Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.52 KB, 14 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Ông quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hồn cảnh gia
đình khó khăn, ơng chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết
truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy
và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện (<i>Vợ nhặt</i>, Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô
<i>đầu, Cô Vịa,...) mang tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được khơng khí tiêu điều, ảm </i>
đạm của nơng thơn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó.
Ơng được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt
văn hóa phong phú ở thơn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim...). Các truyện: Đôi chim
<i>thành, Con mã mái, Chó săn... kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó </i>
biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám -
những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Sau Cách Mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về
truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam - mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu
biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó
<i>xấu xí (tập truyện ngắn, 1962).</i>
Sinh thời ơng sống tại Hà Nội. Ơng từ trần năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội,
sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn, hưởng thọ 87 tuổi
Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng
có những tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống
và con người ở nơng thơn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng
Truyện ngắn Vợ nhặt và <i>Làng</i> của Kim Lân đã được đưa vào trong sách giáo khoa ở Việt
Nam. Năm 2005, truyện Vợ nhặt được đưa vào đề thi môn văn kỳ thi của Đại học Kinh tế
Huế và Nguyễn Thị Thu Trang đã đạt điểm 10, gây xôn xao dư luận một thời. Truyện
<i>Làng được viết về nông thôn Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp và một gia đình </i>
người tản cư thời đó.
"Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về
<i>con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. </i>
<i>Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề</i>
<i>bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng </i>
<i>tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra </i>
<i>con người."</i>
Ông là cha của họa sĩ Thành Chương, nữ họa sĩ Nguyễn Thị Hiền.
Ngoài sáng tác văn học, Kim Lân cịn tham gia đóng phim và kịch. Một số vai tiêu biểu
ông tham gia diễn xuất có thể kể:
Thống lý Pá Tra trong phim <i>Vợ chồng A Phủ</i>
Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy
Lý Cựu trong phim <i>Chị Dậu</i>
Lão Pẩu trong phim Con Vá
Cả Khiết trong vở Cái tủ chè của Vũ Trọng Can
<b>Truyện ngắn</b>
Đứa con người vợ lẽ
Nên vợ nên chồng
Làng
Vợ nhặt
Một trong những sáng tác nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ
nhặt là đã xây dựng đựơc tình huống truyện đặc sắc và hấp dẫn. Hãy phân tích
truyện Vợ nhặt để chứng minh ý kiến trên.
Bai lam
đến như vậy? Điều đó hồn tồn trái ngược với quan niệm của dân gian:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi, trong cơn đói khủng khiếp mà có lẽ
“đến năm 2000 con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình” đang
hồnh hành. Cái lạ thường, kì dị của hành động đã tạo nên một tình huống vơ cùng
độc đáo mang ý nghĩa phân phối toàn bộ tác phẩm.
Đã từ lâu, dân làng cái xóm ngụ cư này đã q quen với hình ảnh vộp vạp, thô
kệch của Tràng với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi, Tràng
Tình huống Tràng có vợ gây ra ấn tượng rất mạnh. Cả xóm ngạc nhiên đã đành,
mà ngay cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ
của bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại cịn chào
mình bằng u nữa. Bà khơng thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời
buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn
mãi ra.
ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta
cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui,
không được một vài mâm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngoài tâm sự của à có
cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã khơng làm được đầy đủ bổn phận của một
người mẹ đối với con.
Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục từ khi thị quyết định theo hắn về nhà.
Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn chén
Khơng cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ
nhặt mang đến một giá trị nhân bản vơ cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nó
xốy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, ngun nhân trực tiếp dẫn đến cái đói
kinh hồng. Cái đói mang đến sự chết chót, tang thương khắp mọi nơi và cũng
chính nó làm những giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người
dường như mất hẳn tính ngươờ, chỉ cịn sống theo bản năng để được ăn, được
sống...Cơn đói khát làm cho ngừoi đàn bà quên cả sĩ diện, đượcmì ăn hai con mắt
trũng hoáy của thị sáng lên tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai
có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta
liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao. Con người trở nên trơ trẽn,
mất nhân cách khi cái đói lởn vởn trong tâm trí. Giận thị nhưng ta vẫn xót xa trước
dáng hình tiều tịu của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy
sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói, với
bóng đen kinh hồng của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình
thường của mỗi con người. Cịn gì thê thảm bằng đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu
thê thiết đón chào, đêm tân hơn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê “có mùi đốt đống rấm ở
những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Thân phận bọt bèo của
những con người như Tràng, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân nó đã có sức tố
mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó khơng đủ để
chảy thành dịng “rũ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Khơng cịn nước mắt
nhưng bà vẫn nhận lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa.
Bằng ngịi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng
màn đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó
khiến chúng ta hướng về và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những
bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi
sáng hơn. “Bà lão nói tồn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí
bà đã có sẵn một viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ
nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta
vui lây niềm vui của gia đình hồ thuậ, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy
xung quanh mình hơm nay có gì vừa thay đổi mới mẹ, khác thường. Niềm vui bất
chợt của gia đình làm ta cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn
ngào. Ta múôn tha thứ tất cả, kể cả sự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung
phí đến hai hào dầu của anh Tràng.
Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩ
của tình huống lại mang một giá trị nhân bản,tấm lịng nhân đạo bao la của nhà
văn. Chính vì thế, tác phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấ mnư một ngọn lửa
nhỏ lấp loé mãi trong cuộc đời. Và tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản
chất tuyệt vời nhân hâu., tuyệt vời đứa hi sinh của những người nông dân Việt
Nam. Dù đứng trước sự mất còn của mạng sống ( hiểu theo nghĩa đen trần trụi
nhất) vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với
tương lai. Lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đồn đói khát đi phá kho thóc của
Nhật đâu chỉ là mộng tưởng ? Tương lai mới “bạch sắc” (màu trắng) nhưng “dĩ
thành hồng” (đã thành đỏ) rồi. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa
nhân đạo sẽ tắm gội những con người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như
đáo: tái hiện sinh hoạt văn hố phong phú ở thơn q (đánh vật,chọi gà,thả
chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một
cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm
hồn của người nông dân trước Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ
nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân
tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê
Việt Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm
chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện
ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn
nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết
về cuộc sống và con người ở nơng thơn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn
là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ơng là nhà văn một lịng đi về
với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn
(Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12)
Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn
đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào lòng người
đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể hiện tài năng
của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo,
phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của
người nơng dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung
của những ngừơi nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo
nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc .
Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ gả
chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh
“Vợ Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối
cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945,một trong
những thời kỳ đen tối trong lịch sử.Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng
nhập nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”.Và thấp thoáng trong
thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những bóng
ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”,”những cái thây nằm cong queo bên
đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái
chết,một khơng khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một khơng khí nặng
nề,phản ánh được cuộc sống của người nơng dân lúc bấy giờ mới khó khăn,cực
nhọc đến dường nào,gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải wo
những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo,chịu đói rét.
vạp”,cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái
lưng to rộng như lưng gấu”,và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết
sức hoang dã trong xã hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém
phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh vườn lổn
nhổn toàn cỏ dại,mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc bấy giờ bị coi
khinh,ruồng bỏ,một thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ
thuật của mình,gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện :”Giữa cái cảnh
tối sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với
một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng.
Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con
gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái
ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được “thứ” vốn
biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách hiển hách,oanh liệt,cứ như một
anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ bng ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh,mà “cô nàng” đã
vội vã theo không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng
xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm
đảo lộn cuộc đời Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được viết,Kim Lân cho ta
nhận thấy:cái người phụ nữ đói rách kia cịn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao
mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ của người đàn bà lao động nghèo tài
thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất
cong cớn nhưng không nanh nọc,trơ trẽn.Và cũng chính cái cong cớn,sưng sỉa,
đanh đá,trơ trẽn kia,nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ tuyệt không
sinh ra từ cái ác,cái xấu xa.
Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại
thương và buồn cho họ vì họ khơng thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã
hội mà được mọi người gọi là con người mà chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ
họ, để mặc họ trong cái nghèo đói.Ở đây ,tác giả khơng phải nói về những nét thấp
kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách.Ngược lại ,với việc đặt
nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,lắt lay,nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để
biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được thương yêu và hy
vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó khơng thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một
tương lai khơng mấy sáng sủa và nó cũng khơng bị diệt trừ.Nó cứ âm thầm vươn
lên từ đói khát,tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết
chừng nào.
Khi “nhặt” vợ về,Tràng khơng phải là khơng biết suy nghĩ:”thóc gạo này đến cái
thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng lại cịn đèo bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc
Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến lượt
nó,lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng hạn.Tràng
hơm nay đã khơng cịn giống như Tràng của những ngày hôm qua.Anh Tràng hôm
nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai kia,chỉ vì đi bên một người đàn
bà ở một nơi vắng vẻ,muốn bng một câu tình tứ mà chịu khơng sao nói nổi.Rồi
đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ
nghệch,ngây thơ:”Có một mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười
Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó khơng chỉ là một sự
việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười,một tiếng thở dài thương cảm
cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có hai hào dầu là
cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ lãng mạn,ga-lăng lắm
lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng
Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ:”Kìa nhà tơi
nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ,văn
xi hết sức,những câu văn không hề cầu kỳ,gọt giũa,mơ mộng,mà mang đậm
phong cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng trong từng câu nói.Người mà
Tràng gọi là “nhà tôi” ấy,cái người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên
ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được,chưa trải qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một
lần,chưa được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những
tiếng của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi,rành
rọt trước mẹ Tràng,người đàn bà ấy và chính Tràng,một sự thật hiển nhiên:”Ra
hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng
giúp Tràng có được một cuộc sống của con người bình thường:”Bỗng nhiên hắn
thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.Hắn đã có một gia
đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che
nắng..Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người.” Đó cũng là những ao ước của những
người nơng dân ln mong có được một gia đình hạnh phúc.Giống như nhân vật
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng Thị Nở
xây dựng gia đình,dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi ngày
được thưởng thức “bát cháo hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vơ cùng giản
đị như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt,và Kim Lân đã
đưa vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo nên sự
đồng cảm thiết tha cho người đọc.
mức ông chồng đi bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con
ta:”Tràng nom thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực
khơng cịn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”Cuộc
đời éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu
đi theo một người đàn ơng như Tràng ,xấu xí và xa lạ như để tránh sự cơ đơn và
nghèo đói.Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thốt được cái đói của
cuộc đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là tình
thân,tình thương,một mái ấm gia đình,một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia
của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói:dù đói khổ,khó khăn vất vả
nhưng không thể thiếu trong cuộc sống tình thương u gia đình, điều đó mới có
thể giúp ta cảm thấy được mình vẫn là một con người bình thường như bao người
khác.
Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng lơ,với
những câu nói trổng khơng,dân dã,bình thường,nghe rất lạ lẫm đối với những cặp
vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thống chốc trở thành
vợ chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn cịn chưa hết ngượng ngùng.Và nó
khơng chỉ thể hiện qua lời nói,mà cịn qua cái củng vào trán cùng với một tiếng
“dơ”,cái cười hì hì của gã đàn ơng,và trước đó là cái lườm của chị vợ..giống như
nhân vật Thị Nở của Nam Cao:”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng
lườm.”Nhưng đối với chị vợ của Tràng thì đó cịn là một người đàn bà đói rách
đang đong đưa con mắt để quên cái xấu,cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu
vợ chồng”.Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của
đời thường,nạn nhân của xã hội nghèo khổ,nắm bắt ngay những thời cơ để được
yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một lần trong đời và để
mặt sau này.Cịn mình thì…biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được
cơn đói khát này khơng?”.Nhưng sự tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con dâu,mặt
cúi xuống,”tay vân vê tà áo đã rách bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ
về việc có vợ là một cơ may:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,người ta
mới lấy đến con mình.Mà con mình mới có vợ được…Thơi thì bổn phận bà là
mẹ,bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng có
chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai ốn số phận,nén cái cảm giác bất đắc dĩ trứơc
việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút rưng rưng,xao xuyến một niềm vui.Qua đó
ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng
dâu mới:”Thơi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau,u cũng mừng
lòng”,lột tả cái thần thái của tấm lòng vị tha cao cả,giấu đi những giọt nứơc mắt
xót thương vì sợ gây cho người mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy à? Ừ
thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ.” Đó là thứ ánh sáng
mờ trong đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không biết
lúc nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ chồng
Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất:từ cái việc đan cái phên
ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta
mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh lịng “rồi may ra ơng giời cho
khá…Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà
khơng ước ao gì cao xa,bà chỉ ao ước cho con mình,cho gia đình ,cho thế hệ con
cháu mai sau,vun vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu..Có ai ngờ rằng một bà
cụ đang chờ về thế giới bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo
năm tháng và tuổi tác.
Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể
nghệ thuật chung.Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về nhà,cái nhìn
của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi
lỗng thếch và đáng chát,và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trứơc việc phải
ăn món ăn vốn khơng phải là của con người,rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh
đất đầy người chết đói,xua đồn quạ hốt hoảng vù bay,khiến nền trời thành đen
vẩn.Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới
trong óc Tràng.Anh đã nhận thức được con đường để thốt nghèo đói là đấu
tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng,và tinh thần
đấu tranh của người nông dân đang thôi th1uc họ mạnh mẽ tháot khỏi kiếp nghèo
và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai sáng sủa,một khát vọng tình
u,hơi ấm gia đình,hồ bình và tự do.Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói
chung của những người nơng dân rũ bùn đứng dậy sáng lồ,chiến đấu vì đất
nứơc,vì để thốt khỏi số phận tối tăm trứơc mắt.Hình dáng người nơng dân nổi bật
trước lá cờ đỏ sao vàng,lá cờ lý tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin chiến
thắng.Và qua đó nói lên một niềm tin,một hy vọng tràn trề về một chiến thắng,sự
thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hồ bình” ,”tự do”.
Với vốn liếng ngơn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính chất nơng thơn,cái lối
viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo ,giản dị vô cùng mà vẫn ánh
lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên
qua những cử chỉ hành động một cách tinh tế :tiếng gắt vô duyên vô cớ,một tiếng
khẽ ho bình thừơng,những bứơc chân bứơc vội ra sân,thái độ điềm nhiên và miếng
cám vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúơi cùng là cái nhìn đời,nhìn đời đầy
xót xa và thương yêu của nhà văn,là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả
chúng ta qua tác phẩm.Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái
cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất diệt,và con ngừơi khơng có kháo
khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên
ngừơ,có được mái ấm gia đình,một cuộc sống ấm no đầy đủ,tình u đơi lứa,niềm
hạnh phúc trong cuộc sống và tình thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ
chính mình, để thốt khỏi sự áp bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở thành lá
cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất nứơc.
cho con cái thật sự làm đau đớn,chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha
thiết,súc tích biết dường nàoBản thân tơi, khi đọc những dịng văn mà Kim Lân
viết,tơi đã có rất nhiều cảm xúc,những cảm xúc tự hào về cha ơng đã khơng vì nạn
đói,nguy nan trứơc mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên đất nứơc Việt Nam như
ngày hôm nay,cảm xúc về những ngừơi nông dân bình dị nhưng lại chất chứa bên
trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã
qua ,nhưng những hình ảnh về một thời đ1oi khổ,một thời chiến đấu của nhân dân
ta vẫn cịn hiện lại trong tơi như mới đây thơi. Điều đó càng làm tơi cảm thấy mình
có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những
người nơng dân,và ơng cha ta đã gầy dựng.
Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám khơng chỉ giầu tính chiến đấu mà cịn giầu
tính nhân đạo . Hai tính chất này khơng tách rời nhau, ln gắn bó khăng khít và hỗ trợ
Tác phẩm bắt đầu bằng việc miêu tả sự đổi thay to lớn của xóm làng khi nạn đói tràn tới .
Anh cu Tràng, một người vơ tư, vui tính, được trẻ con u mến mà nay “đi từng bước
mệt mỏi”, “cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước” . Các lều chợ đầy những người đói
bồng bế , dắt díu nhau “xanh xám như những bóng ma”… Nạn đói tràn đến đang gieo rắc
cái chết và xóa mất sinh khí của xóm làng . Hình như khơng ai tin mình có thể sống qua
nạn đói , và chính cái đói đã làm mất đi nhân cách con người như người đàn bà mà Tràng
gặp . Giữa lúc ấy thì Tràng nhận người đàn bà kia làm vợ . Người ta thường nói cái đói
làm cho con người trở nên mất giá . Cơ gái theo Tràng chỉ vì một câu nói đùa và bốn bát
bánh đúc làm cỗ cưới. Nhưng đó khơng phải là cách nhìn của nhà văn . Với cái nhìn nhân
đạo, nhà văn nhìn thấy khát vọng sống cịn bức thiết của cơ gái . Ông cũng thấy niềm
khát khao có được vợ của anh cu Tràng . Anh cũng liều lĩnh tắc lưỡi : ”Kệ” , cứ đón cơ ta
về đã .
nhân khi bắt đầu làm quen .
Điều thú vị là tác giả đã để cho hai người dắt díu nhau diễu qua trước mặt dân làng . Rõ
ràng sự kết hợp của họ đem lại sinh khí cho cái làng đầy tử khí . Trẻ con thì gào lên
“Chơng vợ hài” . Người trong xóm thì “những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng
rạng rỡ hẳn lên . Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát , tăm tối ấy của
họ ” . Họ không hiểu nổi , họ thở dài, họ nín lặng, bởi vì họ đang tuyệt vọng . Sự kết hợp
liều lĩnh của Tràng và cô gái là một thách thức quyết liệt của khát vọng sống và khát
vọng hạnh phúc trước mọi ý thức tuyệt vọng và tê dại vù nạn đói , và khơng phải khơng
có tác dụng làm cho tâm hồn họ rạng rỡ hơn . Nhà văn như hồn tồn khẳng định sự sống
và ý chí sống cịn của con người , trân trọng và yêu mến hành động liều lĩnh của họ trong
đoạn văn này .
Nhưng tư tưởng chủ đạo của tác phẩm khơng chỉ có thế . Qua cuộc gặp gỡ với người mẹ
và sau một đêm trở thành vợ chồng , nhà văn khẳng định tình yêu cuộc sống sẽ thắng
được chết chóc, cuộc sỗng sẽ thay đổi .
Bà mẹ trước nạn đói cũng thất vọng và hồi nghi như mọi người “biết rồi chúng nó có
ni nổi nhau qua được cơn đói khát này khơng”, bà cũng thở dài . Nhưng bà là mẹ, bà
thấy sự “nhặt vợ” cũng là may, nên bà mừng lịng, bà ni hi vọng cho đơi trẻ . Bà mẹ
nhìn con dâu lịng đầy thương xót , khơng chút coi thường . Bà nghĩ đến việc phải có dăm
ba mâm cho phải lẽ , chứng tỏ trong lịng bà khơng vướng ý nghĩ “nhặt khơng người đàn
bà”cho con mình . Đó là tình cảm nhân đạo có tác dụng nâng cao phẩm giá con người .
Có thể nói Kim Lân chọn tình huống “nhặt vợ”, một tình huống con người bị đánh mất
phẩm giá trong mắt mọi người ngoài cuộc để nâng niu, khẳng định phẩm giá của họ,
những người trong cuộc .
Sau một đêm thành vợ chồng tại ngơi nhà nát, sáng hơm sau vẫn trong cơn đói khát ,
nhưng một khơng khí đầy sinh khí đã đến với tất cả mọi người . Ngôi nhà sạch sẽ, gọn
gàng, ang nước đầy ắp … , người vợ trở nên hiền hậu đúng mực, cịn Tràng thì “bỗng
dưng hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng … Bây giờ hắn mới thấy
hắn nên người…” . Một niềm tin vào tương lai gieo vào lịng mọi người : “Hình như ai
nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ sẽ khác đi,
làm ăn có cơ khấm khá hơn . Chưa bao giờ trong nhà này, mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp
như thế” . Nhưng bữa ăn ngày đói đưa họ trở lại với hiện tại đói khổ, mặc dù trước đó họ
ln nói chun tương lai với những khát khao hạnh phúc , để họ nhận thức được muốn
tồn tại phải hành động và Việt Minh là cánh cửa đưa họ tới ước mơ tươi sáng ngày mai,
dù hiện tại trong suy nghĩ của Tràng, Việt Minh vẫn cịn xa vời và đã có lúc Tràng chạy
trốn Việt Minh bởi ở Tràng vẫn còn tồn tại hố sâu ngăn cách về nhận thức .
Mở đầu tác phẩm là một tình huống truyện độc đáo, tình huống Tràng cưới vợ khác với
tập tục truyền thống . Cốt truyện thay đổi theo sự vận động của những tâm hồn ham sống