ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
Lê Thị Bé Nhung
Lớp cao học ngành Cơng tác xã hội Khóa 8
Mã số học viên: 19876010113
BÀI THU HOẠCH SỐ 3
MÔN TRIẾT HỌC
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Thùy Duyên
Thành phố Bến Tre – tháng 10 năm 2020
Câu hỏi: Phân tích bước chuyển từ tư duy thần thoại sang tư duy triết
học trong kinh Upanishad?
Nội dung trình bày
TƯ DUY THẦN THOẠI VÀ TƯ DUY TRIẾT HỌC
1. Tư duy thần thoại
2. Tư duy triết học
II. KINH UPANISHAD
1. Upanishad là gì?
2. Lịch sử hình thành kinh Upanishad
I.
3.
Giá trị của kinh Upanishad
III.PHÂN
TÍCH BƯỚC CHUYỂN TỪ TƯ DUY THẦN
THOẠI SANG TƯ DUY TRIẾT HỌC
Tài liệu tham khảo
Cùng với sự phát triển của các nền văn minh của nhân loại qua các th ời kì,
góc nhìn thế giới quan của con người cũng chuy ển biến từ tư duy thần thoại
chuyển sang tư duy triết học. Quá trình thay đổi tư duy này được đánh dấu b ởi sự
xuất hiện của kinh Upanishad từ thời điểm văn minh Ấn Độ cổ đại.
I. TƯ DUY THẦN THOẠI VÀ TƯ DUY TRIẾT HỌC
1. Tư duy thần thoại
Thần thoại là sáng tạo của trí tưởng tượng tập thể tồn dân, phản ánh
khái quát hóa hiện thực dưới dạng những vị thần được nhân cách hóa hoặc
những sinh thể có linh hồn, mà dù đặc biệt, phi thường đến mấy vẫn được đầu
óc người ngun thủy nghĩ và tin là hồn tồn có thực.
Tư duy thần thoại là dùng các câu chuyện thần thoại nhằm gi ải thích v ề
sự kiến tạo nên thế giới bởi các vị thần với đầy đạo đức và quy ền năng vơ h ạn
của mình; có một cuộc sống biệt lập bên ngồi đời sống của con người.
Tuy nhiên, đến các sử thi Iliad và Odyssey của Homer (thế kỉ IX TCN) đã
nối kết đời sống của các vị thần với đời sống của con người, các vị th ần s ống
một đời sống không khác gì mấy với đời sống của con người. Chính vì các th ần
cũng có đời sống như con người nên cũng bị chi phối b ởi “định mệnh”. Đến
Hesiod (thế kỉ VIII TCN) đã loại bỏ tính hay thay đổi ở các v ị th ần mà mô t ả các
vị thần có một sự nhất quán đạo đức. Tuy ơng cịn gi ữ lại khái ni ệm r ằng các
thần điều khiển tự nhiên, nhưng ông đã dung hòa yếu tố bản ngã này trong b ản
chất của các sự vật với sự nhấn mạnh về hoạt động vô ngã của định luật đ ạo
đức nơi vũ trụ.
2. Tư duy triết học
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con
người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề
có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ.
Tư duy triết học là dùng các tri thức và các lý luận thực ti ễn đ ể gi ải thích
các vấn đề của con người, thế giới quan. Tư duy tri ết học của một s ố nhà tri ết
gia qua các thời kỳ có sự thay đổi và ngày càng ph ản ánh rõ th ực t ế khách quan
hơn.
Điển hình như Thalet (624-546 TCN) đã nêu lên câu hỏi v ề bản tính c ủa
thế giới. Theo ơng, đó chính là Nước. Từ đây, Thalet đã chuy ển đổi c ơ s ở t ư duy
là một nền móng thần thoại sang một nền móng có tính chất tìm tịi khoa h ọc.
Học trò của Thalet là Anaximander (610-546 TCN) đ ồng ý v ới th ầy mình rằng có
một chất liệu duy nhất nào đó. Ơng lập luận rằng nước và mọi v ật ch ất nh ất
định đều chỉ là những biến dạng đặc thù hay phát sinh của m ột cái gì đó s ơ đ ẳng
hơn, phải là một lĩnh vực vô định hay vô hạn – cái cụ th ể, hữu h ạn ph ải có
nguồn gốc chất liệu nguyên thủy là cái vô định, vô hạn.
Anaximenes (585-528 TCN) khơng hài lịng với khái niệm cái vơ h ạn là
nguồn gốc của mọi sự vật, vì theo ơng nó q m ơ h ồ và khơng th ể n ắm b ắt
được. Anaximenes xác định thực thể sơ đẳng từ đó phát sinh ra mọi v ật là Khí.
3
Sự giãn nở và co tụ của Khí xảy ra trong một th ực th ể duy nh ất sẽ c ắt nghĩa cho
sự phát sinh nhiều vật thể khác nhau.
Pythagoras (571-495 TCN) và các học trị của ơng l ập nên tr ường phái
Pythagoras, cho rằng mọi vật được cấu tạo bởi những Con s ố. Như th ể, con s ố
một là một hòn sỏi và tất cả các con s ố khác được t ạo ra b ằng cách c ộng thêm
các hòn sỏi. Đến đây, các con số khơng cịn là cái gì tr ừu t ượng, mà là nh ững lo ại
thực thể đặc thù.
Trong khi các triết gia thời kỳ đầu tập trung vào vi ệc mô tả ch ất li ệu c ơ
bản cấu tạo nên mọi sự, thì Heraclitus l ại hướng s ự chú ý t ới m ột v ấn đ ề m ới thay đổi. Để mô tả thay đổi như là sự thống nhất trong đa dạng, Heraclitus gi ả
thiết rằng phải có cái gì đó thay đổi, và ơng lý luận rằng cái đó chính là Lửa.
Phát triển song song với tư suy triết học, các cu ộc cách m ạng khoa h ọc kỹ
thuật của các nhà khoa học trên thế giới đã giúp cho n ền văn minh c ủa nhân lo ại
ngày càng tiến bộ , kinh tế xã hội ngày càng phát triển.
II. KINH UPANISHAD
Từ khi con người xuất hiện trên trái đất, cũng chính là lúc h ọ b ắt đ ầu tìm
cách nhận thức về mơi trường sống xung quanh mình, về chính bản thân và
khám phá những năng lực của nội tâm hay nói khác h ơn là tìm hi ểu và lý gi ải v ề
vũ trụ và nhân sinh. Dù sớm hay muộn thì trên tất c ả các nên văn minh trên th ế
giới đều đi tìm ẩn số trong bản thân con người, nhưng sớm nhất trên thế giới thì
phải kể đến Ấn Độ. Một nơi tơn giáo phát triển rất mạnh. Vì nó là n ơi tôn giáo
xuất hiện sớm nhất trên trái đất này, đồng thời cũng là nơi nhiều tôn giáo nhất.
Trong khi đạo Bà La Môn ở Ấn Độ được sùng bái ở thế kỷ th ứ X TCN thì
hình như trên thế giới này chưa có nơi nào có bóng dáng của tơn giáo. Trong q
trình chuyển từ tư duy thần thoại tôn giáo sang tư duy tri ết h ọc, Đặt n ền t ảng
cho toàn bộ căn nguyên tư tưởng của triết h ọc Ấn Độ th ời kì c ổ đ ại đó
chính là bộ kinh Upanishad. Để hiểu được những gì tinh túy nhất c ủa tri ết h ọc Ấn
Độ cổ đại mà không nắm được cái thần chứa đ ựng trong Upanishad thì
cũng giống như đi đường mà khơng có bản đồ vậy.
1. Upanishad là gì?
Upanishad (hay cịn gọi Áo nghĩa thư) được xem là nền tảng của toàn
bộ hệ thống triết học Ấn Độ, nó khơng những là thành tựu kì vĩ c ủa riêng ng ười
dân Ấn mà hơn thế nó cịn là một trong những tinh hoa c ủa minh tri ết
phương Đơng, cũng như lớn hơn, nó được xem như một bông hoa rực r ỡ nh ất
giữa đại ngàn núi rừng tư tưởng triết học tâm linh nhân lo ại
Hội tụ trong Upanishad là cả một dòng tư tưởng sâu sắc và hàm súc nh ất,
nó vạch ra những tư tưởng mà từ đó bản thân những ai muốn ti ếp thu, tìm hi ểu
về triết học Ấn Độ ở thời kì này đều phải cung kính như nó là t ất c ả nh ữnggì mà
chân lý vĩnh hằng đã bao chứa trong đó. Nói đến thánh kinh Veda người ta ln
tơn sùng một cách kính cẩn, những tư tưởng chứa đựng, th ể hi ện trong đó đầy
tinh tế, vi diệu và Upanishad là một trong những bộ kinh quan tr ọng nh ất của
thánh kinh Veda. Có thể nói nó là đứa con được sản sinh ra từ quá trình phát
4
triển và bình chú kinh Veda mà thành. Do vậy, Upanishad là nh ững l ời bình
chú tơn giáo về các lẽ thiết yếu, về ý nghĩa của các l ễ nghi và ý nghĩa tri ết lý sâu
xa của các bài kinh cũng như các bản thần thoại Veda.
2. Lịch sử hình thành kinh Upanishad
“Upanishad xuất hiện vào khoảng từ th ế k ỷ th ứ VIII đ ến th ế k ỷ
thứ V trước cơng ngun. Đó là thời kì đặc biệt của nhân loại. Th ời kì mà
Karl Jaspers đã mệnh danh là “thời đại trục” (période axiale) c ủa l ịch s ử loài
người, tức là thời kỳ với sự phát tri ển của đời s ống xã h ội và trí óc, nh ư m ột s ự
gặp gỡ tất yếu, lần đầu tiên ở Hy Lạp, Trung Hoa và Ấn Độ, con ng ười đ ồng
thời từ bỏ vương quốc của thần thoại, tôn giáo nguyên th ủy đ ể ti ến b ước
sang vương quốc của tư duy triết học, chuy ển từ vi ệc nghiên c ứu gi ới
tự nhiên sang tìm hiểu chính cuộc sống và thế giới nội tâm con người, v ới những
nhà triết học lớn cùng xuất hiện, đặt cột mốc cho bước ngoặt lich s ử ấy là
Socrate, Platon, Aristote ở Hy Lạp; Khổng T ử, Lão T ử ở Trung Hoa; các tác
giả Upanishad và Phật Thích Ca ở Ấn Độ”.
Cịn ở phương Đơng, việc giải quyết các vấn đề của con ng ười từ
lâu đã được chú trọng “thì trong các kinh Upanishad đã khai phá m ột con
đường, một cách thức giải thoát mới, dùng trí tuệ để lý giải những v ấn đ ề v ề
nguồn sống của vũ trụ và khám phá bản chất đời s ống tinh th ần con người,
tìm con đường giải thoát cho con ng ười kh ỏi nh ững n ỗi kh ổ c ủa cu ộc
đời. Đó chính là sự phản tỉnh của ý thức mà chỉ đến Upanishad mới đạt được”
3. Giá trị của kinh Upanishad
Upanishad là một tập hợp các văn bản Vệ Đà có chứa sự xuất hi ện đầu tiên
của một số khái niệm tôn giáo trung ương của Ấn Độ giáo, Ph ật giáo và Kỳ Na
Giáo. Họ còn được gọi là Vedanta ("cuối các Veda").
Upanishads được coi là của người Hindu có chứa chân lý mạc khải ( Sruti)
liên quan đến bản chất của thực tại tối hậu (Bà La Mơn) và mơ tả các nhân v ật
và hình thức của sự cứu rỗi con người (moksha). Upanishads được tìm thấy chủ
yếu ở phần kết luận của Bà La Môn và Aranyakas. Hơn thế nữa, Upanishad
gồm phần lớn là những đoạn kết của kinh Veda và nó cũng lý gi ải nh ững v ấn đ ề
mục đích tối cao của kinh Veda nên cịn được gọi là Vedanta (vì theo ti ếng Ph ạn
“anta”vừa có nghĩa là “kết cuộc”, “hồn tất” vừa có nghĩa là “m ục đích”. Do đó,
Vedanta có nghĩa là phần kết luận của Veda, đồng th ời cũng là cái c ứu cánh c ủa
Veda. Sau này một môn phái triết học duy tâm lấy tên là Vedanta, chính là s ự ti ếp
tục kế thừa tư tưởng chủ yếu của kinh Veda và Upanishad.
Upanishad là cơng trình sáng tác tập thể chứ khơng do một cá nhân hay
môn phái nào mà chủ yếu là xuất phát từ các bài gi ảng c ủa các đ ạo sĩ gi ảng gi ải
về câu chữ trong kinh Veda cho các môn đồ. Cuộc đời các đ ạo sĩ – tác gi ả c ủa
Upanishad không được ghi chép. Người ta chỉ bi ết được tên m ột s ố đ ạo sĩ n ổi
tiếng ghi trong văn bản như Aruni, Yajnavalkya, Uddalaki, Svetaketu, Sandilya,
Balaki. Đó là những bậc thấu thị (rishi) hi ểu bi ết sâu r ộng đã đ ắc đạo. Chính vì
vậy, lúc đầu các Upanishad chủ yếu là hình thức truy ền kh ẩu v ề sau các đ ạo sĩ
thu thập các bài giảng lại và in thành sách mang tên Upanishad.
5
III. PHÂN TÍCH BƯỚC CHUYỂN TỪ TƯ DUY THẦN THOẠI SANG TƯ
DUY TRIẾT HỌC
Danh từ Upanishad có nghĩa gốc khi mới ra đời là “th ị tọa” là “cận t ọa” có
nghĩa là “những lời cao đẹp của giới quyền quý”. Nhưng v ề sau, nghĩa
Upanishad có nhiều lần thay đổi chuyển sang: Upanishad: là bí m ật h ội t ọa, cùng
họp giảng thuyết lẽ cao siêu bí mật Upanishad: là bí mật ý nghĩa. Upanishad: là
bí thuyết, thuyết minh những lẽ bí mật. Upanishad: là bí giáo, gi ảng d ạy nh ững
lẽ bí mật. “Và đến lần chuyển nghĩa cuối cùng là: khoa biên chép, ghi chú và gi ải
thích các điều huyền bí về tơn giáo”.
Theo nguyên ngữ, Upanishad có nghĩa là ngồi (Sad) g ần (upa) m ột cách
cung kính (ni). Từ ngữ ấy diễn tả thái độ cung kính học tập của các mơn sinh
quây quần bên cạnh sư phụ để đón nhận lời giảng dạy. Các bậc s ư ph ụ này
truyền dạy cho một số môn sinh chọn lọc bằng phương pháp bí truy ền, và
thường dùng truyền cảm tâm linh hoặc dặn dị thầm kín h ơn là nh ững l ời bi ện
chứng hùng hồn. Chân lí đem giảng dạy thường tiềm ngụ trong những câu
chuyện ngụ ngơn, những thí dụ ám tỉ hay những lời đối thoại v ới các mơn sinh
về những vấn đề bí nhiệm hay siêu hình”.
Chân lí là một cái gì vơ ngã (apaurushèya) và vĩnh cửu (nitya). M ặc kh ải là
kết quả của sự hoạt động phối hợp giữa thiền định của con người và ân thiên
khải của Thượng đế, tức là của cả hai phương diện khách quan và chủ quan.
Shvetâshvatara Upanishad có kể rằng đạo sĩ Shvetâshvatar th ấy đ ược chân lí
nhờ ở cơng phu tu trì (tapah-prabhâva) và ơn thiên khải (devaprasâda)”. S ự xuất
hiện của Upanishad đánh dấu bước chuyển từ thế giới quan thần thoại tôn giáo
sang tư duy triết học, giải thích thế giới bằng bản nguyên, chuy ển từ đa nguyên
sang nhất nguyên Trong khi các kinh Veda thiên về con đường th ờ phụng, s ự c ầu
xin phù hộ và ban phước lành của các đấng thần linh, bi ểu thị cho s ức m ạnh của
thiên nhiên được nhân hình hóa, hoặc tìm cách th ể nhập v ới dấng t ối cao c ủa vũ
trụ, thì các kinh Upanishad chú tr ọng về tri thức tuy ệt đ ối, b ản ch ất đ ời s ống
tâm linh và giải thoát. Cả ba đối tượng ấy thực ra ch ỉ là m ột, vì Upanishad quan
niệm rằng Biết tức là Giải thoát, mà muốn Biết, con người cần ph ải th ực
nghiệm tâm linh, tức là sống một cuộc đời thoát tục và thiền định.
“Upanishad cổ được so sánh như tác phẩm của Homère mà đ ồn th ời cũng
mới như học thuyết của I Kant. Bản chất của Thực tại tuy ệt đối là m ột th ế l ực
vô giới hạn khơng thể định tính đầy đủ được. Chỉ biết thực tại ấy duy nhất và
chủ quan, do đó có thể tạm mệnh danh là Ngã. Do ý mu ốn riêng c ủa mình, Ngã
sáng tạo ra Chất và Năng tức là hai Nguyên lý Âm, Dương. Ch ất và Năng hịa h ợp
tạo thành mn lồi trong vũ trụ. Kinh Brihad âranyaka Upanishad nói v ề Ngã
và sự sáng tạo như sau: “Lúc khởi thủy, thế gi ới này ch ỉ là Ngã mang hình
người. Nhìn chung quanh mình, Ngã khơng thấy có gì khác h ơn là mình. Ngã bèn
nói lời đầu tiên: “Ta hiện hữu”. Do đó có danh xưng ngơi thứ nhất là Ta...”
Và từ đó “Upanishad nhấn mạnh vào sự đồng nhất giữa Ngã sáng tạo và
vạn vật. Chất và Năng không phải là nhữngthực tại biệt l ập, tự sinh tự hữu mà
chỉ là những tạo vật của Ngã nguyên thủy, duy nhất. Bởi th ế vạn v ật cũng ch ỉ là
6
Danh (nâma) và Sắc (Rùpâ). Mọi ý tưởng phân biệt của con người, óc v ị k ỷ, lịng
ham muốn tài sản và lạc thú, tất cả đều do sự ngu mu ội ràng bu ộc c ủa con
người với cuộc sống luân hồi và xô đẩy con người xa lìa Thực tại.
Upanishad là bộ kinh tập hợp tư tưởng của nhiều triết gia, đạo sĩ, được
diễn tả theo các cách khác nhau, tùy theo trình độ th ể hiện c ủa các tri ết gia, đ ạo
sĩ và hoàn cảnh, thời gian trình bày khác nhau. M ặc dù v ậy, toàn b ộ t ư t ưởng c ủa
Upanishad vẫn thống nhất. Với nội dung tư tưởng triết học phong phú và sâu sắc,
Upanishad đã trở thành nguồn gốc triết lí cho hầu hết các hệ th ống tri ết học, tôn
giáo Ấn Độ, là cơ sở triết lí cho đạo Bà la mơn cũng như đạo Hindu ở Ấn Độ cổ
đại. Cao hơn, Upanishad được xem như là tinh hoa của minh triết phương Đông.
Upanishad là bộ kinh đánh dấu bước ngoặt trong tư duy người Ấn Độ,
chuyển từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy tri ết h ọc,khai phá con
đườngtrí tuệ để lí giải về bản thể vũ trụ và bản chất đời sống tinh thần của con
người. Ở Ấn Độ cổ đại, sự xuất hiện kinh Upanishad trong văn học Veda là một
cuộc cách mạng giải phóng tư duy người Ấn khỏi những nghi l ễ ma thu ật, bằng
trí tuệ để lí giải những vấn đề về bản chất của vũ trụ và khám phá bản ch ất đ ời
sống tinh thần, từ sự phản tư tinh thần tìm con đường giải thoát cho con ng ười
khỏi những nỗi khổ cuộc đời.
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin: Toàn tập, t.18, Nxb. Tiến bộ, M., 1980, tr.151).
2. />
222124.html
3. />
1691464.html
4. />
upanishad-i1v7tq.html
5. />
kinh-upanishad.htm