịu chết dưới tay nàng để
giúp nàng làm tròn bổn phận người con. Nàng yêu cầu anh nhận lời thách đấu của
Don Sanche với điều kiện ai thắng nàng sẽ cưới người ấy. Anh khơng cịn cách lựa
chọn nào khác. Simen ở nhà nôn nao chờ đợi kết quả. Khi nhìn thấy gã Don Sanche
xách kiếm trở về, Simen nhào ra cào xé gã, xỉ mắng gã đã nhẫn tâm giết chàng. Sự
thật là Rodrigue thắng trận nhưng anh đã tha chết cho đối phương. Nhà vua can
thiệp, tuyên bố xóa tội cho Rodrigue và an ủi và nhắc Simen thực hiện cam kết trước
khi quyết đấu. Hai người chấp hành lệnh của hoàng đế, chuẩn bị đám cưới mở đầu
một cuộc sống hạnh phúc lâu dài.
GỢI Ý PHÂN TÍCH VỞ KỊCH (Tìm hiểu mâu thuẫn dẫn tới xung đột, cách giải
quyết xung đột, ai là nhân vật bi kịch? tính chất của bi kịch là gì?)
Vở kịch khẳng định thắng lợi oanh liệt của lí trí (ý thức về nghĩa vụ) vượt qua dục
vọng cá nhân (tình u đơi lứa) và danh dự dịng họ (bổn phận gia đình). Xung đột
bi kịch nổ ra từ mâu thuẫn không thể hòa giải được giữa Cái Chung và Cái Riêng,
tức là giữa xã hội và cá nhân, lí trí và tình cảm. Các nhân vật trung tâm có tính cách
anh hùng kiểu mới xuất hiện trên sân khấu. Họ có sức sống nội tâm mãnh liệt.

Những đầu óc tỉnh táo sáng suốt có ý thức sâu sắc về nghĩa vụ - trước hết là nghĩa vụ
gia đình (cần bảo vệ danh dự gia đình). Mặt khác họ là những trái tim nồng cháy yêu
11


thương (tình u lứa đơi). Cả hai nhân vật đều mạnh mẽ, rạch ròi phân minh nhưng
đi ngược chiều nhau và mâu thuẫn phát triển dần tới xung đột - phải loại bỏ lẫn
nhau! Tình cảm mặn nồng chính đáng vẫn không làm lu mờ ý thức nghĩa vụ, ý thức
danh dự, nó phải khuất phục trước ý chí.
Nói cách khác, ý thức nghĩa vụ, ý thức danh dự trở thành nền tảng của mọi tình cảm
kể cả tình yêu. Lí trí thắng lợi làm nên phẩm chất, đức hạnh người anh hùng kiểu
mới của thời đại và là tiêu chuẩn của vẻ đẹp mới mẻ của thế kỉ. Rodrigue và Simen
đáng u đáng kính vì họ đã mang lí tưởng của thời đại. Sự kiện chàng Rodrigue
đánh thắng quân xâm lược Moore có ý nghĩa quan trọng về tư tưởng nghệ thuật, góp
phần giải quyết gỡ nút được ổn thỏa. Tư tưởng ấy là: dốc sức giữ gìn đất nước dù
phải hy sinh tình nhà và tình u đơi lứa (cá nhân). Bổn phận gia đình dịng họ tuy
lớn lao hơn cá nhân song cũng phải nhường bước cho nghĩa vụ công dân trước vận
mệnh quốc gia. Rodrigue - người con hiếu thảo, người công dân anh hùng và người
tình chung thủy - chàng đã khéo hành động sao cho trọn vẹn. Rodrigue và Simen, họ
tự hào vì được chiến đấu hi sinh cho nghĩa vụ lớn lao (gia đình, đất nước).
Lí tưởng của họ vấp phải trở lực của tình cảm riêng tư, một tình cảm nồng nhiệt.
Tình u có sức hấp dẫn say người khơng dễ gì cưỡng lại được. Cịn lí trí thì địi họ
phải tn lệnh. Cuộc vật lộn nội tâm gây chảy máu tâm hồn nhưng họ đã tự thắng
mình, tiến tới thắng lợi vinh quang. Rodrigue chẳng phải ngay từ đầu anh đã đứng
hẳn về phía bổn phận gia đình. Anh cố gắng tìm cách hịa giải, nhưng thất vọng. Khi
đã hành động, anh khơng hối hận. Anh nói với Simen: " Anh sẽ còn làm như thế nếu
anh phải làm " - và trái tim yêu thương của anh tan vỡ cùng với nỗi đau đớn của
người yêu. Anh muốn tìm một cái chết để trọn vẹn đôi đường (bổn phận gia đình và
tình u). Nếu khơng xảy ra cuộc xâm lược của quân Moore thì kết cục kể như thế là
xong. Khi ra trận anh dồn hết sức chiến đấu, thắng lợi vinh quang trở về. Anh quay

trở lại với món nợ tình cần phải trả bằng máu. Rodrigue là hình ảnh mẫu mực cao
đẹp trọn vẹn của con người lí tưởng của thời đại. Simen yêu say đắm đến mức sẵn
sàng chết theo anh nhưng cũng rất phân minh khi giải quyết mối quan hệ cá nhân và
gia đình. Thù cha cao hơn tình u, rồi đến nghĩa vụ cơng dân cao hơn danh dự gia
đình. Khi địi trừng phạt người yêu, cô vẫn thừa nhận anh đã hành động đúng, " và
em cũng phải xứng đáng với chàng ". Cô vẫn khâm phục anh là con người cao
thượng đáng kính: " anh đã làm bổn phận của một người có danh dự... xúc phạm đến
em, anh đã tỏ ra xứng đáng với em. Thì bằng cái chết của anh, em cũng phải tỏ ra
xứng đáng với anh ". Lí trí soi sáng mọi hành động của Simen ( SV hãy so sánh
với trường hợp Juliet tha thứ cho Romeo tội giết Tibalt anh họ thân thiết của nàng nhưng khác nhau về tình hình thời đại, dẫn đến lí tưởng khác nhau - giống nhau là lí
trí chiến thắng...) Don Diego cha của Rodrigue, lúc đầu chỉ nghĩ đến thù riêng, sau
khi thù đã rửa ông lại tỉnh ngộ trở về với lí trí. Ơng tự nhận tội mình, xin đổi mạng
cho con, tích cực bào chữa cho con vì ơng nhận thức rằng Rodrigue là tấm lá chắn
12


của nền an ninh đất nước Tây Ban Nha trước kẻ thù bên ngồi. Ơng giục giã con đi
ngay ra tiền tuyến, nhắc con làm tròn bổn phận dù phải hi sinh thân mình.
Vở bi kịch "Le Cid " là một điển hình sân khấu với đề tài mang tính phi thường đột
xuất ((nghĩa là không phải chuyện đời thường), cốt truyện phức tạp nhiều biến cố
lớn, nhân vật siêu phàm về tính cách, có tính cách quả cảm, ý chí mãnh liệt. Hành
động kịch chặt chẽ dồn dập, đối thoại và độc thoại sắc bén, khí thế bi hùng của cuộc
đọ kiếm nảy lửa.
Sự thống nhất giữa nội dung và nghệ thuật kịch khiến cho tác phẩm không gây ra sự
nghi ngờ của khán giả về sự giả tạo khoa trương mà còn chứa chan ý vị lạc quan thơi
thúc cơng chúng vượt qua tất cả vì sự chiến thắng của lí tưởng cao đẹp. Vở bi kịch
Le Cid vừa ra mắt khán giả lập tức thu hút dư luận Paris, gây tiếng vang lớn trên
kịch trường Pháp. Tên tuổi Corneill nổi như sóng cồn. Những nhà văn vốn khơng ưa
thích tác giả đã phải thốt lên: " mặt trời đã mọc rồi, các ngôi sao hãy lặn cả đi ". Về
sau có nhà phê bình đã nhận xét: " Tác phẩm Le Cid không phải chỉ là sự khởi đầu

của một người, đó là sự khởi đầu cuả một nền thi ca và là rạng đông của một thế kỉ
lớn ".
Tuy nhiên những lời cơng kích phê phán tác giả và tác phẩm cũng khơng ít và chẳng
kém phần nặng nề gay gắt. Một số nhà văn không tên tuổi được triều đình nâng đỡ
đã ghen ghét Corneill, vu cáo ông " ăn cắp văn của Tây ban nha, thiếu đạo đức khi
cho Simen hứa hôn với kẻ đã giết cha mình.v.v… Nhận chỉ thị của giáo chủ tể tướng
Richelieu, Viện hàn lâm Pháp đã công bố nhận xét (1638) nhằm chỉ trích vở kịch
một cách nghiệt ngã. Họ nhằm vào một số chi tiết vụn vặt: không tuân theo qui tắc
cổ điển của Aristote - thời gian truyện kịch dài quá 24 giờ (nhà văn Voltaire chỉ ra
điều đó ở câu thứ 1169: lời hồng hậu nói với Simen). Kịch không đạt duy nhất về
hành động: cả công chúa cũng yêu Rodrigue. Kịch đã viết một đoạn tình ca thất luật.
Kết thúc kịch khơng phù hợp thể bi kịch và " không giống như thật ". Nhà thơ
Corneill bị cấm không được viết bài tranh luận trước sự kết án bất cơng đó. Thực
chất, lời buộc tội của viện hàn lâm che giấu một thái độ chính trị- các nhà cầm quyền
bất mãn với tư tưởng tự do của Corneill. Dưới con mắt của giáo chủ tể tướng và bọn
thống trị, Rodrigue người anh hùng lí tưởng của vở kịch đã coi thường pháp luật,
thiếu tôn trọng triều đình (đấu kiếm để giải quyết mâu thuẫn cá nhân trong khi pháp
luật cấm đấu kiếm). Nào là vở kịch đề cao anh hùng Tây ban nha là trái với tinh
thần dân tộc Pháp (hồi đó xung đột chiến tranh giữa Pháp và Tây ban nha còn dai
dẳng ác liệt). Mặc dù Corneill nhiều lúc xa rời qui tắc cổ điển mà các nhà lí luận
cung đình địi hỏi khắt khe, nhưng chính điểm đó là sự lơi cuốn mạnh mẽ nhất đối
với nhà văn lãng mạn sau này. Phải mất nhiều thời gian tranh luận, hội thảo. thăm dị
dư luận quần chúng, khi tình hình chính trị thay đổi vở kịch Le Cid mới được chính
thức cơng nhận. (*)*
1.2 Racine (1639-1699) và bi kịch Andromaque Nhà thơ Racine13


người kế tục nhưng trước đó là đối thủ số một của Corneill trên sân khấu. Thực sự
nổi tiếng ở nửa sau thế kỉ XVII, Racine làm cho kịch cổ điển đạt tới đỉnh cao hoàn
hảo về nghệ thuật xây dựng mẫu nhân vật và sự phân tích tâm lí tinh tế. Với Racine,

những người phụ nữ và những nhà vua chúa yêu đương - nạn nhân khốn khổ của sự
thèm khát chaý bỏng -đã chiếm lĩnh sân khấu, thay thế cho những tâm hồn cao
thượng của thời Corneill, đã phản ánh bước ngoặt phức tạp của lịch sử và văn học,
tâm trạng chán chường của những tầng lớp tiến bộ nhất của xã hội Pháp những năm
cuối triều vua Louis XIV. Racine sáng tác một cách tự nhiên, tài tình khi phản ánh
chân thực hiện thực Pháp trong khn khổ tù túng của qui tắc cổ điển chủ nghĩa
chính thống. Nhà phê bình văn học Boileau viết cuốn " Nghệ thuật thi ca" (hoặc
Nghệ thuật thơ) tổng kết lí luận văn học ưu tú của " đại thế kỉ " chủ yếu dựa vào sự
nghiên cứu những vở kịch thơ xuất sắc của Racine. Nghệ thuật kịch của Racine liên
tục đặt ra những vấn đề lí luận mới cho thế kỉ XVII và cả những giai đoạn sau nữa.
Có lúc, nhà nghệ sĩ được sùng bái hết mức, lúc khác lại bị coi là thứ đồ cổ trong viện
bảo tàng. Nghệ thuật Racine luôn luôn là chỗ dựa cho nhiều trường phái nghệ thuật
mới, nhất là các trường phái hiện đại ở Phương Tây. Racine vừa cổ điển lại vừa hiện
đại. Racine- nhà bi kịch của con người hai mặt- sinh ngày 22 tháng 12 năm 1639 tại
Ferte Milon trong một gia đình cơng chức khá giả.. Lên bốn tuổi đã mồ côi cả cha
lẫn mẹ, Racine ở với bà nội và cô ruột. Cô đi tu, cậu bé cũng theo vào học luôn ở tu
viện Po Royal. Vài năm sau, cậu bé được gửi tới trường trung học Bove để học các
khoa học nhân văn. Trở lại Po Royan, Racine tiếp tục thụ giáo những người thầy
uyên bác của giáo phái Jeansenis nổi tiếng về sự khắc kỉ đạo đức, bi quan yếm thế về
thế giới và nhân sinh. Họ cho anh tiếp xúc với thi ca của Homer, triết học Platon...
(cổ Hi Lạp). Nói chung anh được học nhiều về văn hoá cổ Hi-La. Họ cố gắng làm
cho Racine cậu học trò trung học rung động với vẻ đẹp của tiếng Pháp. Sự đào tạo
có tính chất tôn giáo đạo đức và những kiến thức theo quan điểm Jeansenis đã đặt cơ
sở vững chắc, để lại ảnh hưởng sâu xa trong nhà nghệ sĩ Racine sau này. Những ảnh
hưởng đó là: Cảm quan đen tối về cuộc đời. Mầm mống yếu hèn, tội lỗi trong bản
chất con người và sự bất lực của nó trước sự xơ đẩy của những thế lực thù địch.
Những ước mơ thầm kín về tự do, dân chủ và nhân đạo. Nỗi khát khao hướng về
cuộc sống vô thần và những thú vui trần tục. Đó là những mâu thuẫn rồi sẽ chi phối
cuộc đời và sáng tác văn học của Racine. Rời khỏi tu viện Po Royal, Racine đi Paris,
tiếp xúc với các nhà văn và những người trí thức tiến bộ. Anh bắt đầu làm thơ và say

mê sân khấu. Năm 1660, nhân lễ cưới của nhà vua, Racine viết bài thơ " Tiên nữ
sông Seine " dâng lên vua, được thưởng 100 đồng livre. Racine thử viết kịch. Lo
lắng trước con đường đời của Racine, gia đình tìm cách kéo con ra khỏi cái thế giới
văn học nghệ thuật đáng lo ngại. Racine phải đến thị trấn Undex chuẩn bị nhận chức
thày dòng.Trong khi chờ đợi, Racine tranh thủ làm thơ...

14


Năm 1663, Racine trở lại Paris, cho xuất bản hai tập thơ " Đức vua bình phục" và"
Vinh quang của các thi thần ". Hai tập thơ được dư luận chú ý, tác giả được mời gặp
mặt ở triều đình. Racine kết thân với nhà phê bình Boileau và chuyển hẳn sang viết
kịch.Hai vở đầu tay " Người thành Thebes" và "Alexandre đại đế " được biểu diễn
kết quả tốt nhờ đồn Kịch hồng gia của Moliere. Sau đó ơng chê diễn viên của
Moliere, đưa vở kịch kế tiếp cho đoàn kịch khác diễn. Việc này gây ra mối bất hoà
với vua hài kịch Moliere. Mấy tháng sau, nhận được một bức thư của một thầy học
cũ thuộc giáo phái Jeansenic viết:" Nhà văn nhà viết kịch là những kẻ đầu độc,
không phải thể xác mà tâm hồn những người sùng tín ", Racine nghĩ rằng thầy cũ có
ý ám chỉ mình, ơng viết thư trả lời gay gắt bênh vực nhà văn nhà thơ và phê phán
giáo phái Jeansenis. Từ đó Racine đoạn tuyệt với tu viện Po Royal. Thắng lợi đầu
tiên đem lại niềm tự hào lớn và khẳng định vững chắc vị trí và tài năng của Racine là
vở bi kịch Andromaque được công diễn lần đầu tại triều đình năm 1667. Vở kcih5
tác động mạnh đến công chúng Pháp và chia họ thành hai trận tuyến đối lập. Nó báo
hiệu sự xuất hiện một phong cách bi kịch mới lạ so với bi kịch anh hùng của
Corneill giai đoạn trước... Sau đó liên tục trong 10 năm Racine cho ra mỗi năm một
vở, vừa dần dần chinh phục khán giả vừa đẩy lùi các khuynh hướng đối lập... Racine
bị phê phán là " kịch mang tính phi đạo đức " từ những kẻ bất tài đố kị đối lập, thù
địch. Ơng trở nên nản lịng, ngừng sáng tác và trở lại hoà giải với tu viện Jeansenis.
Tuy thế, ông vẫn được vua Louis chọn làm thư kí riêng, rồi làm nhà viết sử của triều
đình. Năm 1689 theo u cầu của hồng hậu, ơng viết vở kịch dựa theo Kinh Thánh

dành cho những nữ sinh của nhà tu Saint Sier tập diễn trong nội bộ. Vở kịch có một
phong vị riêng, dàn đồng ca phụ hoạ, nội dung đề cao lòng nhân ái và sự khoan dung
tơn giáo của nhà vua. Sau đó ơng viết vở kịch tôn giáo thứ hai Atali" - đây là vở kịch
cuối cùng của sự đổi mới lớn lao táo bạo. Sau Atali, Racine soạn cuốn " Lược sử Po
Royal " in đậm tư tưởng giáo phái Jeansenis. Rồi ông nghỉ viết lui về giao thiệp với
những người Jeansenis. Lúc này giáo phái khơng ủng hộ sự độc đốn của nhà nước
chuyên chế nên Racine bị vua Louis XIV nghi ngờ, bỏ rơi. Racine chết năm 1699,
chôn tại tu viện Po Royal. Bi kịch của Racine được chia làm 3 giai đoạn trong 30
năm sáng tác. Giai đoạn 1- hai vở kịch có nguồn gốc văn học cổ Hi Lạp- La mã,
chưa hình thành phong cách riêng, chỉ là sự nối tiếp bi kịch anh hùng (kiểu Corneill)
hoặc bi kịch phong nhã. Giai đoạn 2- bước đi mạnh mẽ dứt khoát lộng lẫy hào
quang, liền một mạch từ vở Andromaque đến Federer. Đây là giai đoạn của những
vở bi kịch hay nhất. Những nhân vật ln ln chất chứa trong lịng nỗi thèm khát cá
nhân ghê gớm, thèm khát yêu đương hoặc quyền thế mang tính đen tối, tội lỗi. Nó
nung nấu ruột gan con người, thơi thúc người ta tìm cách thoả mãn mau chóng bằng
mọi giá. Nó được miêu tả như một định mệnh khắt khe không rõ nguyên nhân nào
thơi thúc. Sụ thèm khát đó vấp phải trở lực cũng mạnh mẽ chẳng kém- đó là Lí trí
ln cố giữ con người theo lẽ phải. Cuộc xung đột âm thầm mà quyết liệt giữa thèm
15


khát tội lỗi và lương tri sáng suốt là xung đột cơ bản trong kịch Racine. Thèm khát
không thoả mãn càng nóng bỏng và chuyên chế. Kết quả là sự thất bại của Lí trí, gây
ra kết cục đau thương khủng khiếp của nhân vật chính. Racine mở ra loại thể mới bi kịch tâm lí. Bi kịch tâm lí của Racine có giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Nó
phản ánh thực tế lịch sử sinh động của xã hội Pháp dưới cái nhìn tiến bộ của nhà
văn. Sang nửa sau thế kỉ XVII, chế độ quân chủ pháp bước vào thời kì ổn định và
thịnh vượng khi các thế lực phong kiến cát cứ địa phương đã tê liệt chịu qui phục
triều đình của hồng đế, họ được phong tước và sống bám lấy triều đình. Quan chức
trở thành lũ ăn bám, lượn lờ xu nịnh, cầu cạnh ân huệ bổng lộc, sớm tối lu bù yến
tiệc, vũ hội, săn bắn, biểu diễn văn nghệ...Họ không bàn chuyện chính trị và lợi ích

quốc gia dân tộc. Khơng dễ dàng gạt bỏ lợi ích cá nhân vì một nghĩa vụ chung. Sống
nhàn tản, họ vùi đầu vào những chuyện riêng tư trong phạm vi xã hội thượng lưu.
Người ta thích tỏ ra tế nhị, lịch sự, ăn nói có dun, hiểu tâm lí, chiều chuộng phụ
nữ... u đương khơng chỉ là nhu cầu mà cịn là thú vui thời thượng. " Con người
phong nhã " đã thay thế “con người anh hùng cứu nước” của nửa đầu thế kỉ. Tình
trạng ấy phù hợp cuộc sống xa hoa phù phiếm chốn cung đình nhưng rất xa lạ thậm
chí đối nghịch với kì vọng của nhân dân và trí thức về một chế độ quân chủ tập trung
có khả năng phát huy hơn nữa "sự vĩ đại Pháp". Là một nghệ sĩ cũng là một quan
chức nhiều năm gắn bó với triều đình Louis XIV, Racine đã thấy và phản ánh được
cả một tầng lớp xã hội Pháp vào tác phẩm. Những vở kịch của Racine đã thoả mãn
được cơn khát văn hoá nghệ thuật của thời đại. Càng về cuối thế kỉ XVII, chính
quyền Louis XIV càng tha hoá và độc đoán, trở nên thù địch với nhân dân. Quần
chúng bất bình, các nhà văn nghệ sĩ cổ điển tiến bộ đã dũng cảm tố cáo nạn chuyên
chế đó.
Những vở bi kịch của Racine xây dựng đề tài từ những thèm khát uy quyền, địa vị
cá nhân... đã trở thành vũ khí sắc bén chống cường quyền bạo chúa, phát ngôn lời
kết án của lịch sử và nguyện vọng chính đáng của xã hội, đấu tranh cho tự do dân
chủ. Trong khi phản ánh cuộc sống hiện thực, Racine để lại những dấu ấn riêng của
nghệ sĩ. Đó là tâm hồn nồng nhiệt, dễ bị kích động và những mâu thuẫn bên trong
của mình: Sùng đạo nhưng lại say mê vẻ đẹp nhân văn cổ đại Hi Lạp La mã ; Ràng
buộc với tu viện Po Royal nhưng lại khó dứt ra khỏi cung điện Verseill (cung vua)
hoa đăng lộng lẫy ; Vừa muốn làm nhà giáo dục đạo đức chính thống vừa náo nức
muốn làm người thức dậy tâm hồn quần chúng ; Cố tỏ ra làm tròn bổn phận nhưng
lại mắc lỗi với vua, với thầy cũ, với bạn và vợ...Hình như có hai con người đối lập
giành giật chiếm giữ con người Racine: một con người lí trí chịu ảnh hưởng tơn giáo
và phong kiến, người kia là con người đầy cảm tính ln hướng về cuộc sống thực tế
đầy hấp dẫn, cám dỗ. Chính tác giả đã có lần tự thú như vậy. Tính bi kịch " con
người hai mặt" trong cuộc sống của Racine là yếu tố quan trọng làn nên tính bi kịch
trong tác phẩm nghệ thuật của ơng. Có lẽ Racine đã từng nghiền ngẫm cuốn tiểu
16



luận khoa học của Descartes " Bàn về những thèm khát của tâm hồn". Racine đã đào
sâu vào tâm lí con người, chọn những thèm khát cá nhân làm đối tượng miêu tả
chính. Nhà triết học đã lơi kéo nhà văn cùng góp phần giải quyết vấn đề có tính thời
sự của xã hội Pháp nửa sau thế kỉ XVII. Trong tác phẩm, Racine khơng kết tội, đơi
khi có vẻ đồng tình với thèm khát. Thật ra, nỗi thèm khát là một hiện tượng tâm lý
nếu được dẫn đắt thích hợp thì có thể nâng tâm hồn đến với những công việc vĩ đại
(Luận văn của Diderot - thế kỉ Ánh sáng 18). Những nhân vật bi kịch của Racine
thất bại đáng kết tội chẳng phải vì họ thèm khát đắm say một con người hay ham mê
cái ngai vàng. Theo Racine cái khát vọng ấy vốn là có sẵn trong con người, ở ngồi
sự lựa chọn của con người.Đó là thèm khát chống phong kiến để giải phóng bản
năng, tự do dân chủ. Nó khát vọng muốn nâng cao con người nhân văn chủ nghĩa
Phục Hưng từng một thời được thể hiện ào ạt, nay cần được thể hiện trong phạm vi
hẹp và sâu sắc hơn. Nó chính là nhu cầu của giai cấp tư sản đang tiến lên. Nó đi tìm
một sự qn bình mới, sự thăng bằng của lí trí và tình cảm cảm xúc khiến cho cá
nhân có thể phát triển cân đối hài hồ... Nhìn thấy được những nét lành mạnh quí
hiếm trong các tâm hồn tội lỗi, tác phẩm của Racine in dấu một tinh thần nhân đạo
chủ nghĩa chân chính. Giai đoạn 3 - khơng có nhiều tác phẩm như hai giai đoạn
trước, nhưng lại là bước ngoặt quan trọng đảo lộn cả cuộc sống và nghệ thuật bi
kịch.
GIỚI THIỆU HAI VỞ KỊCH TIÊU BIỂU: ANDROMAQUE VÀ ATALI BI
KỊCH ANDROMAQUE:
Bối cảnh: thành Troie (Ilion) thời hậu chiến. Nhân vật: Andromaque - vợ goá của
dũng sĩ hoàng tử Hector (thành Troie thất thủ) Pyrus - lãnh chúa mới của thành
Troie, gốc người Akay, con trai của anh hùng Achill quá cố trong cuộc chinế tranh
10 năm đánh thành Troie.. Ecmion - công chúa con vua Menelax xứ Hi Lạp (Akay),
người yêu của Pyrus Oreste - tướng Hi Lạp, say mê đeo đuổi Ecmion. Tóm tắt cốt
truyện kịch: Pyrus đã đính hơn với cơng chúa Ecmion nhưng khi đến cai quản thành
Troie anh lại đem lịng u Andromaque vợ gố của dũng sĩ Hector. Andromaque tỏ

ra một mực giữ thuỷ chung với chồng và trọng danh dự thành bang, nàng kiên nhẫn
chối từ lời cầu hôn của con trai kẻ thù. Nàng cố không bị nao núng trước sự cầu hôn
nồng nhiệt thiết tha của tướng trẻ Pyrus. Trong khi đó, biết tin người yêu đang bỏ rơi
mình, cơng chúa Ecmion lo lắng bồn chồn... Giữa lúc đó, Oreste viên tướng trẻ người đang theo đuổi công chúa Ecmion nhận được lệnh nhà vua Menelax đến thành
Troie truyền lệnh cho Pyrus phải bắt đứa con trai nhỏ của Hector (tên cậu bé:
Astianax) đem về xứ Hi Lạp để trừ hậu hoạ. Thừa dịp này Pyrus ép nàng
Andromaque nhận lời lấy y và hứa sẽ bảo tồn tính mạng đứa con trai. Cịn Oreste
nhân chuyện này cũng lo tính giành lấy tình u của cơng chúa Ecmion. Nàng
Andromaque lo sợ bàng hồng trước tình thế nan giải. Chịu nhục kết hơn với kẻ thù
thì cứu được con trai, chưa có cách nào hơn, nàng đành ưng thuận lời cầu hôn của
17


Pyrus. Tướng trẻ Pyrus quên hẳn mệnh lệnh của nhà vua, anh ta vui mừng chuẩn bị
đám cưới. Còn Ecmion căm hờn vị bị ruồng bỏ, nàng hứa sẽ nhận lời cầu hôn của
Oreste và yêu cầu anh ta giết chết Pyrus cho hả giận. Tướng Oreste cũng vì say mê
nàng công chúa mà liều lĩnh ra tay sát hại Pyrus sau giờ hơn lễ... Nàng cơng chúa
Ecmion vẫn cịn nặng tình yêu Pyrus, hối hận, nàng xỉ mắng Oreste rồi tự vẫn bên
xác người yêu. Còn Oreste nhực nhã tuyệt vọng phát điên và bị hoàng hậu
Andromaque vừa lên ngôi cai trị thành Troie phát lệnh truy nã, y được đám lính đưa
đi chạy trốn biệt xứ. GỢI Ý PHÂN TÍCH: Xét về mặt hình thức, Andromaque là
nhân vật chính - nhân vật nữ anh hùng chiến thắng (được nhà thơ đặt tên vở bi kịch).
Nàng cố bảo vệ danh dự của chồng và danh dự thành bang công đồng Troie. Nàng
ứng biến tuỳ thời để bảo vệ sinh mạng con trai - nó cũng niềm hi vọng của thành
bang. Nhưng khi chúng ta xét toàn bộ vở kịch, thực sự nàng chỉ là nhân vật chính
giả. Ý đồ nghệ thuật xây dựng nhân vật này để làm điểm tựa cho bối cảnh, mặt khác
để nguỵ trang vượt qua kiểm duyệt và mũi nhọn chỉ trích của triều đình. Thực sự
những nhân vật còn lại mới là nhân vật bi kịch chính thức. Hành động kịch của
Andromaque bề ngồi có vẻ phức tạp quyết liệt song thực tế vẫn là đơn giản, chưa
phải là hành động bi kịch. Tuy nhiên nàng vẫn được coi là hình ảnh người vợ người

mẹ đẹp đẽ và cao cả, đáng ngợi ca trên những vần thơ vì tấm gương quên mình..
Nàng khéo léo chối từ kẻ cầu hôn, rồi lại nhẫn nhục đến gặp công chúa Ecmion để
cầu xin cho con trai nhưng vơ hiệu quả. Nàng biết khéo léo nhen nhóm hi vọng cho
kẻ si tình để kéo dài thời gian.. Nàng là hình ảnh người vợ, người mẹ lí tưởng biết
xử lý hài hồ giữa lí trí và tình cảm. Pyrus mới thực sự là hình ảnh đại diện của con
người đương thời nửa sau thế kỉ 17. Anh ta luôn ln bị mối tình si lơi cuốn. Bản
chất của anh hiền lành, quảng đại, khiêm nhường có thể trở nên ông vua tốt của xứ
sở Troie mới chinh phục. Nhưng vì tuổi trẻ bị cơn thèm khát chiến thắng thúc giục,
anh trở nên nóng nảy. Hai tính cách: lãnh chúa thô bạo và anh hùng phong nhã giành
nhau trong bản thân Pyrus. Tuy là kẻ anh hùng chiến thắng, vì say mê sắc đẹp của
Andromaque đến nỗi anh hạ mình hết mức cầu xin tình yêu của người phụ nữ yếu
đuối. Nàng chẳng có gì ngồi sắc đẹp và nỗi khổ đau. Những cuộc đối thoại giữa hai
con người thay bậc đổi ngơi: nàng là nữ hồng cịn chàng là kẻ đầy tớ, thật éo le, dồi
dào kịch tính. Say đắm Andromaque, anh ta quên hết lời hẹn ước hôn nhân với công
chúa con vua Menelax. Say mê Andromaque, anh khinh rẻ cả đống tro tàn còn âm ỉ
cháy ngọn lửa hận thù ở thành Troie. Say mê Andromaque, anh ta dám chống lại cả
vương triều tổ quốc Hi Lạp hùng mạnh.Và say đắm Andromaque, anh ta quên cả
cảnh giác giữ gìn tính mạng. Tình u làm anh ta trở nên hung dữ, đáng sợ càng
thèm khát ráo riết hơn. Anh ta dùng mọi thủ đoạn để chinh phục trái tim
Andromaque -người vợ gố, khơng bận tâm vì cái tang chồng của nàng. Và khi nàng
chấp thuận lời cầu hôn thì Pyrus lại chứng tỏ là kẻ nam nhi có tình u chân chính
cao thượng, sẵn sàng từ bỏ tổ quốc Hi Lạp để bảo vệ đứa con trai của người mình
18


u. Đó là những tình huống bi kịch thật sự, khơng hề giản đơn, một chiều và chưa
thấu tâm lí như Andromaque.. Đôi khi nghe lời cận thần can ngăn, thực ra là do nản
chí, Pyrus nổi cơn giận dữ với người đẹp và anh dừng bước lại... Nhưng rồi khơng
thể qn được nàng, anh tiến tới dứt khốt hơn. Cuộc sống của một đế vương trẻ tràn
ngập trong khổ đau dằn vặt với tâm trạng bất an này mới là nội dung chính của vở

kịch. Cái chết của Pyrus mang tính tất yếu, khi hết khổ đau nhân vật này khơng cịn
lí do để tồn tại. Nó củng cố nhận xét của ai đó về con người thượng lưu Pháp thế kỉ
XVII:"Cảm giác, ngay cả cảm giác khổ đau, là cuộc sống duy nhất đáng mong ước ".
Ecmion là nhân vật sáng tạo của Racine từ nguyên mẫu của truyền thuyết Hi Lạp và
kịch cổ của Euripide. Nàng là người có địa vị cao,rất dễ hợm hĩnh, kênh kiệu, tự tin.
Nhưng khi thấy mình chơng chênh trong hạnh phúc mong manh trước vị hơn phu dễ
thay lịng đổi dạ thì Ecmion chao đảo từ cực này sang cực khác, hoang mang bối rối
khủng khiếp, mất hết tự chủ. Nóng vội, nàng đã làm trái với tâm hồn mình và gây tai
hoạ không thể cứu vãn. Nàng cũng chỉ là một nạn nhân của bi kịch. Oreste là một
tính cách ít thành công hơn, chưa đủ gọi là nhân vật bi kịch. Hắn chỉ là con người
thiếu tự chủ nhất thời bị cơn thèm khát tình yêu đẩy vào kết cục bi đát nhục nhã.
Anh ta chỉ là một nạn nhân đau khổ của định mệnh. (ngụ ý: không hiểu nổi việc
mình làm, ngu dốt. Khác với Pyrus hiểu rất rõ hậu quả mà vẫn hành động!). Vở kịch
Andromaque thể hiện rõ nét nhất nghệ thuật bi kịch Racine. Kịch của ông không quá
lạ lùng siêu việt phức tạp ngổn ngang mà hấp dẫn khán giả bằng sự miêu tả tinh vi
đời sống tình cảm của con người thời đại trong một khuôn khổ hẹp nhất.
BI KỊCH ATALI Mượn một cốt truyện trong Kinh Thánh, vừa tiếp tục chủ đề quen
thuộc vừa chuyển mạnh sang phê phán chế độ quân chủ Pháp khi nó trắng trợn đối
đầu với quần chúng nhân dân. Sơ lược nội dung kịch: Nữ hoàng Atali là nhân vật
trung tâm, hiện thân của một nỗi thèm khát trả thù lớn lao nhằm thanh tốn một món
nợ thù và cũng để củng cố, duy trì địa vị tối cao của mình. Là một phụ nữ đã làm
mẹ, làm bà nhưng cuồng vọng đến mức ráo riết săn đuổi đứa cháu nội - giọt máu cịn
sót lại của dịng họ David, càng chất thêm ốn thù với quần chúng Do thái (bị coi là
dị giáo). Do mối thù của dịng họ lại thêm tín ngưỡng tơn giáo kích thích, Atali càng
điên cuồng khát máu. Bất chấp tinh thần đức tin Đức Chúa Trời, Đấng vĩnh cửu mà
chính bà thường tâm niệm nói ra, tiếng gọi của dục vọng trả thù vẫn chiếm được bà.
Lo sợ cái chết thường xun ám ảnh, cố chống lại nó bà vẫn khơng tránh khỏi. Tư
tưởng chống khủng bố chống chuyên chế thấm đẫm trong nội dung kịch đã dẫn tới
sự " nổi loạn" của nghệ thuật bi kịch - nghĩa là vi phạm rõ rệt qui tắc cổ điển chủ
nghĩa, nhất là cảnh quần chúng Do Thái kéo nhau vũ trang diệt bạo chúa. Vở kịch đã

khơng làm hài lịng vua Louis XIV nên không được phép công diễn trên sân khấu.
Tuy vậy dư luận tiến bộ vẫn đánh giá cao Atali như vở bi kịch cổ điển có ý nghĩa xã
hội sâu rộng nhất.

19


HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
So sánh bi kịch Andromaque với bi kịch Le Cid. Tính cổ điển là gì? (gợi ý: tính cổ
điển về lịch sử là: bi kịch chọn những hoàn cảnh thường gặp, của bi kịch nhân loại,
của mọi dân tộc. Nó cịn là tình huống tâm lí cổ điển).

Chương IV: Morie và hài kịch cổ điển
Moliere – " người hề vĩ đại " – một trong những tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển
Pháp, của lịch sử văn học Pháp và là một trong những nhà viết hài kịch lớn nhất của
lịch sử sân khấu thế giới. Cả cuộc đời ông là một tấm gương sáng của một nghệ sĩ
chân chính ln ln bảo vệ chân lí của thời đại chống các thế lực phản động bảo
thủ tiêu cực.Hoạt động cùng thời với các nhà thơ nhà văn Racine, Boileau, La
Fontaine... Moliere đem đến cho văn đàn Pháp những cống hiến lớn lao - người sáng
lập hài kịch cổ điển và đưa nó tới đỉnh cao xán lạn. Là nghệ sĩ ưu tú kết tinh những
truyền thống tốt đẹp của nhân dân và dân tộc Pháp, sáng tác của ơng chuyển nhanh
về phía cuộc sống hiện thực phong phú sơi động trong đó quần chúng lao động đang
tiến lên đảm nhiệm vai trò mới của lịch sử. Ba trăm năm lẻ đã qua, tiếng cười của
Moliere không lúc nào vắng trên sân khấu Pháp và thế giới trong đó có sân khấu
Việt Nam. Hài kịch của Moliere đã đóng góp đáng q cho việc xây dựng nền văn
học hiện đại và sân khấu kịch nói Việt Nam. Một tài năng nảy sinh trong rèn luyện
đấu tranh gian khổ • Jean Baptiste Poquelin sinh tại Paris trong một gia đình tư sản tiểu q tộc cận thần của nhà vua. Ông được dạy dỗ chu đáo ba năm trong trường
trung học Clémonde nổi tiếng.Lúc ấy ông đã tỏ rõ sở thích văn chương, triết học,
chịu ảnh hưởng triết học Gassendy (cảm giác luận). Cha dự định cho ông học luật và
thừa kế chức vụ quan hầu của nhà vua nhưng Poquelin lại chọn sân khấu - một nghề

nghiệp đương thời coi là thấp kém. • Năm 1643, Poquelin quen biết một nữ diễn
viên Madelaine Béjart cùng một số bạn thành lập " Đoàn kịch trứ danh ". Do thiếu
kịch bản và diễn viên giỏi nên đoàn kịch chưa có tăm tiếng mặc dù rất cố gắng.
Poquelin chọn biệt danh " Moliere " năm 1644. Đoàn kịch tan rã năm 1645. Cuối
năm đó, Moliere cùng với anh em nhà Béjart dời khỏi Paris đi về các tỉnh nhỏ để lưu
diễn. •
Suốt 13 năm trời (1645 - 1658) chịu đựng khó khăn thiếu thốn, gánh hát nhỏ chưa
nổi tiếng của Moliere lang thang hầu khắp nước Pháp. Dọc đường, gánh sáp nhập
với một gánh khác khác. Mười ba năm phiêu bạt giang hồ chính là thời gian chuẩn bị
một sự nghiệp lớn lao của Moliere. Nógiúp ơng hiểu biết, tích lũy vốn sống về một
xã hội Pháp, lúc ấy đang có cuộc nổi loạn La Frode. Nó giúp nhà văn tiếp xúc rộng
rãi với các gánh hát rong địa phương, học tập họ rồi cạnh tranh với họ. Nó giúp
Moliere kiểm tra lại nhận thức của mình, biết chỗ mạnh chỗ yếu từ đó vạch hướng đi
lâu dài. Moliere diễn viên, đạo diễn, nhà sáng tác hài kịch và trưởng đoàn kịch đã
trưởng thành qua 13 năm gian khổ như thế. • Từ 1650 Moliere đứng đầu gánh hát và
bắt đầu xây dựng một số tiết mục đặc sắc. Ông bắt tay viết những vở "kịch hề" trong
20


đó vận dụng những kinh nghiệm của loại "kịch mặt nạ Italia" về kĩ thuật, hành động,
tính cách nhân vật. Như các vở "Chàng Ngốc", "Ghen" đã báo hiệu một tài năng. •
Thành cơng của Moliere vang dội đến tận kinh đơ. Năm 1658, đồn kịch Moliere
được nhà vua gọi về Paris. Moliere ra mắt cung đình với vở hài "Thầy thuốc si tình".
Buổi diễn có kết quả tốt, đồn được giữ lại Paris, được nhà vua cấp cho rạp hát Peuti
Bourbon vốn là rạp hát của triều đình để đoàn biểu diễn thường xuyên. Sau một năm
hoạt động vừa diễn vở cũ vừa dựng vở mới, đoàn tuyển mộ thêm những diễn viên có
tài. • Năm 1659, Moliere đưa lên sân khấu các vở "Những ả kiểu cách lố bịch". Tác
giả bị bọn quí tộc căm ghét mặc dù ông chỉ đả kích bọn "giả làm quí tộc". Từ đây
cuộc đời Moliere chuyển sang giai đoạn xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu dân
tộc hiện thực và tiến bộ. những tác phẩm lớn của Moliere ra đời liên tiếp, mỗi vở là

một địn giáng vào giới q tộc, nhà thờ và chế độ chuyên chế. Và Moliere không
ngừng phải chống trả quyết liệt những phản ứng điên cuồng của các thế lực thù địch.
Mặt khác, Moliere còn phải đương đầu với những nhà soạn kịch và diễn viên đố kị
thù ghét ông, lên án ông không tôn trọng những qui tắc cổ điển, báng bổ tôn giáo,
làm hại khiếu thẩm mĩ của cơng chúng. Q trình đấu tranh này đã khiến Moliere trở
thành nhà sáng tác hài kịch vĩ đại, nhà nghệ sĩ lão luyện và nhà tổ chức giáo dục tài
năng. • Năm 1662 Moliere cho diễn vở "Trường học làm vợ" lên án quan điểm
phong kiến vô nhân đạo, trái tự nhiên vô hiệu quả trong việc giáo dục phụ nữ. Bọn
phản động tức tối, xúm lại cơng kích Moliere. Chỉ có Boileau tỉnh táo, vẫn viết bài
phê bình bênh vực Moliere. Để trả lời những kẻ thù địch, Moliere viết tiếp hai vở
kịch ngắn "Phê bình trường học làm vợ" và "Kịch ứng diễn ở Verseill" (1663) đưa
ln các nhà phê bình đố kị lên sân khấu mà châm biếm. • Trong thời gian 1664 1666, Moliere viết ba vở hài kịch lớn với tư tưởng triết học xã hội phong phú
"Tactuff ", "Don Joan, "Anh ghét đời". Là những địn trí mạng giáng vảo nhà thờ,
giai cấp quí tộc thế kỉ 17. Những thế lực phản động núp bóng triều đình la ó om
xịm, hùa nhau đe dọa hành hung nhà văn. Đây là giai đoạn căng thẳng nhất trong
cuộc đời nhà văn nghệ sĩ Moliere. • Từ đây hoạt động nghệ thuật của Moliere giảm
bớt sôi nổi với các vở "Lão hà tiện" (1668), Trưởng giả học làm sang (1670), Những
bà thông thái (1672), Người bệnh tưởng (1673). • Ngày 17-2-1673 trong đêm diễn
thứ tư vở "Người bệnh tưởng", đang đóng nhân vật chính Moliere kiệt sức ngã trên
sàn diễn. Ơng được đưa ngay về nhà và một giờ sau trút hơi thở cuối cùng. Nhà thờ
vốn thù ghét Moliere nên đã ngăn cản việc mai táng ông theo nghi thức tôn giáo. Vợ
ơng phải q phục dưới chân nhà vua hết lời khẩn cầu mới xin được phép chôn cất
ông ở nghĩa địa nhà thờ vào lúc đêm khuya. Những đóng góp của Moliere vào hài
kịch dân tộc Pháp Công lao của Moliere trước hết là kế tục và phát huy mạnh mẽ
kịch hề dân gian Pháp, sau đó nâng cao thành hài kịch cổ điển. Moliere đã xác định
và nâng cao vai trò địa vị hài kịch vốn bị coi rẻ trong xã hội Pháp. Xã hội Pháp vốn
chỉ coi trọng bi kịch vì cho nó nghiêm túc, cao q. Moliere chứng minh rằng hài
21



kịch cũng nghiêm túc và là một nghệ thuật chân chính, nó chứa đựng những cái cười
thâm thúy, thơng minh chớ không phải "rẻ tiền" như người ta chê trách. Với Moliere,
hài kịch cịn là cơng cụ đấu tranh xã hội lợi hại chẳng có gì sánh được. Hài kịch
chứng tỏ tinh thần trách nhiệm xây dựng xã hội lành mạnh phát triển chứ không phải
chỉ để mua vui giải trí đơn thuần. Tóm lạI, nhờ Moliere, hài kịch có vai trị ngang
hàng với mọi loại hình nghệ thuật và đáp ứng được nhu cầu thẩm mĩ của thời đại.
2.1 - TÍNH CỔ ĐIỂN CỦA HÀI KỊCH MOLIERE:
Quan Điểm Nghệ Thuật của Moliere là tinh thần duy lí, duy vật của thời đại.Theo
quan điểm chung của chủ nghĩa cổ điển, hài kịch nhằm đả phá những tệ nạn xã hội
và nhược điểm tâm lí của con người thời đại. Lí luận này yêu cầu hài kịch "sửa chữa
phong hóa bằng tiếng cười", giúp người có lương tri xa lánh cái sai và thói xấu.
Moliere viết "nếu tác dụng của hài kịch là sửa chữa tính xấu của con người thì tơi tin
rằng khơng cần bỏ qua bất kì kiểu tính xấu nào. Những bài học luân lí nghiêm trang
chưa hẳn có tác dụng bằng những nét châm biếm của một bài thơ trào phúng... Mơ tả
những thói xấu của con người là cách tuyệt diệu để sửa chữa nó" (Lời Tựa vở
Tactuff - 1669). Tuy nhiên, nhiệm vụ hàng đầu của hài kịch là "làm vui" cho khán
giả, độc giả. Muốn đạt được như thế trước hết phải "theo tự nhiên". Tự nhiên được
hiểu là đáy sâu của những tâm hồn kín đáo mà chỉ có những cái nhìn tinh tường mới
soi thấu được" (Boileau). "Tự nhiên" cịn có nghĩa là theo truyền thống xã hội đã
được thừa nhận (danh chính ngơn thuận). Moliere nói qua lời một diễn viên "Khi
anh vẽ người, anh phải vẽ theo tư nhiên. Nếu anh không làm cho người ta nhận ra
những con người của thời đại mình thì anh chẳng làm được gì hết" - Moliere trình
bày lí luận của mình ngay trong tác phẩm như vậy. Về đề tài: Moliere cho rằng có
thể chọn bất kì đề tài nào kể cả cổ đại Hi Lạp - La Mã, miễn là đề tài ấy có sức thể
hiện phong phú. Nhưng ơng thích lấy ngay đề tài trong đời sống tâm hồn xã hội
Pháp đương thời từ trong cung đình đến thành thị nơng thôn nhờ vốn sống những
nămgiang hồ phiêu dạt khắp nơi tiếp xúc đủ mọi loại người. Nhờ vậy Moliere sáng
tạo được những tính cách điển hình. Chỉ ngoại trừ một mẫu người - kẻ đứng đầu
triều đình - mọi loại người Pháp khác đều có mặt trên sân khấu Moliere. Tuy vậy
nhân vật có mặt thường xuyên là nhân vật quí tộc, ngài hầu tước - hiện thân của chế

độ phong kiến lỗi thời.. Moliere nói đại ý rằng: trong mọi vở kịch hề cổ xưa đều có
một tên ăn cắp có nhiệm vụ gây cười cho khán giả thì trong các vở kịch ngày nay
ln ln phải có một vị hầu tước lố lăng làm trị cười cho cơng chúng" [ Vở Ứng
diễn ở Verseill ]. Nhìn chung Moliere khơng tự hạn chế kịch của mình trong khn
khổ hạn chế của chủ nghĩa cổ điển nhằm phản ánh chân thực cuộc sống.
2.2 - NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TÍNH CÁCH
Số lượng lớn hài kịch của Moliere thuộc loại hài kịch tính cách. Để làm cho tính
cách đạt tới mức độ điển hình [ nghĩa là có thể tồn tại vĩnh cửu ], Moliere tập trung
miêu tả những nét cơ bản nhất. ơng tước bỏ những chi tiết phụ khơng có ích cho sự
22


theo dõi của khán giả. Mỗi nhân vật là hiện thân của một tính cách nhất định. Ví dụ:
đạo đức giả, hà tiện, thơng thái rởm... những nét tính cách khác bị đẩy xuống hàng
thứ yếu, ví dụ ngộ nhận, chủ quan, cố chấp... Nhìn chung, những thói xấu và sai lầm
của nhân vật không gây ra những tai họa chết người nhưng sẽ phải thất bại. Những
kẻ ấy cứ tin mình làm đúng, mình nắm lẽ phải và khơng chịu thừa nhận thực tế
khách quan. Nhân vật ấy đầy ảo tưởng và trở nên lố bịch hài hước và bị chê cười.
Biện pháp cường điệu khoa trương nhằm làm tăng cường tính hài, đẩy nhân vật tới
sát với ranh giới sự phi lí khó tin. Nhưng Moliere khơng cường điệu tùy tiện bừa bãi
mà gắn bó với hiện thực. Đối với khán giả, trước mắt họ là nhân vật cụ thể sinh động
tính cách rõ nét và mạnh mẽ khiến họ không thể nhịn được cười.
2.3 - NGHỆ THUẬT GÂY CƯỜI:
Sự vĩ đại của Moliere không chỉ là xây đựng tính cách mà cịn nghệ thuật gây cười.
Sự tinh tế nhạy cảm của nhà tư tượng nhà nghệ sĩ tài ba khiến ông khi quan sát cuộc
sống phát hiện ra những khía cạnh hài hước với vẻ ngồi có vẻ trang nghiêm đáng
kính. ơng nhìn thấy thực chất ở đằng sau sự lộng lẫy vàng son cung điện triều đình
Louis 14, lối sống hào hoa phong nhã của q tộc nhàn hạ, bộ mặt uy nghi của tôn
giáo, ánh lấp lánh của đồng tiền vàng tư bản chủ nghĩa. Những thứ dễ dàng đánh lừa
con mắt người đời. Ông có cái nhìn của quần chúng lao động và tầng lớp tư sản tiên

tiến đang lên. Moliere khám phá thấy những mâu thuẫn kín đáo, những nét kệch cỡm
của cái xã hội đang lỗi thời để mà cất tiếng cười tống tiễn nó vào quá khứ. Tiếp thu
kế thừa những biện pháp gây cười của nghệ thuật kịch dân gian, nghệ thuật trong
con mắt quần chúng (ví dụ cảnh đánh lộn, lầm lẫn, huyên náo...). Hình ảnh người
bình dân hiện ra khỏe khoắn, nhanh nhẹn tự tin với tiếng cười lạc quan, tuy ở địa vị
thấp hèn nhưng họ được miêu tả đẹp đẽ chính nghĩa với tiếng nói tích cực của nhân
dân. Phát hiện những khía cạnh bi đát của cuộc sống rồi thể hiện dưới hình thức hài
kịch - đây là điểm độc đáo nhất của Moliere. Nhiều vở của ông khiến khán giả cười
vỡ bụng nhưng sau lại nhận ra dư vị đắng cay đến rơi nước mắt. Nhà thơ Alfred de
Muset thế kỉ 19 đã nói về " sự buồn thảm ","sự sâu sắc" trong cái hài của Moliere.
Khác với cái hài của Shakespear cười vui vẻ trong cuộc đời lạc quan (hịa bình, ấm
no hạnh phúc tình u...), Moliere cười phê phán mong chơn vùi những thói tật, "
những hình thái lịch sử " đã hết thời mà cịn cố gượng. Ơng giấu kín sau tiếng cười
những điều nghiêm trang của thời đại, những nỗi đau những lo toan về cuộc sống
trong thời cai trị độc đoán nghẹt thở của vua Louis 14, tiếng cười của Moliere đậm ý
nghĩa triết lí và xã hội. Moliere là nhà hài kịch đầy bản lĩnh nên ông biết dừng lại
đúng lúc khi sân khấu của ơng đã nhích dần tới ranh giới bi kịch. Chỉ cần dùng một
vài tiểu xảo, một lớp hề cũng đủ xua tan những ám ảnh nặng nề u tối... đưa khán giả
quay về cuộc sống trước mắt. Cái hài hước lố bịch còn nhiều nhưng ơng tin vào
lương tri quần chúng có thể cải tạo được chúng.
2.4 - GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG KỊCH CỦA MOLIERE
23


2.4.1. Tính hiện thực phong phú: Hài kịch Moliere hướng tớI một hiện thực phong
phú, bên cạnh những nghịch cảnh là cơ sở của hài kịch. Cuộc sống nước Pháp q
tộc tư sản hố thế kĩ XVII hiện ra mn hình mn vẻ. Cuộc sống của ngườI bình
dân lao động - những ngườI đang tiến lên đảm nhận vai trò chủ yếu của lịch sử - bắt
đầu được miêu tả, tuy chưa phảI bốI cảnh chính những đã thấp thoảng đằng sau
những cảnh đờI quí tộc tư sản. 2.4.2. Tính chiến đấu: Mặc dù tuân theo quí tắc cổ

điển là đặt lợi ích quốc gia dân tộc,tạm gác cuộc đấu tranh giai cấp một bên, nhưng
Moliere không quên đấu tranh giai cấp, ơng vẫn đứng về phía nhnâ dân lao động
chống lại cả hai giai cấp đó, tuy có châm trước phần nào cho giai cấp tư sản.
2.4.3. Nhân vật phong phú: Đủ mọi loạI người trong xã hộI quí tộc- tư sản hiện
lên vớI những chân dung ngộ nghĩnh hài hước che nkhuất những thói xấu. Cả một
quần chúng lao động, khơng chỉ có mặt cơ bản là lương thiện cũng có những bình
dân nhếch nhác đáng cườI chê. Chỉ trừ hình ảnh nhà vua lúc này trở thành biểu
tượng dân tõc quốc gia, ngồi ra kihơgn thiếu một ai, kể cả hình ảnh những tu sĩ đạo
đức giả, một thế lực uy quyền đầy bí ẩn, một thứ ‘ siêu quyền lực”. Nhân vật tiêu
cực đương nhiên phảI là nhân vật trung tâm: quí tộc gàn dở. dối trá, văn hóa rỗng
tuếch, thầy tu đầy âm mưu, lừa bịp. Tư sản lớp trên tham lam ích kỉ học địi sang
trọng như q tộc. Quan chức cao cấp hnh hoang bất nhân bất nghĩa..v.v.... Nhân
vật tích cực: hầu hết là người bình dân có lương tri sáng suốt, sống theo lẽ tự nhiên,
luôn luôn chiến thắng trong các nghịch cảnh tuy rằng họ cũng có những nhược điểm
nhất định.
2.5 HÀNH ĐỘNG KỊCH MOLIERE
Hành động kịch của Moliere khá đơn giản, mỗi lúc một tăng mạnh hơn xoay quanh
những thói giả dối kệch cỡm. Sự thái quá của những hành động trái tự nhiên nảy
sinh xung đột, không phức tạp gay gắt đến mức phải có giải pháp quyết liệt như bi
kịch. Với ông chỉ cần một biện pháp nhỏ (bất ngờ, từ bên ngoài) đủ khiến cái hài
phải hiện ngun hình. Màn chót của xung đột lại diễn ra nhẹ nhàng cùng với tiếng
cười.

24



×