Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về điều tra vụ án đối với người dưới 18 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.55 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................1
I Khái quát chung thủ tục điều tra vụ án đối với người dưới 18 tuổi.....................1
1. Khái niệm.........................................................................................................1
2. Cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự..................................................................2
II. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục điều tra đối với người dưới
18 tuổi.....................................................................................................................3
1. Người tiến hành hoạt động điều tra.................................................................3
2. Người tham gia tố tụng khác vì lợi ích của người dưới 18 tuổi.......................4
3. Các thủ tục đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.............................5
III. Thực tiễn áp dụng thủ tục điều tra đối với người dưới 18 tuổi và một số kiến
nghị hồn thiện......................................................................................................11
1. Một số hạn chế cịn tồn tại.............................................................................11
2. Một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật............................................12
KẾT LUẬN..............................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................15

0


ĐẶT VẤN ĐỀ
BLTTHS năm 2015 được Quốc hội khóa 13 thông qua ngày 27 tháng 11 năm
2015 thay thế cho BLTTHS năm 2003 đã quy định về các thủ tục tố tụng trong hoạt
động tố tụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội hiệu quả, kịp
thời và chính xác.
Với tư cách là luật hình thức, ngồi việc quy định một cách chặt chẽ điều kiện,
trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng các biện pháp trong hoạt động điều tra
BLTTHS cịn có những quy định riêng đặc biệt đối với những đối tượng là người
dưới 18 tuổi nhằm bảo đảm tối đa các quyền và lợi ích hợp pháp cũng như các lợi


ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi trong hoạt động điều tra vụ án hình sự nói riêng
và trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung.
Để tìm hiểu rõ hơn về quy định của thủ tục tố tụng trong hoạt động điều tra vụ
án hình sự đối với người dưới 18 tuổi em xin phân tích đề tài số 04: “Quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về điều tra vụ án đối với người dưới 18 tuổi”:
NỘI DUNG
I Khái quát chung thủ tục điều tra vụ án đối với người dưới 18 tuổi
1. Khái niệm
Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng
mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định sự quy định để xác định tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.1
Người dưới 18 tuổi là người chưa đủ 18 tuổi hay còn gọi là người chưa thành
niên, chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần, những đối tượng này dễ bị tổn
thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng các vụ án hình sự nói riêng bảo vệ đặc
biệt hơn so với người từ đủ 18 tuổi trở lên được gọi là người đã thành niên.
Căn cứ Điều 413 về Phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
đối với: Người bị buộc tội, Người bị hại, người làm chứng. Trước đây, tại bộ luật
TTHS 2003, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (người chưa thành niên) chỉ
áp dụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thực tiễn cho thấy
,quy định phạm vi áp dụng trên là chưa đầy đủ và cũng chưa tương thích với Cơng
ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên. Vì thế, việc thay đổi tên

1 Tr. 265, Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam

1


chương, BLTTHS đã mở rộng phạm vi áp dụng theo hướng mở rộng đối với cả
người bị hại và người làm chứng.
Ngoài ra, theo khoản 2, 3 Điều 419 BLTTHS thì phạm vi áp dụng thổ tục tố

tụng đối với người dưới 18 tuổi cịn có cả người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi tại thời điểm tại thời điểm áp dụng
các thủ tục này thì họ phải đang dưới 18 tuổi. Trường hợp ở thời điểm hành vi
phạm tội được thực hiện những người này dưới 18 tuổi nhưng khi tội phạm được
phát hiện, xử lý thì họ đã từ 18 tuổi trở lên thì cũng khơng áp dụng các thủ tục đặc
biệt này hoặc khi đang áp dụng thủ tục đối với những người dưới 18 tuổi mà họ từ
đủ 18 tuổi trở lên thì cũng khơng áp dụng các thủ tục tiếp theo đối với người dưới
18 tuổi nữa.
2. Cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18
tuổi trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi chưa phát triển
đầy đủ về thể chất , về sinh lý, tâm lý chưa ổn định, khả năng nhận thức cịn hạn
chế khi tham gia tố tụng hình sự với bất cứ tư cách nào thì họ đều có nguy cơ dễ bị
xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp hơn so với người đủ 18 tuổi.
Thứ hai, đối với người dưới 18 tuổi, đặc biệt người dưới 18 tuổi phạm tội,
chính sách của nhà nước đề cao yếu tố giáo dục, cải tạo, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, tạo điều kiện cần thiết giúp đỡ họ phát triển một cách lành mạnh.
Thứ ba, nhằm đảm bảo tính tương thích với Cơng ước của Liên hợp quốc vê
quyền trẻ em 2006. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em là văn kiện pháp
lý quốc tế quy định các quyền của trẻ em (người dưới 18 tuổi) nói chung. Điều 40
Cơng ước2 cũng u cầu các quốc gia thành viên phải thúc đẩy việc thành lập một
hệ thong tư pháp người chưa thành niên riêng và đặc biệt là ban hành các đạo luật
quy định trình tư, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp dụng riêng cho người chưa
thành niên vi phạm pháp luật.

2 Điều 40 Công ước về quyền trẻ em: “Các quốc gia thành viên công nhận quyền của mọi trẻ em bị coi là, bị tố cáo
hay bị công nhận là đã vi phạm pháp luật hình sự, được đối xử theo cách thức phù hợp với vệc cổ vũ ý thức trẻ em
về phẩm cách và phẩm giá nhằm tăng cường lịng tơn trọng của trẻ em đối với những quyền con người và tự do cơ
bản của người khác và cũng phải tính đến lứa tuổi của trẻ em và hướng tới thúc đẩy sử tái hòa nhập và việc đảm
đương một vai trò xây dựng của trẻ em trong xã hội.”


2


II. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục điều tra đối với
người dưới 18 tuổi
Ngoài những quy định chung , thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong
giai đoạn điều ta được quy định tại chương XXVIII BLTTHS 3. Đặc biệt, ngày
21/12/2018 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tào án nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ
Tư pháp, Bộ lao động thương binh và xã hội đã ban hành thông tư liên tịch số
06/2018 để hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham
gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (sau đây gọi tắt là TTLT số 06/2018). Thông tư đã
đưa ra những hướng dẫn cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động điều tra theo hướng thân
thiện với người dưới 18 tuổi.
1. Người tiến hành hoạt động điều tra
Như đã nhắc tới, đối với người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi địi hỏi
người tiến hành tố tụng nói chung và người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều
tra nói riêng phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố,
xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 t̉i, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. (Điều 415 BLTTHS). Cụ thể hơn
những quy định này, Điều 5 Thông tư 06/2018 quy định người được phân công tiến
hành hoạt động điều tra: Điều tra viên, Cán bộ Điều tra Kiểm sát viên khi được
phân công tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phải có ít nhất một trong
các điều kiện sau đây:
a) Có kinh nghiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi;
b) Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình
sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi;
c) Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối
với người dưới 18 tuổi.

Theo đó khi tiến hành điều tra, CQĐT cần phân cơng ĐTV hiểu biết về tâm lý
học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm
của người chưa thành niên. Quy định này phù hợp với u cầu chun mơn hóa
trong đội ngũ cán bộ tham gia q trình điều tra nói riêng áp dụng đối với người
3 Ðiều 413. Phạm vi áp dụng
Thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi được áp dụng theo quy
định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.

3


chưa thành niên quy định tại Quy tắc 6.3 Quy tắc Bắc Kinh 4 “Những người có thẩm
quyền quyết định phải đáp ứng các tiêu chuẩn đặc biệt hoặc được đào tạo đặc biệt
để thi hành nhiệm vụ một cách sáng suốt, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
họ.”
Những yêu cầu này nhằm đảm bảo rằng, ĐTV khi tiếp xúc với người dưới 18
tuổi sẽ có cách thức xử sự đúng mực, tâm lý, cảm thông với các em, tìm được
phương thức phù hợp để khơi gợi,thúc đẩy sự hợp tác của các em trong quá trình
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, thấu hiểu những diễn biến tâm sinh lý
của lứa tuổi dưới 18 (chưa thành niên) trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội
cũng như trong quá trình tố tụng, tìm ra giải pháp tốt nhất để người dưới 18 tuổi
không bị áp lực, có thể nhận thức lỗi lầm, cải tạo và hòa nhập cộng đồng.
2. Người tham gia tố tụng khác vì lợi ích của người dưới 18 tuổi
2.1. Người đại diện, nhà trường, tổ chức
Người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy cô giáo, đại diện nhà trường, đại
diện đoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động sinh
hoạt là môi trường quan trọng tác động lên họ. Như vậy, theo quy định của Điều
420 BLTTHS 2015 để góp phần giải quyết vụ án hình sự khách quan, tồn diện
đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên: thầy giáo,
cô giáo đại diện nhà trường, đại diện đoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới

18 tuổi học tập, lao động sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo
quyết định của CQĐT.
2.2. Người bào chữa
Bên cạnh việc tuân theo các quy định tại chương khác của BLTTHS nă 2015 về
đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội nói chung, xuất phát từ những đặc
điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên
BLTTHS 2015 đã có những quy định riêng về bào chữa dành cho người dưới 18
tuổi. Việc tham gia tố tụng của người bào chữa trong những vụ án có người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi là bắt buộc theo quy định tại Điều 75, Điều 76, Điều 422
BLTTHS 2015. Mọi trường hợp khơng có người bào chữa tham gia tố tụng, trừ
trường hợp cả họ và người đại diện từ chối người bào chữa là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng.
4 Quy tắc Bắc Kinh hay là Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động Tư pháp đối với người
chưa thành niên. Được thông qua theo Nghị quyết 40/33 ngày 29/11/1985 của Đại hội đồng Liên hợp quốc tại Bắc
Kinh, Trung Quốc.

4


Để đảm bảo quyền bào chữa của cá nhân, phù hợp với nguyên tắc “ Đảm bỏa
quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi” BLTTHS
2015 quy định Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm
thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện
đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ
luật này. Người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện của người bị buộc tội,
bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý. Người dưới 18 tuổi được quyền tự
mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Trường hợp người dười
18 tuổi khơng có người bào chữa thì CQĐT phải cử người bào chữa cho họ.
Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, ngoài ra, nếu
người dưới 18 tuổi bị bắt, bị tam giam, bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người

bào chữa tham gia tố tụng từ khi họ có mặt tại cơ quan điều tra hoặc từ khi có quyết
định tạm giữ
3. Các thủ tục đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
3.1. Những vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người dưới 18
tuổi
Căn cứ vào phạm vi áp dụng của thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
được quy định tại Điều 413, khi tiến hành điều tra vụ án hình sự đối với người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi, CQĐT cần xác định:
Những vấn đề có tính bắt buộc chung đối với các vụ án hình sự (Điều…)
Những tình tiết được quy định tại Điều 416 BLTTHS 2015: Tuổi, mức độ phát
triển về thể chất, tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người dười
18 tuổi; Điều kiện sinh sống và giáo dục; Có hay khơng có người đủ 18 tuổi trở lên
xúi giục; Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.
Thứ nhất, xác định tuổi của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
* Xác định tuổi của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
Vấn đề xác định tuổi đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi đóng vai
trị quan trọng vì nó liên quan đến năng lực chịu trách nhiệm hình sự của họ. Khi
CQĐT chỉ tiến hành ra quyết định khởi tố bị can đối với những người đã đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiệm trọng,

5


còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội Phạm
(Điều 12 Bộ luật hình sự).
Nếu đã đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thì người phạm tội bao nhiêu tuổi và
khi tiến hành điều tra đã đủ 18 tuổi hay chưa để xác định chính xác đường lối xử lý
theo quy định của Bộ luật hình sự cũng như thủ tục tố tụng đối với họ theo
BLTTHS.

Chỉ khi người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi mới được áp dụng các thủ tục
điều tra lại Chương XXVIII BLTTHS. Ngay cả trong trường hợp khi phạm tội là
người dưới 18 tuổi nhưng đến khi khởi tố lại là người từ đủ 18 tuổi trở lên thì cần
phải áp dụng tên là tục điều tra chung không được áp dụng thủ tục điều tra dành
cho người dưới 18 tuổi.
*Trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của bị can là người dưới 18 t̉i
Ngồi xác định tuổi của người bị buộc tội, CQĐT cịn phải xác định rõ trình độ
phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của bị
buộc tội. Việc làm rõ tình tiết này vừa có ý nghĩa trong việc định tội khi xác định
được chính xác lỗi của người dưới 18 tuổi vừa có ý nghĩa trong việc quyết định
hình phạt. Để xác định vấn đề này CQĐT có thể lấy lời khai của cha mẹ, giáo viên,
bạn bè của bị can là người dưới 18 tuổi, nhận xét của tổ dân phố, của tổ chức đoàn
thanh niên; các tài liệu y tế, kết luận giám định cũng hết sức cần thiết trong trường
hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức của bị can là người dưới 18 tuổi nên
nếu xét thấy cần thiết, CQĐT có thể yêu cầu sự hỗ trợ của các chuyên gia trong lĩnh
vực chuyên môn như: trưng cầu giám định khả năng nhận thức, năng lực hành vi
của bị can là người dưới 18 tuổi
Thứ hai, Điều kiện sinh sống và giáo dục
Việc tìm hiểu điều kiện sinh sống và giáo dục có ý nghĩa cho việc xác định một
số điểm liên quan đến thái độ tâm lý của người dưới 18 tuổi đối với hành vi phạm
tội do họ gây ra, các tình tiết thúc đẩy sự phạm tội và xác định khả năng giáo dục,
cải tạo. Hơn nữa, việc xác định điều kiện sinh sống và giáo dục của người dưới 18
tuổi tịn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm của người có nghĩa vụ quản lý,
giáo dục. Để làm rõ điều kiện sinh sống và giáo dục của bị can là người dưới 18
tuổi, điều tra viên cần chú ý thu thập những thông tin sau: điều kiện sống của gia
đình; thái độ của cha mẹ và ảnh hưởng của những người đã thành niên trong gia
6



đình đối với việc giáo dục, dạy dỗ người dưới 18 tuổi; môi trường sống của người
dưới 18 tuổi; điều kiện học tập, sinh hoạt trong nhà trường hoặc nơi cư trú.
Thứ ba, có hay khơng có người đủ 18 tuổi xúi giục
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 416 BLTTHS 2015 thì khi tiến hành tố tụng
đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, cơ quan điều tra làm rõ xem có sự
xui giục,lơi kéo của người thành niên hay khơng.Nếu có sự lơi kéo, xúi giục của
người thành niên thì trong quá trình giải quyết vụ án cần xem xét, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi, đồng thời xác định vai trò đồng phạm của
người dưới 18 tuổi trong vụ án
Thứ tư, nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Khi tiến hành hoạt động điều tra, CQĐT phải tìm ra nguyên nhân, điều kiện,
hồn cảnh phạm tội để có những biện pháp thích hợp và hiệu quả nhằm loại trừ
những yếu tố tiềm ẩn làm phát sinh tội phạm, tạo môi trường trong sạch, lành mạnh
để người dưới 18 tuổi phát triển.
3.2. Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi
Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người dưới 18 tuổi có ý nghĩa
quan trọng trong q trình giải quyết vụ án để có đường lối xử lý, truy cứu TNHS
như đã đề cập ở phía trên. Nếu như BLTTHS 20043 chưa quy định cụ thể về cách
xác định tuổi của người bị hại, người bị buộc tội dẫn đến trong nhiều trường hợp
khơng có căn cứ để xác định chính xác độ tuổi, gây khó khăn trong q trình tố
tụng. Để tháo gỡ những khó khăn đó, BLTTHS 2015 đã bổ sung điều luật 417 quy
định cụ thể cách xác định tuổi của NBBT, NBH dưới 18 tuổi.
Theo quy định tại TTLT số 06/2018, khi xác định tuổi của những người này cần
căn cứ vào một trong các loại giấy tờ: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng
minh nhân dân; Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu để làm rõ độ tuổi
của họ.
Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ xác định được khoảng độ tuổi của người
bị buộc tội, người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đã xác định
được để xác định tuổi của họ. Ví dụ: Kết luận giám định A có độ tuổi trong khoảng

từ 13 tuổi 6 tháng đến 14 tuổi 2 tháng thì xác định tuổi của A là 13 tuổi 6 tháng.

7


Như vậy, độ tuổi luôn là yếu tố phải được chứng minh và luôn được chứng
minh bằng các phương pháp khác nhau vì đây là căn cứ quan trọng nhất để xác
định việc có hay khơng việc áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt đối với NF18T trong
hoạt động điều tra vụ án hình sự.
3.3. Việc áp dụng các biện pháp giám sát, ngăn chặn
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can là NCTN
gây khó khăn cho việc điều tra hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, CQĐT trong phạm vi
thẩm quyền của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS có thể
áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong số các
biện pháp nói trên, ba biện pháp đầu là biện pháp ngăn chặn tước tự do, ba biện
pháp sau là biện pháp ngăn chặn không tước tự do của bị can là NCTN. Riêng đối
với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi BLTTHS còn quy định một biện pháp
đặc thù khơng tước tự do nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can theo giấy triệu tập
của cơ quan tiến hành tổ tụng, đó là biện pháp giám sát.
Thứ nhất, biện pháp giám sát
Theo Điều 419 BLTTHS 2015 thì: CQĐT có thể ra quyết định giao người chưa
thành niên phạm tội cho người đại diện của họ để bảo đảm sự có mặt của họ khi có
giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Thông thường với những vụ án đơn
giản thì CQĐT có thể áp dụng biện pháp này. Cha mẹ hoặc người đỡ đầu của người
bị buộc tội có thể đề nghị với CQĐT áp dụng biện pháp này hoặc CQĐT trực tiếp
áp dụng biện pháp này.Trong trường hợp NBBT khơng cịn cha mẹ, khơng có nơi
cư trú rõ ràng hoặc là người lang thang cơ nhỡ, khơng nơi nương tựa thì CQĐT đề
nghị CQLĐ-TBVXH hoặc Đoàn thanh niên,Hội phụ nữ ở nơi xảy ra tội phạm, nơi
bắt giữ hoặc nơi có thẩm quyền tiến hành giám sát người bị buộc tội là người dưới

18 tuổi.
Trước khi giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của
họ giám sát thì CQĐT cần xem xét:
 Tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, lứa tuổi, tình hình sức khỏe, tiền
án, tiền sự của người bị buộc tội.
 Khả năng giám sát giáo dục của cha mẹ, người đỡ đầu.
Trường hợp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có
hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối,cung cấp tài
8


liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản
liên quan đến vụ án; đe dọa; khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố
giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội thì
người giám sát phải kịp thời thơng báo cho CQĐT để có biện pháp ngăn chặn, xử lí
kịp thời.
Thứ hai, đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi thì CQĐT chỉ được
áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải trong trường hợp thật cần thiết.
Trước khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam,CQĐT cần xem
xét, cân nhắc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú theo các điều 121,122, 123 của BLTTHS. Các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ được áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối
với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng
biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả.
Thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai
phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại BLTTHS.
Khi khơng cịn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải
kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 của BLHS nếu

có căn cứ giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của
BLTTHS. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng , tội
đặc biệt nghiêm trọng nếu có căn cứ quy định tại các điều luật cụ thể của BLTTHS.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp bắt, tạm
giữ, tạm giam, người ra lệnh giữ, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam
người dưới 18 tuổi phải thông báo cho người đại diện của họ biết. Áp dụng biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi là nhằm đảm bảo
sự thống nhất giữa các quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên, vì lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên và đáp ứng các
chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết như Bộ quy tắc Bắc Kinh, Công
ước về quyền trẻ em 2006 (CRPD).

9


3.4. Lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
người bị tạm giữ, ngươi làm chứng, bị hại, hỏi cung bị can, đối chất.
Thứ nhất, quá trình lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng, hỏi cung bị can phải bảo
đảm sự tham gia người đại diện của họ hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp
Việc lấy lời khai người dưới 18 tuổi có thể thực hiện tại nơi học tập, lao động,
sinh hoạt của người đó hoặc nơi tiến hành điều tra. Trường hợp lấy lời khai tại nơi
tiến hành điều tra thì phải đảm bảo thân thiện, phù hợp với tâm lý người dưới 18
tuổi;
Trường hợp lấy lời khai của bị hại bị xâm hại tình dục thì ưu tiên lấy lời khai tại
nơi cư trú của người đó, nếu khơng có nơi cư trú thì phải tiến hành tại nơi chăm
sóc, giáo dục trẻ em theo quy định của pháp luật (Điều 14 TTLT 06/2018).
Thứ hai, về phối hợp giải quyết vụ án, vụ việc có người bị hại dưới 18 tuổi bị

xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán: Tại Điều 13 Thông tư liên tịch 06
quy định:Đối với vụ án, vụ việc có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị
bạo hành hoặc bị mua bán thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp chặt chẽ với nhau và phối hợp với cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan ngay từ khi phát hiện nguồn tin về tội
phạm; khẩn trương kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, bảo đảm giải quyết vụ án, vụ việc nhanh chóng, kịp thời, trong thời gian
ngắn nhất. Từ khi các Thơng tư nói trên được ban hành và có hiệu lực pháp luật, đã
kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án hình sự có liên
quan đến người dưới 18 tuổi, từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng giải quyết được nhanh chóng, kịp thời và chính xác đối với loại án
này.
Thứ ba, về thời gian lấy lời khai của người dưới 18 tuổi không quá hai lần
trong 01 ngày và mỗi lần khơng qá 02 giờ,trừ trường hợp vụ án có nhiều tình tiết
phức tạp. Thời gian hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi không quá 02 lần trong
01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp: Phạm tội có tổ chức; để truy
bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn; ngăn chặn người khác phạm tội; để truy tìm
cơng cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án; vụ án có nhiều tình
tiết phức tạp.
10


Khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với độ
tuổi, giới tính, khả năng nhận thức của họ; xem xét áp dụng các biện pháp phù hợp
nhằm giảm đến mức thấp nhất thời gian, số lượng lần lấy lời khai, hỏi cung và phải
tạm dừng ngay việc lấy lời khai, hỏi cung khi người dưới 18 tuổi có biểu hiện mệt
mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.
III. Thực tiễn áp dụng thủ tục điều tra đối với người dưới 18 tuổi và một
số kiến nghị hồn thiện

1. Một số hạn chế cịn tồn tại
1.1. Hạn chế từ phía người tiến hành tố tụng
Tuy nhiên hiện nay, đối với quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 06 về
Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với
vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi "Đã được đào tạo, tập huấn,
bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi"; và quy định "Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý
học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi" là những vấn đề cịn vướng
mắc, chúng tơi thấy rằng, nếu thực hiện đúng quy định của Thơng tư là khó, bởi lẽ:
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử hiện nay đối với vụ án có người tham gia tố tụng
là người dưới 18 tuổi thì kiến thức của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát
viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với vụ án có người tham gia tố tụng là người
dưới 18 tuổi, hiểu biết về tâm lý của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên,
Thẩm phán về những người dưới 18 tuổi còn chưa đồng đều, một phần do chưa
được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết, về tâm lý học, khoa học
giáo dục đối với người dưới 18 tuổi, trongcác vụ án hình sự có người tham gia tố
tụng là người dưới 18 tuổi, kinh nghiệm giải quyết loại án này của những người
tiến hành tố tụng chưa nhiều.
Đôi khi về ý thức trách nhiệm các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng còn chưa tích cực giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi. Chưa giải thích cho họ biết mình có quyền bào chữa, nhờ người
khác bào chữa và được bào chữa chỉ định theo quy định pháp luật làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
1.2. Hạn chế từ phía người bào chữa cho người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi
11


Người bào chữa thường khơng được đào tạo để có những hiểu biết cần thiết về tâm
lý học, khoa học giáo dục về tội phạm người dưới 18 tuổi hoặc khơng có kiến thức

và phương cách làm việc hiệu quả với người dưới 18 tuổi phạm tộiVới luật sự chỉ
định, thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện thuận lợi cho các
luật sự tham gia bào chữa, nhưng nhiều luật sư lại chưa đề cao trách nhiệm khi
tham gia tố tụng, miễn cưỡng tham gia cho có lệ. Vẫn cịn xảy ra tình trạng do nhận
thức việc bào chữa là theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng nên khơng có thái
độ tích cực, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án… Khi bào chữa cho người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi, người bào chữa đơi khi cịn hình thức, qua loa. Chưa coi
trọng việc bào chữa chỉ định và còn thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc bào
chữa, làm theo kiểu nghĩa vụ, phát biểu chung chung, không đi sâu vào việc đánh
giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án có lợi cho người bị buộc tội một cách cụ thể.
Hoặc có trường hợp người bào chữa chỉ định vơ trách nhiệm lấy lý do quá bận việc
mà chỉ gửi bản bào chữa chứ khơng tham dự phiên tịa hoặc có trường hợp có mặt
tại phiên tịa nhưng chỉ đơn thuần là thay mặt bị cáo dưới 18 tuổi xin giảm nhẹ án
chứ chưa thực sự bảo vệ quyền lợi cho các em…
Cịn có trường hợp, các đồn luật sư khi nhận được yêu cầu, đề nghị cử người bào
chữa chưa có thái độ tích cực hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng, cịn có tình
trạng chậm trễ trong việc cử người bào chữa, gây khơng ít khó khăn cho cơng tác
giải quyết vụ án của các cơ qua chức năng.
1.3. Hạn chế từ ý thức của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, đại
diện hợp pháp của họ, nhà trường và tổ chức.
Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi và đại điện hợp pháp của họ không hiểu
biết về quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa và quyền được bào chữa chỉ
định nên không thực hiện được quyền bào chữa của mình. Thậm chí do thiếu hiểu
biết và sợ mất tiền mà người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi và đại diện hợp pháp
của họ còn từ chối luật sư bào chữa gây khó khăn cho việc xét xử.
Đại diện nhà trường và tổ chức ít có mặt tại phiên tòa xét xử người dưới 18
tuổi phạm tội, vấn đề này có nhiều nguyên nhân khác nhau, có trường hợp Tịa án
khơng triệu tập họ đến tham gia phiên tịa nhưng cũng có trường hợp nhận được
giấy triệu tập của Tòa án nhưng các cơ quan này lại khơng quan tâm phối hợp với
Tịa án trên cơ sở pháp luật.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật
12


Thứ nhất , mặc dù tại Điều 415 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm một số
các chủ thể tiến hành tố tụng bằng cách sử dụng thuật ngữ Những người tiến hành
tố tụng thay cho quy định trong BLTTHS năm 2003 "Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán”. Người liên hành tố tụng bao gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chánh án, Phó Chánh Tịa án, Thẩm phán, Hội
thảm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên. Việc bổ sung chủ thể theo quy định của Điều
415 BLTTHS năm 2015 là chưa đầy đủ, khi giải quyết các vụ án có người chưa
thành niên , cịn có thể có sự tham gia của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Vì vậy,
kiến nghị sửa đổi Điều 415 BLTTHS năm 2015 như sau: “ Điều 415. Người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với vụ án
có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra,
truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi ... ”.
Thứ hai , Điều 419 BLTTHS năm 2015 dã quy định rất chặt chẽ và cụ thể về
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, với cách quy định về căn cứ áp dụng biện pháp
tạm giam đối với người dưới 18 tuổi sẽ gây khó khăn, vướng mắc cho Cơ quan tiến
hành tố tụng. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam trong trường hợp phạm tội nghiệm trọng cho cố ý,
tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu có căn quy định tại các điểm a,
b, c, d và khoản 2 Điều 119 hoặc phạm tội nghiêm trọng do vơ ý, tội ít nghiêm
trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội,bỏ
trốn, bị bắt theo quyết định truy nã. Như vậy BLHS năm 2015 cần được kiến nghĩa
sửa đổi “Đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng thì có thể bị bắt, tạm

giữa, tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”
Thứ ba , BLTTHS năm 2015 quy định thời gian lấy lời khai, hỏi cung không
được quá hai giờ trong một lần , không được quá hai lần trong một ngày là phù hợp.
Tuy nhiên, theo chúng tôi cần bổ sung quy định về khoảng thời gian giữa hai lần hỏi
cung, lấy lời khai nhằm tránh việc hỏi cung thông qua giờ trưa, bỏ đói người bị tạm
giữ, bị can (một hình thức nhục hình biến tướng), hoặc dù vẫn đảm bảo việc lấy lời
khai , hỏi cung hai lần trong một ngày nhưng thời gian quá sát nhau và hình thức
được thể hiện bằng biên bản lấy lời khai, hỏi cung. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm
13


trọng đến sức khỏe, tinh thần của người dưới 18 tuổi. Do đó, kiến nghị bổ sung
khoảng cách giữa hai lần hỏi cung, lấy lời khai để đảm bảo tính chặt chẽ.
Thứ tư, BLTTHS năm 2015 quy định việc bắt quả tang người dưới 18 tuổi
phạm tội theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 419 là rất khó thực hiện trên thực tế .
Bởi người có thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang rất khó để xác định tuổi
cũng như loại tội phạm tại thời điểm bắt người. Nếu chờ có đủ các căn cứ quy định
tại khoản 2, 3 Điều 419 thì quy định về việc bắt người dưới 18 tuổi phạm tội quả
tang sẽ mất đi ý nghĩa. Do đó, chúng tơi kiến nghị bỏ quy định về các điều kiện áp
dụng biện pháp bắt quả tang tại Điều 419 BLTTHS năm 2015.
KẾT LUẬN
Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Việt Nam sớm tham gia
Công ước về quyền trẻ em và thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ
quyền trẻ em, trong đó đặc biệt quan tâm đến đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật,
nhất là trường hợp người dưới 18 tuổi, hay còn gọi là người chưa thành niên phạm
tội. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội
chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ nhận ra và sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh để trở thành công dân có ích cho xã hội.
Đứng trước u cầu đổi mới, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành neien cần
tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đảm bảo việc xử lý người chưa thành

niên được khách quan, chính xác, nhân đạo hơn, thể hiện đúng đắn chính sách hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong tình hình mới.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Mạnh Hùng (chủ biên), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, Nxb
Lao Động , Hà Nội, năm 2018;
2. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2015;
3. Bộ luật hình sự của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017);
4. Thông tư số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP- BLĐTBXH ngày
21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
thủ tục đối với người dưới 18 tuổi;
5. Phạm Thanh Điền, “Thủ tục tố tụng khi xét xử người thành niên mà khi phạm tội
họ là người chưa thành niên”, Tạp chí tồ án nhân dân, số 4/2003, tr. 4;
6. />7. />8. />9. />10. />
15


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1

Bộ Luật tố tụng hình sự

BLTTHS

2


Thơng tư liên tịch

TTLT

3

Cơ quan điều tra

CQĐT

4

Điều tra viên

ĐTV

16



×