Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CÔNG LAO CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.11 KB, 18 trang )

I. LỜI NÓI ĐẦU
Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là tấm gương chói lọi
về tinh thần cách mạng, chí khí kiên cường bất khuất, toàn tâm toàn ý phục vụ
Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận tụy hy sinh suốt đời phấn đấu vì
sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng lồi người, vì độc
lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội cộng sản.
Kinh nghiệm thực tế và lịch sử cho thấy muốn cách mạng thành cơng thì
điều kiện khơng thể thiếu là phải có một chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Thấy
được tính cấp thiết đó, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí của mình đã khơng
ngừng hoạt động, tích cực chuẩn bị chu đáo, tiến tới thành lập Đảng ngày 3-2-1930,
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân
dân ta, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
Trong đó vai trị to lớn nhất thuộc về Nguyễn Ái Quốc, Người là cha đẻ của
Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý tưởng độc lập, tự do với
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với quốc tế vô sản.
Người đã tiếp thụ phát huy tốt đẹp nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam và kết hợp
những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để của thời đại ngày nay, tư
tưởng chủ nghãi Mác - Lênin. Người đã sáng lập Đảng ta và rèn luyện Đảng ta thành
một đảng cách mạng chân chính của giai cấp cơng nhân. Người luôn chăm lo rèn
luyện cán bộ, đảng viên và không ngừng "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau".
Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của cả dân tộc và cơng cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vai trị lãnh đạo của Đảng rất là to lớn, nhưng người đã sinh
ra và ni dưỡng Đảng đó trưởng thành đó chính là Nguyễn Ái Quốc - là Chủ tịch
Nguyễn Ái Quốc, vì vậy tìm hiểu quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để
thấy được công lao to lớn của Người.

1


II. CƠNG LAO CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG Q TRÌNH VẬN
ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


2.1. Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng CSVN ra đời
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản Phương Tây, từ
năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và sau khi đánh chiếm được nước
ta, Pháp từng bước thiết lập chế độ thống trị rất tàn bạo, hà khắc và phản động
của chủ nghĩa thực dân thơng qua hai cuộc khai thác thuộc địa.
Từ đó xã hội Việt Nam đã có những biến đổi lớn, từ chế độ phong kiến
chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
2.1.1. Tình hình kinh tế
Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế: tiến hành cướp
đoạt ruộng đất lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng hệ thống
đường giao thông, bến cảng..vv, phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp.
Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự chuyển biến
của nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới ...) nhưng cũng
dẫn đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm
hãm trong vịng lạc hậu.
2.1.2. Tình hình chính trị
Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề.
Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ
tồn quyền Đơng Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc
Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua
quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai.
Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu
tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị
rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và
nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông
Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới.

2



Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân
tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dịng họ; giữa dân tộc Việt Nam với
các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
2.1.3. Tình hình văn hóa- xã hội
Về văn hóa: Thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nơ dịch,
gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi
phong bại tục. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đốn.
Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ
trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.
Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở Đơng Dương:
“chúng tơi khơng những bị áp bức và bóc lột một cách thê thảm.... Bằng thuốc
phiện, bằng rượu... Chúng tơi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng
tơi khơng có quyền tự do học tập”.
Về xã hội: Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa,
giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân hóa sâu sắc :
Giai cấp địa chủ phong kiến : tồn tại lâu đời, cấu kết với thực dân Pháp tăng
cường áp bức, bóc lột nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này
có sự phân hóa, một bộ phận địa chủ có lịng u nước đã tham gia đấu tranh
chống Pháp và bọn phản động tay sai. Giai cấp địa chủ, một lực lượng được
Nguyễn Ái Quốc đề cập trong Cương lĩnh chính trị về lực lượng cách mạng.
Giai cấp nông dân: lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực
dân Pháp và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của
giai cấp nông dân đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai,
làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và
quyền tự do. Đối với giai cấp nông dân, Nguyễn Ái Quốc xác định đây là một lực
lượng cách mạng đông đảo, là động lực chính của cách mạng. Vì vậy, cách mạng
thổ địa là đáp ứng nguyện vọng của đại đa số tầng lớp nơng dân.
Giai cấp tư sản: hình thành trong q trình khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp. Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ

phận : tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Ngay từ khi ra đời giai cấp tư sản Việt
Nam đã bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó, thế lực

3


kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt. vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không
đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Giai cấp tiểu tư sản: Đây là tầng lớp có lịng u nước, căm thù đế quốc,
thực dân, đời sống bấp bênh và dễ bị phá sản, dễ tiếp xác với tư tưởng tiến bộ từ bên
ngồi truyền vào. Vì vậy, họ là lực lượng có tinh thần cách mạng cao, đóng một vai
trị quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân, nhất là ở thành thị. Trong
Chính cương, Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng cần phải liên minh với giai cấp
tiểu tư sản, nhằm tạo nên sức mạnh của liên minh lực lượng trong cách mạng.
Giai cấp công nhân: Giai cấp ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp, thơng qua chính sách chiếm đoạt ruộng đất nơng dân đã trở
thành cơng nhân. Vì thế, giai cấp cơng nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai
cấp nông dân. Giống như giai cấp nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam cũng bị
đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, đưa đến một tinh thần cách mạng triệt
để và mạnh mẽ cho giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam vừa lớn lên,
đã có hệ tư tưởng riêng, có ý thức tổ chức và tinh thần cách mạng triệt để, đồng thời
sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhanh chóng trở
thành một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất và tiến lên đảm nhiệm vai trò lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đưa ra quan điểm về động lực, gốc của
cách mạng đó là liên minh giai cấp cơng – nơng, trong đó giai cấp cơng nhân đảm
nhiệm và nắm giữ vai trò tiên phong lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, do sự phát triển nội tại, dưới tác động trực tiếp của chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến to lớn. Một
hệ quả của sự chuyển biến ấy là sự ra đời, lớn mạnh của các giai cấp công nhân, tiểu
tư sản và tư sản, có vai trị khác nhau trong phong trào u nước chống Pháp ở Việt

Nam đầu thế kỷ XX.
Sự chuyển biến của xã hội lúc bấy giờ gắn liền với thời kỳ hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc, xã hội Việt Nam dần dần thích nghi với con đường cách mạng vơ
sản do Người vạch ra cho dân tộc. Đó là tiền đề to lớn giúp cho lý tưởng cách mạng
vô sản của Nguyễn Ái Quốc ngày càng phát triển và trở thành nền tảng đấu tranh
chủ yếu của dân tộc.

4


Thực tế xã hôi Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, giúp Người nhận
ra và xác định phương hướng, nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam trong đấu tranh
chống Pháp, vấn đề về mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, trong đó Người cho
rằng mâu thuẫn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trên hết của cách mạng.
Những vấn đề trên sau này được Nguyễn Ái Quốc đúc kết và vận dụng
sáng tạo trong cách mạng Việt Nam, được Người đề ra trong Cương lĩnh cách
mạng Tháng 2/1930.
2.2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng CSVN ra đời
2.2.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ.
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): một phong trào đấu tranh vũ
trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động. Năm 1885, vua Hàm Nghi
xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ở nhiều địa
phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 1-11-1888, vua Hàm Nghi bị
Pháp bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896. Tiêu biểu
như cuộc khởi nghĩa nơng dân n Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài
đến năm 1913.
Ngồi ra cịn có các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân

ta, nhưng đều không thành công.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ
tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải
quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
Qua đó cho thấy sự hạn chế về yếu tố thời đại của giai cấp phong kiến,
mang nặng tư tưởng phong kiến và dùng nó đấu tranh chống một nước tư bản
tiến bộ như Pháp, thì thất bại là điều tất yếu.
Điều này được Nguyễn Ái Quốc sau này nhận thức và đúc kết trong tư
duy tiến bộ về khắc phục tư tưởng, quan điểm lỗi thời, hình thành tư tưởng tiến
bộ, tiếp cận yếu tố thời đại. Bằng việc mà Người đã đi sang các nước phương
Tây học hỏi, tiếp thu nền văn minh tiến bộ để về giúp nước nhà.

5


Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỷ XX, phong trào yêu
nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng
dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu cho phong trào này có Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh với hai xu hướng đấu tranh khác nhau.
Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, ông chủ trương dùng biện pháp
bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc.
Lập trường cách mạng của Phan Bội Châu đi từ quân chủ lập hiến sang dân
chủ tư sản, nhưng đều thất bại. Sau đó Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của Cách
mạng Tháng Mười Nga, cũng như có cảm tình với nước Nga Xơviết. Nguyễn Ái
Quốc đánh giá “Phan Bội Châu là tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc gia”.
Phan Châu Trinh với xu hướng cải cách, Ông chủ trương vận động cải
cách văn hóa, xã hội; động viên lịng u nước trong nhân dân; đả kích bọn vua
quan phong kiến, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.
Biện pháp cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần thức tỉnh lịng

u nước của nhân dân ta. Tuy nhiên, phương pháp của Phan Châu Trinh yêu
cầu người Pháp thực hiện cải lương… vì vậy, khó có thể giành độc lập được.
Tư tưởng cách mạng của hai Cụ Phan, cho thấy sự hạn chế về lịch sử, về
giai cấp, vì thề khơng thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho
cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị
kẻ thù dập tắt.
Sự thất bại của con đường cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh, được Nguyễn Ái Quốc sớm nhận ra những hạn chế. Người nhận ra rằng
không thể cứu nước theo con đường của hai Cụ. Người từ chối Đông Du,
không tán thành việc dựa vào nước ngồi để giải phóng Tổ Quốc. Điều này
được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sớm nhận thức được và nó dẫn Người đi
đúng hướng: nguồn gốc của những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại
“chính quốc”, ở nước đế quốc đang thống trị dân tộc mình.
Ngồi ra trong thời kỳ này ở Việt Nam cịn có nhiều phong trào đấu tranh
khác theo khuynh hướng tư sản, nhằm đòi cải cách tự do dân chủ…

6


Từ trong phong trào đấu tranh, nhiều tổ chức đảng phái ra đời, tiêu biểu
là Tân Việt cách mạng Đảng (7/1928) và Việt Nam quốc dân Đảng (12/1927).
Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản đã góp phần thúc đẩy phong trào
yêu nước chống Pháp.
Các phong trào đấu tranh chống Pháp theo xu hướng tư sản nhìn chung
diễn ra sôi nổi, mục tiêu hướng tới giành độc lập tự do, nhưng cuối cùng các
cuộc đấu tranh đều thất bại.
Nguyên nhân là do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị, hệ
thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng dân tộc…
nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phong trào này, phản
ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp tư sản trong tiến trình cách

mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ lịch sử do dân
tộc đặt ra.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng
phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào
khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Do đó, nhiệm vụ cách
mạng phải nhường chỗ cho một con đường cách mạng mới, với một giai cấp
lãnh đạo mới đưa cách mạng đến thành công.
Sau thất bại của các phong trào này, lịch sử Việt Nam bắt đầu chuyển
hướng với con đường cách mạng mới – con đường Cách mạng vô sản, mà
Nguyễn Ái Quốc là Người đã tìm ra ánh sáng cho cách mạng Việt Nam.
2.2.2. Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng vô sản
Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng vô sản gắn liền với hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc, quá trình phát triển của phong trào công nhân, sự ra đời
của các tổ chức cộng sản.
Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc: sau 30 năm bơn ba nước ngồi tìm
đường cứu nước, Người đấu tranh gian khổ với con đường vạn dặm vì nhân dân,
vì đất nước, cuối cùng Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc: “con đường cách mạng vơ sản”. Từ đó, Người xúc tiến việc truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin, vạch ra đường lối, phương hướng chiến lược cho cách mạng

7


Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam ngày càng phát triển mạnh trong cuộc đấu
tranh chống đế quốc Pháp.
Phong trào công nhân: từ đầu thế kỷ XX phong trào công nhân chống lại
sự áp bức bóc lột của tư bản thực dân cũng diễn ra từ rất sớm. Phong trào đấu
tranh chuyển từ tự phát sang tự giác, một bước đấu tranh cao hơn thời kỳ trước đó.
Trong những năm 1919-1925, có phong trào cơng nhân Ba Son (1925) do

Tơn Đức Thắng tổ chức; phong trào bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định
(30-4-1925). Phong trào đấu tranh diễn ra trên quy mô lớn và bãi công là phổ biến.
Trong những năm 1926-1929, phong trào công nhân diễn ra dưới sự lãnh
đạo của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ, và các tổ chức cộng
sản. Phong trào đấu tranh mang tính chất chính trị rõ rệt, đặc biệt lôi cuốn phong
trào dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời của các tổ chức công sản:Trước sự phát triển của phong trào
công nhân, phong trào yêu nước, khuynh đấu tranh vô sản ngày càng thắng thế
và giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Tiêu biểu là sự ra đời của các tổ chức tiền cộng sản: Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, Tân Việt cách mạng đảng. Hoạt động cách mạng của các tổ
chức cách mạng đã ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân về ý thức đấu tranh cách
mạng vô sản. Đặc biệt là hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có
ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng Việt Nam, thông qua phong trào “vơ
sản hóa” , để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận giải phóng dân tộc, tạo
một bước chuẩn bị có ý nghĩa về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam. Điều đó cho thấy thắng lợi của khuynh hướng đấu tranh vô sản biểu
hiện ngày càng rõ rệt, nhất là thông qua Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
chứng tỏ cách mạng Việt Nam phù hợp với con đường “cách mạng vô sản”, mà
Nguyễn Ái Quốc – Người có cơng lao lớn trong q trình đấu tranh lựa chọn con
đường giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo cho cách mạng Việt Nam. Lý
tưởng cách mạng của Người được khẳng định một cách đúng đắn phù hợp với lý
luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam sau khi Đảng cộng sản Việt Nam
được thành lập.

8


Xu hướng đấu tranh vô sản phát triển mạnh trong làn sóng đấu tranh của
dân tộc, chỉ trong năm 1929 đã có ba tổ chức cộng sản ra đời: Đơng Dương

Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (8/1929), Đơng Dương Cộng
sản Liên đồn (9/1929), thể hiện xu thế chính trị vơ sản phát triển mạnh trong
hành động và ý thức đấu tranh của nhân dân. Tuy các tổ chức cộng sản đều
giương cao ngọn cờ đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, nhưng hoạt động phân
tán, chia rẽ ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng Việt Nam.
Trước tình trạng đó, u cầu khẩn thiết của cách mạng, nhiệm vụ cấp
bách trước mắt là khắc phục sự chia rẽ, phân tán, tiến tới hợp nhất thành một
đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi lên.
Người đảm nhiệm trọng trách và nhiệm vụ hợp nhất các tổ chức cộng sản
là Nguyến Ái Quốc. Người nhận thấy sự cần thiết và cấp bách phải thành lập
một đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở
Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng vào ngày 3-2-1930 ,
tại Hương Cảng (Trung Quốc). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trở thành lực
lượng chính trị duy nhất nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cũng từ đó
cách mạng Việt Nam ngày càng đi lên và giành thắng lợi lớn trong phong trào
đấu tranh vì độc lập tự do. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với
những thắng lợi của cách mạng…gắn liền với những hoạt động, những đóng góp
to lớn vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
2.3. Q trình thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
2.3.1. Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890, tên thật là Nguyễn Sinh Cung,
quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia
đình nhà nho yêu nước, lớn lên trên quê hương có truyền thống đấu tranh
chống ngoại xâm.
Người lớn lên giữa nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của
đồng bào đã ni chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Dưới xiềng xích cai trị của thực dân Pháp, nhân dân ta phải chịu cảnh
sống lầm than, cơ cực của những năm tháng đen tối. Giữa lúc đó tinh thần đấu
tranh, tinh thần yêu nước không ngừng nổi dậy, bằng các phong trào đấu tranh,


9


các cuộc khởi nghĩa…của giai cấp phong kiến, văn thân sĩ phu yêu nước tiến
bộ, của giai cấp tư sản. Nhưng tất cả đều đi đến thất bại, mà nguyên nhân dẫn
đến không thành công là do: hạn chế về giai cấp, đường lối chính trị; về tổ
chức, chưa tập hợp rộng rãi được lực lượng dân tộc…
Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan
Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... nhưng lại
không tán thành con đường cứu nước của họ. Sự thất bại của các phong trào
yêu nước đã dẫn đến cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng, bế
tắc. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
Nhận thấy cách mạng Việt Nam cần phải có một con đường cứu nước
mới, thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, bế tắc, đưa cách mạng Việt Nam đi lên,
Nguyễn Ái Quốc đã quyết tâm rời quê hương đi tìm con đường cứu nước mới,
tìm con đường giải phóng dân tộc.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy và nghiên
cứu được những vấn đề hết sức có ý nghĩa trong việc giải phóng dân tộc qua các
cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Người nhận ra sâu sắc những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời.
Mặc dù khâm phục lịng u nước nhưng Người khơng đồng ý đi theo con đường
cứu nước của họ. Và ở đây Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua hạn chết của tầm nhìn để
tìm cho dân tộc mình một con đường cứu nước khác.
Người đã thấy được cách mạng dân chủ tư sản không thể đưa lại độc lập và
hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng.
Người đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc
tế Cộng sản.
Hoạt động của Người thể hiện một nhận thức sáng tạo về lý luận và thực
tiễn nhằm tìm hướng đi đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Hoạt động Người đi

tìm hình của nước:
Vào tháng 6/1917, Nguyễn Ái Quốc thay mặt nhóm người yêu nước Việt
Nam tại Pháp gửi “ Bản yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo
chính sách của Pháp và địi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ

10


và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Dù khơng được chấp nhận nhưng nó
cũng đã gây tiếng vang với nhân dân Pháp và các nước thuộc địa của Pháp.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người vô cùng phấn khởi
và tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải phóng
dân tộc mình.
Tháng 12/1920, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tán thành Quốc
tế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản,
trở thành một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng
sản đầu tiên của Việt Nam.
Và từ đây, Nguời đã nhận ra: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ”.
Đó là q trình hoạt động nhằm xác định con đường cách mạng cho dân
tộc, đó là con đường “cách mạng vơ sản”, con đường giải phóng đồng bào
thốt khỏi áp bức, bóc lột và giành độc lập cho nước nhà.
Việc xác định con đường cứu nước mới cho cách mạng Việt Nam, cho
thấy Nguyễn Ái Quốc khác với các nhà yêu nước đương thời, Người có một
phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối chiếu với
thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn
đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế giới có chọn lọc.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể

hiện nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối cứu
nước đúng đắn cho dân tộc ta.
2.3.2. Con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc
Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã đưa lý tưởng
cách mạng vô sản ngày càng trưởng thành và phát triển trong con đường cách
mạng của dân tộc.
Con đường hoạt động cách mạng của Người trải qua nhiều thời kỳ, giai
đoạn khác nhau, cùng với nó là những bước ngoặt định hình trong việc xác
định phương hướng, đường lối cho cách mạng.

11


Giai đoạn từ năm 1911 đến 1920:
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, Người lấy
tên là Ba, xin làm việc phụ bếp trên tàu đô đốc Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng
Nhà Rồng bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước.
Sau gần một tháng sống và làm việc trên tàu của Pháp, vào tháng 7/1911
Người đến cảng Mácxây của Pháp.
Từ 1912 -1917, Người đã đi qua Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ.
Người vừa lao động vừa học tập vừa đấu tranh trong hàng ngũ của nhân dân
lao động vừa học tập nghiên cứu các cuộc các mạng tư sản Pháp, Mỹ đây là cơ
sở để tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp, khi Cách mạng Tháng Mười Nga
thành công, Người tham gia những hoạt động chính trị sơi nổi ngay trên đất
Pháp, như đấu tranh địi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam được hồi hương,
tham gia hoạt động phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, Người tham gia
Đảng Xã hội Pháp, đây là Đảng duy nhất có chính sách tiến bộ, ủng hộ phong
trào đấu tranh ở các thuộc địa.
Tháng 6/1919, các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội

nghị ở Vécxai, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp gửi “Bản yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị, tố cáo chính sách của Pháp và địi
Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam.
Tuy không được chấp nhận, nhưng Bản Yêu sách có tác dụng như một
quả bom chính trị làm chấn động dư luận phương Tây và từ ấy, phong trào cách
mạng ở Việt Nam ngày càng lên cao.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Người vơ cùng phấn
khởi và tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải
phóng dân tộc mình. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tin theo Lênin, quyết
định đi theo Quốc tế Cộng sản.
Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng
12/1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba, tham
gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

12


Những hoạt động cách mạng của Người trong giai đoạn này đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin và đi theo
con đường cách mạng vô sản.
Người khẳng định : “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Công lao đầu tiên của Người với dân
tộc là đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, đã giải quyết được cuộc khủng hoảng
về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1920 đến 1930:
Đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
về nước, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc vừa
tiếp tục học tập, vừa tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước, chuẩn vị về

chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng tiên phong ở Việt Nam.
Hoạt động của Người giai đoạn này hết sức phong phú và sôi nổi, chủ yếu ở
các nước như Pháp (1921-1923), Liên Xô (1923-1924), Trung Quốc (1924-1927). Đây
cũng là thời kỳ tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
Hoạt động ở Pháp (1921-1923) :
Người tích cực hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tranh thủ sự ủng hộ
của Đảng Cộng sản và nhân dân Pháp đối với cách mạng Việt Nam.
Tham gia vào các hoạt động của Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp,
vận động đồng bào hướng về Tổ quốc.
Người cùng với một số nhà yêu nước Angiêri, Tuynidi, Marốc…thành lập Hội
liên hiệp thuộc đại, xuất bản báo Người cùng khổ ( Le Paria). Nguyễn Ái Quốc là
người phụ trách chính của tờ báo.
Người tích cực tổ chức các buổi diễn thuyết, viết bài đăng trên các báo Người
cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân…
Người viết tác phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp” được in và xuất bản lần
đầu tiên ở Pháp năm 1925.
Những sách báo trên đây góp phần tố cáo tội ác của thực dân Pháp cở các nước
thuộc địa, truyền bá tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm thức tỉnh
đồng bào trong nước.

13


Hoạt động ở Liên Xô (1923-1924) :
Tháng 6/1923 Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Matxcơva. Ở Nga trong 6 tháng
Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động tìm hiểu Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa MácLênin. Người tham gia viết bài cho tạp chí Sự Thật, tạp chí Thư tín Quốc tế, Người tham
dự các hội nghị quốc tế: Hội nghị Nông dân, Hội nghị Thanh niên, Hội Phụ nữ….
Tháng 7/1924, Nguyễn Ái Quốc cùng với Đảng Cộng Sản Pháp tham dự
hội nghị quốc tế Cộng sản.
Thời kỳ hoạt động ở Liên Xô là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc tiếp tục phát

triển và hoàn thiện thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người xác định những quan điểm về việc xây
dựng, củng cố mối liên hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, về
vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về vai trị
của giai cấp nơng dân trong sự nghiepj giải phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn
bị về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoạt động ở Trung Quốc (1924-1927) :
Cuối tháng 11/1924 Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu – Trung Quốc, nhằm tập
hợp những người yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở đây, giáo dục, truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Người tìm hiểu các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc, nhất là tổ chức
Tâm tâm xã. Người chọn một số đồng chí ưu tú trong tổ chức Tâm tâm xã khoảng 9
người trong đó có 5 đồng chí được kết nạp Đảng: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng
Mậu… thành lập nên Cộng Sản Đoàn.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
hạt nhân là Cộng Sản Đoàn. Với tờ báo Thanh Niên làm cơ quan ngôn luận ra đời số
báo đầu tiên ngày 21/6/1925. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên là bước cần thiết cho việc nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp cơng nhân
Việt Nam, chuẩn bị chu đáo về chính trị, tổ chức và đội ngũ cán bộ cho việc thành lập
Đảng Cộng sản.
Tháng 7/1925, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Trung Quốc,
Triều Tiên, Inđônêsia lập ra “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” .

14


Từ 1925-1927 Nguyễn Ái Quốc mở nhiều lớp chính trị ở Quảng Châu. Đầu
năm 1927 những bài giảng của Người được tập hợp và in thành cuốn sách “Đường
Kách Mệnh”. Nội dung cuốn sách các định tính chất, nhiệm vụ, lực lượng của cách
mạng Việt Nam, đặc biệt là nhấn mạnh vai trị lãnh đạo của Đảng mácxít, về mối quan

hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng vô sản thế giới.
Cuối năm 1927, do tình hình cách mạng, Người qua Đức, Pháp rồi trở về Xiêm,
xây dựng cơ sở cách mạng trong kiều bào Việt Nam ở đây.
Từ năm 1928, diễn ra “Phong trào vơ sản hóa” do Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên thực hiện dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc. Nhờ đó chủ nghĩa Mác –
Lênin được truyền bá sâu rộng trong phong trào cách mạng Việt Nam.
Những hoạt động nói trên của Nguyễn Ái Quốc là quá trình hoạt động gian khổ, lâu
dài, đấu tranh vì con đường giải phóng dân tộc. Đến đây, có thể thấy cơng lao to lớn của
Người chẳng những đã xác định được con đường cách mạng cho dân tộc, mà Người còn
phát triển, gầy dựng lý tưởng cách mạng vô sản ngày càng lan rộng và ảnh hưởng trong ý
thức, tinh thần và hoạt động đấu tranh của nhân dân Việt Nam theo cách mạng vô sản.
Những hoạt động của Người ảnh hưởng rất lớn trong phong trào cách mạng
Việt Nam, nhất là làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam
ngày càng phát triển mạnh mẽ, đưa cách mạng ngày càng tiến lên. Điều đó làm nảy
sinh nhu cầu thành lập một số tổ chức cách mạng lúc bấy giờ trong phong trào cách
mạng Việt Nam.
Đó là ngun nhân chính dẫn tới sự phân hóa của tổ chức Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, sự phân hóa của Tân Việt, và sự thành lập ba tổ chức cộng sản ở Việt
Nam năm 1929.
Sự phân hóa của các Hội cách mạng dẫn tới sựu ra đời các tổ chức cộng sản
cho thấy cách mạng Việt Nam ngày càng tiến triển và đi lên trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, sự định hình phù hợp và sự đúng đắn của con đường giải phóng
dân tộc được Nguyễn Ái Quốc lựa chọn cho thực tiễn cách mạng Việ Nam.
Tính tất yếu của lý tưởng cách mạng vô sản ngày càng tiến lên trong phong trào
cách mạng Việt Nam, khi Hội nghị thành lập Đảng diễn ra (3/2/1930), dưới sự chủ trì
của Nguyễn Ái Quốc, dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, chẳng
những chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc,

15



mà còn mở ra một bước ngoặt quan trọng cho cách mạng Việt Nam. Mà Nguyễn Ái
Quốc là Người có công lao lớn nhất trong việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3.3. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Cuối năm 1929, với sự xuất hiện và hoạt động tích cực của ba tổ chức
Cộng sản, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra hết sức sôi nổi. Tuy
nhiên, ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng lẻ, cơng kích lẫn nhau, tranh giành
quần chúng…làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng Việt Nam,
Những người cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, nhận thấy cần phải khắc
phục và chấm dứt tình trạng chia rẽ trong phong trào cộng sản, đồng thời cấp
bách phải thành lập một đảng cộng sản thống nhất.
Ngoài ra, với hoạt động của Nguyễn Ái Quốc cùng với các chí cách
mạng về q trình vận động thành lập đảng, đã làm cho phong trào công nhân
phát triển mạnh, ý thức chính trị, ý thức giai cấp ngày càng rõ rệt; cùng với các
phong trào đấu tranh yêu nước khác kết thành một làn sóng, trở thành một lực
lượng tiên phong. Thực tiễn đó địi hỏi cần phải có một sự lãnh đạo thống nhất,
chặt chẽ của một chính đảng duy nhất của giai cấp cơng nhân.
Hồn cảnh cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ được Nguyễn Ái Quốc nhìn
thấy một cách sâu sắc và Người yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc
này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Có như thế cách
mạng Việt Nam mới phát triển vũng mạnh, đáp ứng thực tiễn đấu tranh lúc bấy
giờ, đưa cách mạng đi lên và giành thắng lợi.
Để chuẩn bị cho hoạt động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã có một
q trình chuẩn bị lâu dài về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đồng thời tình hình
cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ cho thấy sự cần thiết phải có một đảng thống
nhất để lãnh đạo phong trào đấu tranh của dân tộc. Xu thế chủ quan và khách
quan đã chín muồi, đủ điều kiện để thành lập đảng, do vậy Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời lúc này chứng tỏ một quá trình vận động hợp quy luật, đáp ứng sự
phát triển tất yếu của con đường cách mạng vô sản, cũng như thực tiễn cách

mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

16


Nhận thấy được điều này, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ hoạt động,
Người từ Xiêm về Trung Quốc, vận động các đồng chí cách mạng cùng nhau
đồn kết, tiến hành Hội nghị thành lập Đảng.
Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, diễn ra tại Hương
Cảng, Trung Quốc. Hội nghị thơng qua “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn
tắt” và điều lệ vắn tắt” của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo.
Hội nghị diễn ra từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, với việc thảo luận đề nghị của
Nguyễn Ái Quốc, hội nghị đã được những thắng lợi như : Nhất trí xóa bỏ thành kiến,
xung đột, thành thật hợp tác để thống nhất đảng. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng…
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện
chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam – sự phát triển về chất từ
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến ba tổ chức cộng sản, đến Đảng Cộng
sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập thông qua Cương lĩnh chính trị
đầu tiên, Cương lĩnh đã xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam về
phương hướng chiến lược cách mạng, nhiệm vụ cách mạng. Từ đó, cách mạng Việt
Nam đi theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng,
chính trị và hành động của phong trào cách mạng trong cả nước.
Đảng ra đời là một sự kiện quan trọng trong cách mạng Việt Nam. Đó là một
thắng lợi vĩ đại của dân tộc, thắng lợi đó gắn liền với vai trị to lớn của Nguyễn Ái
Quốc, Người có cơng lao lớn trong q trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng ra đời, đánh dấu vai trò to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam.

Từ việc đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc. Sau đó chuẩn bị về tư tưởng chính trị (1920-1924) và cả về tổ
chức (1925-1927) cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam (1930). Rồi
Người trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tháng 2/1930, thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,
đặt cơ sở cho đường lối cách mạng Việt Nam từ đó về sau.

17


Quá trình thành lập Đảng là quá trình gắn liền với hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc, tên tuổi của Người luôn gắn liền với Đảng, với phong trào cách mạng dân
tộc. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời, ta càng thấy rõ
hơn đóng góp vĩ đại của Người cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
III. KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh – Người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Người đã đưa ánh
sáng của cách mạng vơ sản về dân tộc, xóa bỏ đêm tối khủng hoảng và bế tắc về
đường lối cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam trở về bình minh thắng lợi với con
đường “cách mạng vô sản”.
Cống hiến của Người trong việc thành lập Đảng là to lớn, vĩ đại, tuổi trẻ của
Người gắn liền với những năm tháng hoạt động cách mạng vì nhân dân, vì đất nước,
được kết tinh với tên tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi sau này của
Đảng luôn được nhân dân khắc ghi và nhớ đến công lao của Người đối với phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.

18




×