Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Thu trong tho Nguyen Khuyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.6 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

PHẦN 1




I - Rằm tháng giêng Kỉ Dậu (1909), sau 25 năm cáo thối triều quan, lui về chốn
q, hịa vào thôn ổ, Nguyễn Khuyến, nghệ sĩ lớn cuối cùng của nền thơ ca cổ điển Việt
Nam, khép lại trang đời, hưởng thọ 74 tuổi.


Sáng tác của Nguyễn Khuyến (gồm thơ, văn , câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm)
hầu hết được làm sau lúc từ quan (1884), hiện còn khoảng trên 800 bài [1; 19]. Trong đó
đại bộ phận là thơ. Đặc biệt có nhiều bài thơ được ơng viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra
chữ Nôm, cả hai đều rất điêu luyện. Tính cho đến nay, cuốn “Nguyễn Khuyến- tác
<b>phẩm” do Nguyễn Văn Huyền sưu tầm , biên dịch, giới thiệu ( Nhà xuất bản Khoa học</b>
xã hội, 1984) là cuốn sách giới thiệu nhiều tác phẩm của Nguyễn Khuyến nhất – 432 tác
phẩm.


Nhà thơ Xuân Diệu có nhận xét mảng thơ có giá trị nhất của Nguyễn Khuyến là
mảng thơ Nôm , trong thơ Nôm, nức danh nhất là ba bài thơ Thu (Thu vịnh , Thu điếu ,
và Thu ẩm). Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến có thi đề là ba cái thú tiêu khiển thanh
tao và cũng thật thanh đạm của một dật sĩ: làm thơ, câu cá và uống rượu . Nhìn một cách
chung nhất, nhà thơ đã đóng góp cho văn học dân tộc <i><b>bức tranh thu tiêu biểu về vùng</b></i>
<i><b>quê chiêm trũng - làng Yên Đổ, tỉnh Hà Nam</b></i>. Ba thi phẩm này hầu như được viết khá
gần nhau, rất nhất quán trong cách đặt thi đề, trong mạch cảm hứng, hơi thơ; nhất quán
về không gian, thời gian và cả bầu sinh quyển. Bộ ba ấy tự mình làm thành một thế giới.
Ơng đã tạo ra nó bằng cả tâm hồn mình, và ông cũng đã chọn cái thế giới ấy làm nơi neo
đậu cho cốt cách của mình. TS Chu Văn Sơn nhận xét:“ Hồn thơ của ông đã chọn cái cõi
thu này để kí thác và chốn ấy cũng nhận ông về để rồi biến cái phù du khoảnh khắc nhất
thời của thân thế cá nhân thành những giá trị chung muôn đời” [ 17;7].


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

là một trọng tâm chú ý trong giờ giảng văn của đa số giáo viên phổ thơng chúng tơi. Sự
chú ý đó rất cần , rất đúng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nên chú ý đúng mức đến hình


<i>tượng cái tơi trữ tình thể hiện qua bộ ba này. Hình tượng đó , như sau đây sẽ luận</i>
giải, có tính chất quán xuyến toàn bộ thơ Nguyễn Khuyến.




Văn chương khơng chỉ là bức tranh đời sống mà cịn là bức chân dung tinh thần
của chủ thể sáng tạo. Chủ thể không chỉ là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần mà
còn là đối tượng miêu tả biểu hiện; chủ thể không chỉ được xem như là một yếu tố tạo
nên nội dung tác phẩm mà còn được xem như là một phương tiện bộc lộ nội dung của tác
phẩm, là một thành tố của thế giới nghệ thuật do tác phẩm tạo ra. Ở những nhà thơ có cá
tính sáng tạo độc đáo, dấu ấn của chủ thể càng in đậm trong từng từ, từng hình ảnh, từng
dòng thơ, bài thơ,..


Vấn đề cần giới thuyết ở đây là mối quan hệ giữa chủ thể với hình tượng nhân vật
trữ tình, là những hình thức biểu hiện của chủ thể với tư cách là hình tượng trung tâm của
tác phẩm thơ trữ tình. Để thấy rõ mối quan hệ này, cần thiết phải phân biệt chủ thể và cái
<i>tôi, cái tôi của nhà thơ và cái tơi trữ tình trong tác phẩm.</i>


Chủ thể là một phạm trù được xem xét trong mối quan hệ với khách thể, là phạm
trù đối lập với khách thể ở tính tích cực, thể hiện ở ý thức, ý chí và khả năng nhận thức,
chiếm lĩnh hiện thực khách quan. Cái tôi là yếu tố của chủ thể làm cho chủ thể ý thức
được chính mình, là chức năng tự nhận thức của chủ thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

**



II

- Ở ba bài thơ thu ( Thu vịnh, Thu điếu và Thu ẩm), qua ba


bức tranh thu người đọc có thể nhận ra một con người có cách
cảm nhận đặc sắc, tinh tế đối với làng cảnh Việt Nam:





1- Phong cảnh làng quê trong thơ Nguyễn Khuyến, như nhiều
người đã nhận xét , đúng là phong cảnh quê hương nhà thơ, một làng
quê vùng chiêm trũng, lặng lẽ, nên thơ- làng Yên Đổ , huyện Bình Lục ,
tỉnh Hà Nam trong hai thập niên cuối cùng của thế kỉ XIX đầy những
biến động dữ dội. Cảnh quê được cảm nhận bằng nhiều điểm nhìn,
<i>nhiều góc nhìn, ở nhiều thời điểm khác nhau, trong những trạng thái</i>
<i>tâm tư khác nhau nhưng thảy đều thống nhất trong nhãn giới của một</i>
<i>con người canh cánh một tình yêu quê hương nồng đượm.</i>


Có cái nhìn tồn cảnh, bao qt một khơng gian rộng lớn ở nhiều
thời điểm khác nhau , trong một trạng thái minh tĩnh tuyệt đối, một
tầm đón nhận tinh tế mọi biểu hiện của cảnh thu:


Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
<i> Cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu.</i>


<i> Nước biếc trơng như tầng khói phủ,</i>
<i> Song thưa để mặc bóng trăng vào.</i>


( Thu vịnh)


Cĩ cái nhìn từ một khơng gian cụ thể, ở một khoảng thời gian cụ
thể trong bài <i><b>Thu điếu</b></i>. Đĩ là cái nhìn của ơng câu từ chiếc thuyền câu
bé tẻo teo, bất động trên mặt ao lặng lẽ vào một chiều thu lạnh lẽo:
Ao thu lạnh lẽo , nước trong veo ,


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i> Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,</i>
<i> Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.</i>


<i> Tầng mây lơ lửng , trời xanh ngắt,</i>
<i> Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo,</i>


Có cái nhìn chếnh chống bỡi men tiêu sầu và đó cũng là sự bổ
<i>sung một cách nhìn , một tâm thế nhìn để phát hiện ra các khía cạnh</i>
khác nhau của bức tranh quê từ một đêm trăng muộn:


Năm gian nhà cỏ thấp le te,
<i> Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.</i>
<i> Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,</i>
<i> Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.</i>
<i> Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?</i>


( Thu ẩm)


<i><b>Viết về làng quê mình bằng chính sự quan sát, trải</b></i>
<i><b>nghiệm của cả cuộc đời gắn bó với quê hương nhà thơ nhận ra</b></i>
<i><b>những nét rất đặc trưng của cảnh thu nơi làng quê núm ruột</b></i>
<i><b>của mình</b></i>. Đó là:


Một bầu trời cao xanh lồng lộng dù được ngắm nhìn ở thời điểm
ban ngày hay ở một đêm trăng:


<i>“ Trời thu xanh ngắt mấy từng cao”</i>


<i>“Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt” </i>
<i>“ Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

riêng của nó. Màu xanh ngắt trong <i><b>Thu ẩm</b></i> dường như pha một chút
ngạc nhiên , hóm hỉnh, mà đau đớn tự bên trong; màu xanh của <i><b>Thu</b></i>


<i><b>điếu</b></i> là màu xanh phân vân trước cái cao rộng của bầu trời, còn màu
xanh trong <i><b>Thu vịnh</b></i> là cái nền xanh sâu lắng vừa cao rộng vừa thẳm
<i>sâu </i>


Nước thu trong vắt, lãng đãng khói sương vào buổi hừng đơng
hoặc lúc chiều tà- “Nước biếc trơng như tầng khói phủ”. Gió thu nhè
nhẹ, hắt hiu. Lá thu không trút ào ạt như mùa thu Trung Quốc trong thơ
Đỗ Phủ. Nó nhè nhẹ rời cành bng mình lượn theo làn gió
hắt hiu : ‘Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo”


Trăng thu sáng trong dịu mát , gợi cảm, sinh động:
“ Song thưa để mặc bóng trăng vào”
<i> “ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”</i>


Đường thơn , lối xóm ngày thu thặt yên ắng: “ Ngõ trúc quanh co,
<i>khách vắng teo”.</i>


Ở trung tâm cõi thu của Nguyễn Khuyến là một nếp nhà giản dị :
“ năm gian nhà cỏ thấp le te” nhưng luôn mở thơng với thiên nhiên,
giao hịa với trăng thu quyến rũ: “ Song thưa để mặc bóng trăng vào”.
Do vậy , hình ảnh ‘năm gian nhà cỏ” khơng hề gợi sự tồi tàn , mặc
cảm mà là sự thích thảng, một nếp sống thanh bạch của những con
người cao khiết.




</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>đẹp thiên nhiên quê kiểng. Nhà thơ Xuân Diệu từng thán phục Cụ khi</i>
Cụ sử dụng tinh vi các từ chỉ mức độ hoạt động của lá và của sóng
trong hai câu: “ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí . Lá vàng trước gió sẽ đưa
<i>vèo”[13, 167].</i>



Đặc biệt nhất là các từ láy được sử dụng rất đắc địa. Hệ thống từ
láy Nguyễn Khuyến sử dụng là những từ có tính tượng hình, gợi cảm
cao. Bài nào cũng có: Thu vịnh có lơ phơ, hắt hiu; Thu điếu có lạnh lẽo,
<i>tẻo teo, lơ lửng; Thu ẩm có le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh.</i>


Nhịp điệu , giọng thơ của chùm thơ tuy phải tuân thủ luật
thơ thất ngôn bát cú cực kì nghiêm ngặt nhưng vẫn hết sức tự
nhiên sinh động , khơng chút gị gẫm. Dịng nối dịng, lời thơ thơ
cứ thế trôi chảy tự nhiên, uyển chuyển gần với lời ăn tiếng nói
hằng ngày nhưng vẫn giàu nhạc điệu, chất thơ . Tứ thơ vận động
hợp lí đi từ ngoại cảnh đến nội tâm. Nội tâm được biểu hiện qua
nhiều nhiều sắc thái , không trùng lắp. Đó là một dấu hiệu chứng
tỏ “sự thắng thế của một quan niệm, một phương thức tư duy
<i>nghệ thuật bước đầu tìm dược một định hướng đúng, để đi nhanh</i>
<i>từ ước lệ, cơng thức, đến hịa trộn tài tình bút pháp trữ tình với tả</i>
<i>thực” [13, trang 76]</i>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×