Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh an giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 175 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ MINH HẢI

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015


CƠNG TRÌNH ĐƯỢC HỒN THÀNH TẠI:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS TRƯƠNG VĂN CHUNG

Phản biện 1: ....................................................
Phản biện 2: ....................................................
Chủ tịch hội đồng: ...........................................
Thư ký hội đồng: ..............................................

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ tại
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, số 10 – 12 Đinh Tiên


Hoàng, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
vào lúc: ….giờ….ngày….tháng….năm 2015.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Minh Hải


DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Bình quân thu nhập đầu người ......................................................... 85
Bảng 2.2: Tỷ lệ thất nghiệp phân theo thành thị, nông thôn .............................. 85
Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu về chăm sóc sức khỏe .............................................. 86
Bảng 2.4: Số lượt khách du lịch tham gia lễ hội ở An Giang ............................ 94
Bảng 2.5: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá hiện hành ..............................109


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG VÀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH AN
GIANG ................................................................................................................. 11
1.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ................ 11
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của văn hóa ................................................ 11
1.1.2. Quan niệm về văn hóa truyền thống ............................................................. 25
1.2. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN
HÓA TRUYỀN THỐNG ...................................................................................... 31
1.2.1. Quan niệm về bảo tồn, phát huy văn hóa...................................................... 31
1.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống Việt
Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.......................................................... 34
1.3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA
TỈNH AN GIANG HIỆN NAY ............................................................................. 43
1.3.1. Khái quát về điều kiện địa lý - tự nhiên, kinh tế - văn hóa - xã hội ở tỉnh An
Giang .................................................................................................................... 43
1.3.2. Văn hóa truyền thống của tỉnh An Giang ..................................................... 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 78
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH AN GIANG
HIỆN NAY........................................................................................................... 80
2.1. THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Ở TỈNH AN GIANG HIỆN NAY ......................................................................... 80
2.1.1. Thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống ở tỉnh An
Giang .................................................................................................................... 80
2.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống ở tỉnh An Giang hiện nay................................... 109


2.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NHỮNG
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở AN GIANG HIỆN NAY ................. 119

2.2.1. Phương hướng bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh An Giang
hiện nay............................................................................................................... 119
2.2.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh An Giang hiện
nay ...................................................................................................................... 121
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 136
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 139
TRANG WEB THAM KHẢO .......................................................................... 145
PHỤ LỤC........................................................................................................... 146


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, văn hóa khơng chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho sự thúc đẩy
kinh tế - xã hội của từng quốc gia, dân tộc. Con người sáng tạo ra văn hóa
trong quá trình hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo văn hóa được kết tinh
trong chân – thiện – mỹ với tư cách là những giá trị cao nhất. Như vậy, văn
hóa khơng tự nhiên có, nó là cơng sức sáng tạo và bảo tồn của nhiều thế hệ,
qua nhiều thời đại. Trong mỗi dân tộc, truyền thống văn hóa được thể hiện
trong các giá trị, hệ giá trị được đúc kết trong thực tiễn. Các hệ giá trị này bộc
lộ rõ nét trong văn hóa truyền thống – những hoạt động văn hóa truyền thống
của cha ơng được lưu giữ như những ký ức lịch sử về tinh thần dân tộc.
Thông qua các hoạt động văn hóa truyền thống, chúng ta có thể hiểu rõ lịch
sử dân tộc, tâm thức cũng như sự sáng tạo trong từng giai đoạn nhất định. Vai
trị của văn hóa truyền thống khơng chỉ được hiểu như là một thơng điệp của
lịch sử văn hóa, mà nó cịn có giá trị như một sự cố kết cộng đồng tạo nên

sức mạnh dân tộc.
Văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam – là những giá trị đặc trưng,
bền vững, là tinh hoa của dân tộc Việt từ ngàn xưa được kết tinh từ những
đấu tranh gian khổ, những hy sinh dựng nước và giữa nước của dân tộc. Giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam thể hiện sâu sắc trong chủ
nghĩa yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, tính cộng đồng cao, tinh thần khoan
dung, nhân ái, cũng như năng lực thích nghi, ứng xử linh hoạt trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Truyền thống quý giá này không chỉ trở thành hệ giá
trị bền vững để tạo nên sức đề kháng trong q trình hội nhập quốc tế hiện
nay mà cịn thể hiện bản sắc của một dân tộc. Những giá trị văn hóa này qua


2

ngàn năm lịch sử vẫn trường tồn, lớn mạnh, phát triển và ngày càng đậm đà
bản sắc của người Việt.
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dạng, được thể hiện qua nền
văn hóa của 54 dân tộc anh em. Văn hóa truyền thống Việt Nam và tính đa
dạng của nó ngày càng được củng cố thơng qua sự tôn trọng và hiểu biết lẫn
nhau giữa các dân tộc anh em về phong tục tập quán, về truyền thống đạo
đức, về tín ngưỡng tơn giáo, về các loại hình nghệ thuật phong phú. Từ thơ
văn, âm nhạc, ca vũ, hội họa, điêu khắc, kiến trúc cho đến những đặc trưng
về trang phục, về ẩm thực, về cách ứng xử trong gia đình và ngồi xã hội, tất
cả đã tạo nên bức tranh mn màu của nền văn hóa Việt Nam.
Hiện nay, vai trị của văn hóa và văn hóa truyền thống đã được khẳng
định như một nhân tố nội sinh của sự phát triển đồng thời nó cũng có khả
năng điều tiết sự phát triển. Unesco từng khuyến cáo rằng, nước nào khơng
đặt văn hóa ở vị trí trung tâm của sự phát triển thì nhất định sẽ không tránh
khỏi những sai lầm nghiêm trọng, bởi lẽ giá trị văn hóa truyền thống chính là
gốc rễ, là nền tảng tinh thần của xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thơng qua đã xác định:
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân
văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển”.
Trong quá trình đổi mới ngày nay, việc hội nhập quốc tế trở nên ngày
càng sâu rộng và mạnh mẽ, vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống
dân tộc trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt, có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với việc phát triển của mỗi quốc gia dân tộc nói chung và Việt Nam


3

nói riêng. Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, nhiều dịng chảy văn hóa từ
phương Tây xâm nhập vào Việt Nam đã mang lại nhiều thuận lợi cũng khơng
ít khó khăn, thách thức. Xu thế tồn cầu hóa và hội nhập với sự phát triển khoa
học công nghệ phá vỡ mọi cái ngăn cách dân tộc. Một cuộc xâm nhập sâu rộng
về văn hóa từ nhiều nguồn đang diễn ra dưới rất nhiều hình thức thơng qua báo
chí, văn học, dịch thuật, đầu tư, xuất nhập khẩu, du lịch, giao lưu, hội thảo…
tác động mạnh mẽ vào tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thói quen, lẽ sống và cách
sống của cơng chúng. Tiếp biến văn hóa, xâm lăng văn hóa, bổ sung văn hóa,
đa dạng các nền văn hóa… là những vấn đề hiện hữu hàng ngày trên mọi lĩnh
vực đời sống chính trị, kinh tế - xã hội. Văn hóa truyền thống đang đối mặt với
những thách thức to lớn. Những giá trị quý báu của văn hóa truyền thống đã và
đang có những thay đổi. Một bộ phận thanh thiếu niên thờ ơ, xa lạ với văn hóa
truyền thống, thậm chí cịn chê bai lạc hậu, lỗi thời.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa bên cạnh mặt tích cực mang lại là thúc đẩy sự phát triển kinh tế

xã hội, tăng cường sự giao lưu về văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc nhưng
đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Đó là xu hướng chạy theo lối
sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, xem thường các giá trị văn hóa và các
giá trị đạo đức… Đứng trước điều kiện đó nhân dân ta vẫn giữ được những
giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp trong đời sống, giữ vững tinh thần đoàn
kết, cố kết trong cộng đồng. Những truyền thống tốt đẹp ấy cần được tơn
trọng và quan tâm gìn giữ, phát huy làm động lực để đẩy mạnh việc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Từ thực trạng này, vấn đề đặt ra là mỗi quốc
gia, dân tộc, nhỏ hơn nữa là từng địa phương, vùng miền phải tìm kiếm
những giải pháp để giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.
Nhận thức được tình hình đó, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ quan trọng
của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: “Trong điều kiện phát


4

triển kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế cần đặc biệt quan tâm giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” và coi đó vừa là nhiệm vụ văn hóa,
vừa là nhiệm vụ chính trị, là điều kiện tất yếu để hội nhập quốc tế, đồng thời
khẳng định hịa nhập chứ khơng hịa tan nền văn hóa Việt.
Ở An Giang cũng như các địa phương khác trên cả nước hiện nay đang
trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững
và hội nhập quốc tế. Với nét đặc trưng riêng, An Giang là vùng đất có nhiều
dân tộc sinh sống như: Kinh, Chăm, Hoa, Khmer đã tạo nên dấu ấn trong nền
văn hóa của mình, đó là tính da dạng trong các giá trị văn hóa mà ít vùng
miền có được. Tính đa dạng của các giá trị văn hóa truyền thống này được
thể hiện nhiều lĩnh vực như: lễ hội (lễ Rammada của người Chăm; lễ đua bò
Bảy núi, lễ Chol Chnam Thmay của người Khmer; lễ hội vía Bà Chúa Xứ
Núi Sam; lễ hội hát Gi của cộng đồng người Chăm theo đạo Hồi…), văn hóa
làng nghề truyền thống (làng dệt thổ cẩm Văn Giáo, nghề nấu đường thốt nốt

ở Tri Tôn; nghề dệt lụa ở Tân Châu với sản phẩm lụa nổi tiếng Lụa Mỹ A;
nghề mộc ở Chợ Thủ, Chợ Mới; nghề dệt thổ cẩm ở Châu Phong), du lịch
tính ngưỡng, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, di tích lịch sử văn hóa (văn
hóa Óc Eo, di tích lịch sử cách mạng Cột Dây Thép…. )
Với sự đa dạng văn hóa truyền thống ở An Giang đã tạo nên nét văn
hóa riêng, nhiều màu sắc do sự kết hợp văn hóa của 4 dân tộc anh em đang
sinh sống tại An Giang làm nên. Vì thế, việc gìn giữ và phát huy những giá
trị văn hóa đa dạng này là một vấn đề khơng thể thiếu đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở An Giang hiện nay.
Như vậy, vấn đề đặt ra cấp thiết ở An Giang hiện nay là làm thế nào để
giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống một cách có hiệu quả, góp phần
phát triển bền vững kinh tế - xã hội ở địa phương? Do đó, việc nghiên cứu
“Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh An Giang hiện nay” vừa


5

có ý nghĩa thiết thực, vừa cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn và đó cũng là lý
do tác giả chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề văn hóa, văn hóa truyền thống từ lâu đã được rất nhiều tổ chức,
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Để hồn
thành đề tài “Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh An Giang
hiện nay”, tác giả có kế thừa thành quả của một số cơng trình nghiên cứu đã có
nhằm mục đích làm rõ tính đa dạng các loại hình văn hóa truyền thống, vai trị
của văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa truyền thống ở An Giang nói
riêng để có những giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy nền văn hóa truyền
thống ở tỉnh An Giang hiện nay, tập trung ở những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất: Vấn đề lý luận về văn hóa, vùng văn hóa và hệ giá trị
văn hóa


- Cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của GS.Phan Ngọc, Nxb Văn học
(2006) tác giả tập trung phân tích sâu sắc bản sắc văn hóa Việt Nam, đề xuất
những giải pháp để bảo vệ bản sắc văn hóa Việt Nam trong quá trình hội
nhập và giao lưu quốc tế.
- Cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, Nxb
Tp.Hồ Chí Minh (1997) là một bức tranh tổng quan về văn hóa được trình
bày mạch lạc, rõ ràng. Đó là cấu trúc văn hóa với những đặc trưng và chức
năng, các loại hình văn hóa để từ đó xác định con đường phát triển của văn
hóa Việt Nam; trong đó tác giả tập trung nghiên cứu nhiều lĩnh vực như: văn
hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử của người Việt
với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội…
- Bên cạnh đó, cịn có những cơng trình nghiên quan trọng về văn hóa,
hệ giá trị văn hóa khác như: Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
đậm đà bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Nxb Chính trị


6

quốc gia, Hà Nội (2001); Bản sắc văn hóa hành trang của mỗi dân tộc của
Vy Trọng Toán, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội (2005); Tìm về bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
(1997); Văn hóa và phát triển từ lý luận đến thực tiễn của Phạm Ngọc Trung,
Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội (2011)….
Thứ hai: Vùng văn hóa Tây Nam Bộ và văn hóa An Giang
- Cuốn “Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ” của Trần Ngọc Thêm
(chủ biên), Nxb Văn Hóa Văn Nghệ (2013). Đây là một cuốn sách hay viết về
Tây Nam Bộ, một vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển đặc biệt, con
người đặc biệt, vai trị và sự đóng góp cho sự phát triển của đất nước cũng
đặc biệt. Cuốn sách như là một bức tranh tổng quan về những nét tính cách

văn hóa truyền thống đặc trưng của người Việt ở vùng Tây Nam Bộ, từ đó
giúp chúng ta hiểu rõ hơn đồng thời cũng góp phần bảo tồn và phát triển văn
hóa dân tộc trong q trình hội nhập.
- Cuốn “Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ thực trạng và những vấn đề
đặt ra” của Trần Văn Bính (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia (2004) đã đánh
giá, phân tích tương đối tồn diện, khách quan về thực trạng đời sống văn hóa
các dân tộc ở Tây Nam Bộ trong công cuộc đổi mới; đồng thời dự báo xu
hướng, đề xuất các giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm tiếp tục phát
triển đời sống văn hóa các dân tộc trên địa bàn dưới tác động của q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Cuốn “Ấn tượng văn hóa đồng bằng Nam bộ” của Huỳnh Cơng Tín,
Nxb Chính trị quốc gia (2012) đã nêu bật được đặc trưng văn hóa của người
Nam Bộ nói chung trong đó có An Giang nói riêng, trong q trình lao động
sản xuất, sinh hoạt văn hóa, phong tục tập quán….
- Cuốn “An Giang văn hóa một vùng đất” của Nguyễn Hữu Hiệp, Nxb
Văn hóa Thơng tin (2003) ghi lại một cách khái quát những giá trị văn hóa


7

mà các thế hệ tiền nhân đã dày cơng hồn thiện trong điều kiện phải chiến
đấu, lao động và vật lộn với vô vàng gian nan để vừa sinh tồn, vừa chắc chiu
gìn giữ hầu chuyển giao lại cho chúng ta thừa hưởng, để biết tự hào và có ý
thức gìn giữ nét văn hóa truyền thống q báu.
- Cuốn “An Giang đơi nét văn hóa đặc trưng vùng đất bán sơn địa”
của Nguyễn Hữu Hiệp, Nxb Phương Đông (2007) đã khái quát đôi nét về lịch
sử đất và người An Giang, về sinh hoạt đời sống của người dân An Giang,
văn hóa văn nghệ, văn hóa tâm linh…đến cả tình cảm và nếp nghĩ của người
dân An Giang qua lời ăn tiếng nói, ca dao dân ca….
Bên cạnh đó cũng có một số luận văn thạc sĩ phản ánh những góc riêng

biệt nền văn hóa An Giang như: Luận văn thạc sĩ của Hà Thị Kim Chi
(2012): Hình tượng nữ trong văn hóa Ĩc Eo và hậu Ĩc Eo, Luận văn thạc sĩ
của Phạm Đình Chương (2009): Văn hố tổ chức cộng đồng giáo dân vùng
Cái Sắn, Luận văn thạc sĩ của Trần Trọng Lễ (2011): Đời sống cư dân vùng
tứ giác Long Xun từ góc nhìn văn hố học, Phan Nguyễn Yên Hà (2012):
Kinh Vĩnh Tế từ góc nhìn văn hóa, Nguyễn Phước Hiền: Lễ hội Bà chúa xứ
Núi Sam…đã tạo nên tổng hịa một nền văn hóa truyền thống đa dạng, đầy
màu sắc của người An Giang.
Thứ ba: Văn hóa truyền thống, những vấn đề bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống
- Cuốn “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của
GS.Trần Văn Giàu (1993) là cái nhìn bao quát, tập trung giới thiệu và khẳng
định những giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc ta trong suốt mấy ngàn năm
dựng nước và giữ nước.
- Cuốn “Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa” của GS.VS
Hồng Trinh, Nxb Chính trị quốc gia (2000) phân tích rõ nét nền văn hóa
Việt Nam mà chúng ta đang chủ trương xây dựng mang yếu tố cốt lõi là vừa


8

tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Hai yếu tố này phải gắn kết và bổ sung
cho nhau, hiện đại hóa chỉ có thể thành cơng nếu bản sắc dân tộc được coi
trọng như một động lực, đồng thời bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc cũng
chỉ có thể được phát huy trong một đất nước hiện đại hóa.
- Cuốn: “Văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại” của Lê Huy Hịa
– Hồng Đức Nhuận (Tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Văn Hóa (2000) là tập
hợp những bài viết, bài nghiên cứu của các tác giả nổi tiếng trong và ngồi
nước xoay quanh chủ đề chính: Văn hóa là gì? Làm sao để ứng dụng được
các giá trị văn hóa truyền thống vào cơng cuộc phát triển văn minh thời đại

mới. Cuốn sách cũng góp phần làm rõ những đặc trưng của văn hóa Việt
Nam thơng qua các hướng tiếp cận khác nhau như: lịch sử, văn học, tơn giáo,
lễ hội…Qua đó cũng cho chúng ta thấy: ở khía cạnh này văn hóa là kết tinh
của văn minh, ở khía cạnh khác nó là khởi điểm của các nền văn minh lớn.
- Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu khác như: cuốn “Tìm
hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của Nguyễn Trọng Chuẩn – Phạm Văn Đức – Hồ Sĩ Quý (chủ biên),
Nxb Chính trị Quốc gia (2002); cuốn “Giá trị truyền thống trước những
thách thức của tồn cầu hóa” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Nxb Chính trị quốc
gia (2002); cuốn “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay”
của Phan Huy Lê – Vũ Minh Giang (chủ biên), đây là cơng trình nghiên cứu
khoa học cấp nhà nước năm 1994.
Thứ tư: Chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung và của Đảng
bộ An Giang nói riêng về văn hóa, văn hóa truyền thống; bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống
- Các cơng trình nghiên cứu về chính sách của Đảng và nhà nước nói
chung được thể hiện trong các cơng tŕnh nghiên cứu như: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam (1998) của nhiều tác giả; Giáo trình lý


9

luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng của Trần Văn Bính (chủ biên),
Nxb Chính trị Quốc gia (2000); Giáo trình lý luận văn hóa của Phạm Ngọc
Trung (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội (2012)….
- Riêng đối với tỉnh An Giang, để bảo tồn và phát huy văn hóa truyền
thống, tỉnh cũng đã ban hành nhiều quyết định, kế hoạch, đề án như: Quyết
định số 449/QĐ-UBND ngày 16/3/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
về việc Ban hành Đề án “Trùng tu, tôn tạo, phát huy tác dụng và quản lý di
tích lịch sử - văn hóa xếp hạng cấp tỉnh giai đoạn 2011-2020” triển khai các

dự án cấp quốc gia đầu tư mở rộng, tơn tạo các di tích đặc biệt như Khu lưu
niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng, khu di tích văn hóa Ĩc Eo – Ba Thê, Nhà mồ
Ba Chúc; Quyết định số 38/2012/QĐ-UBND ngày 11/10/2012 về phân cấp
quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên
địa bàn tỉnh An Giang. Bên cạnh đó, tỉnh cũng ra Chỉ thị 03/CT-UBND ngày
13/4/2012 của UBND tỉnh An Giang về tăng cường bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa Ĩc Eo…
Các cơng trình nghiên cứu này tuy chỉ là những mảng nhỏ trong cả nền
văn hóa truyền thống ở An Giang nhưng nó đã phản ánh rõ nét tính đặc trưng
làm nên một nền văn hóa đa dạng và đầy màu sắc ở An Giang nói riêng và cả
nước nói chung.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Từ góc độ triết học, mục đích của luận văn nhằm tìm hiểu
một số quan điểm triết học về văn hóa, văn hóa truyền thống và văn hóa
truyền thống của tỉnh An Giang để góp phần bảo tồn và phát huy nền văn hóa
truyền thống.
Nhiệm vụ: Với yêu cầu của một luận văn thạc sĩ triết học, tác giả tiếp
cận về văn hóa dưới góc độ triết học, do đó nhiệm vụ của luận văn là: Tìm
hiểu quan niệm, bản chất và vai trị của văn hóa và văn hóa truyền thống. Mối


10

quan hệ biện chứng giữa bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống. Phân
tích, làm rõ thực trạng mối quan hệ biện chứng giữa bảo tồn và phát huy văn
hóa truyền thống ở tỉnh An giang; các quan điểm của Đảng, Nhà nước và địa
phương về vấn đề này và từ đó đưa ra những giải pháp để góp phần bảo tồn
và phát huy văn hóa truyền thống ở An Giang hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống ở tỉnh An Giang từ khi thành lập tỉnh An Giang đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin; phương pháp nghiên cứu văn hóa như phương pháp văn
bản học, phương pháp điền dã, phương pháp phỏng vấn sâu. Đồng thời tác
giả cũng sử dụng các phương pháp hỗ trợ như: phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp diễn dịch – quy nạp, phương
pháp so sánh, đối chiếu…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trong quá trình đổi mới và hội nhập ở nước ta hiện nay nói chung và ở
tỉnh An Giang nói riêng thì việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa cả về lý
luận lẫn thực tiễn trong việc “bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của
dân tộc” theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta cũng như những chủ
trương của tỉnh An Giang nói riêng.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và
giảng dạy triết học văn hóa, các chuyên đề văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập ngày nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Phần kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.


11

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Ở TỈNH AN GIANG
1.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm và vai trị của văn hóa
Từ khi lồi người xuất hiện cho đến ngày nay, văn hóa ln là nền tảng

vật chất và tinh thần của xã hội, của dân tộc. Văn hóa dường như là cái gì đó
lớn lao, trừu tượng, ngời sáng trong lịch sử mỗi dân tộc, cũng lại là cái rất
gần gũi, cụ thể, thấm vào máu thịt mỗi con người. Do vậy, văn hóa đã trở
thành một chủ đề hấp dẫn, thu hút sự nghiên cứu, tìm tịi của nhiều đối tượng.
Trong tiếng Việt, văn hóa là một danh từ có nội hàm khá rộng và phức tạp.
Người ta có thể hiểu văn hóa như là một hoạt động sáng tạo của con người,
nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như lối sống, thái độ ứng xử, lại cũng có thể
hiểu văn hóa như trình độ học vấn mà mỗi công nhân viên chức vẫn ghi trong
lý lịch cơng chức của mình, cịn theo nghĩa chun biệt để chỉ trình độ văn
minh của một giai đoạn lịch sử nhất định.
Trên thực tế có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa. Theo lời
Ths. Bùi Văn Vượng: “Trong cuốn sách Culture a critical review of concepts
and definitions (Văn hóa – tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa)
của A. Kroeber và C. Kluckhohn, hai nhà nhân học Mỹ, xuất bản năm 1952,
đã trích dẫn và phân tích 164 định nghĩa về văn hóa. Nhưng chỉ đến lần xuất
bản thứ hai của cuốn sách này, số định nghĩa về văn hóa đã tăng lên đến
200. Cịn hiện nay thì số lượng định nghĩa văn hóa khó mà biết chính xác là
bao nhiêu” [61, 17].
Sở dĩ có nhiều định nghĩa văn hóa là vì văn hóa là một lĩnh vực rộng
lớn, rất phong phú và phức tạp, do đó khái niệm văn hóa cũng đa nghĩa. Khi


12

đề cập đến nó mỗi người có một cách hiểu riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp
cận của họ. Ngành văn hóa cũng giống như tất cả các ngành khoa học xã hội
khác, ngành văn hóa học có lịch sử phát sinh và phát triển lâu dài trong lịch
sử loài người. Trong q trình lịch sử đó nội dung của khái niệm văn hóa
cũng thay đổi theo.
Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ phương Tây cũng như

phương Đông như vậy, nhưng phải đến thế kỉ XVIII, từ văn hóa mới được
đưa vào khoa học, sử dụng như thuật ngữ khoa học. Năm 1774, từ này mới
được xuất hiện trong thư tịch và ghi vào từ điển năm 1783 ở Đức. Có thể
nói người đầu tiên sử dụng từ văn hóa trong khoa học là Pufendorf, người
Đức. Theo ơng, văn hóa là tồn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã
hội, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Sau ông, nhà triết học
Herder (1744 -1803) có quan điểm khác hơn: “Văn hóa là sự hình thành thứ
hai của con người” [33, 14].
Đến năm 1885, khi Klemm cơng bố cơng trình khoa học chung về văn
hóa thì người ta mới coi khoa học về văn hóa hình thành và thực sự phát
triển. Năm 1871, E.B.Tylor cơng bố cơng trình Vãn hóa ngun thủy ở Ln
Đơn. Lúc này, ngành khoa học về văn hóa mới chính thức được khẳng định,
bởi E.B.Tylor đã xác lập được đối tượng nghiên cứu của ngành văn hóa học.
Trên cơ sở này, E.B.Tylor đã đề xuất một định nghĩa đầu tiên về văn hóa và
khá nổi tiếng: “Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ phức thể bao gồm
hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và những
khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành
viên của xã hội” [20, 19].
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề văn hóa, nhưng cách
hiểu phổ biến nhất là coi văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này
khác dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất đến tín ngưỡng,


13

phong tục, tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu này đã được cộng đồng
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên minh chính phủ về các chính sách văn hóa
họp năm 1970 tại Venise. Theo quan điểm của Unesco thì “văn hóa” được hiểu
theo nghĩa rộng là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã hội
thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, văn hóa bắt nguồn từ lao
động. Vấn đề về văn hóa được Các Mác trình bày trong các tác phẩm chủ yếu
như: Hệ tư tưởng Đức (1844), Bộ Tư bản, Nguồn gốc gia đình và chế độ tư
hữu của nhà nước (1884)… Ông viết: “Chúng ta buộc phải bắt đầu bằng việc
xác định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề
của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm
ra lịch sử”. Nhưng trước hết muốn sống được thì phải có thức ăn, thức uống,
nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa.. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là
việc sản xuất trong những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất
ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều
kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như hàng ngàn năm về trước)
người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống của
con người” [46, 39-40].
Từ đây, Mác cho rằng, khởi điểm của hành vi lịch sử đầu tiên là văn
hóa. Văn hóa như là sự thăng hoa của quá trình sản xuất vật chất, là cái để con
người khẳng định mình. Và do vậy, bản chất con người luôn sáng tạo theo quy
luật của cái đẹp. Mác viết: “Con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu cầu
của lồi của nó, cịn con người thì có thể sản xuất theo kích thước của bất cứ
loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng;
do đó con người cũng xây dựng theo các quy luật của cái đẹp” [47,137].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lỗi lạc, Người đặc biệt quan tâm đến
văn hóa và cũng đã đưa ra khái niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục


14

đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những cơng cụ
sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi

phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu và địi hỏi của sự sinh tồn” [49,431].
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm: văn hóa khơng chỉ bao
gồm kết quả của sự sáng tạo mà còn là phương thức sử dụng những thành quả
đó. Người cho rằng: “văn hóa là kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng
của xã hội có kiến thiết rồi văn hóa mới phát triển” [26, 6]. Người cịn nói,
văn hóa khơng thể đứng ở ngồi mà phải ở trong kinh tế và chính trị: “Văn
hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngồi, mà
phải ở trong kinh tế và chính trị” [51,368-369].
Năm 1994, Unesco đã nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò của văn hóa: “Đó
chính là một phức thể - tổng thể các đặc trưng – diện mạo về tinh thần, vật
chất, ý thức và tình cảm khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình,
xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa khơng chỉ bao gồm nghệ
thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…” [73, 47].
Với tư cách là một Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp
quốc, Unesco đã phát triển định nghĩa chính thức về văn hóa trong các cơng
ước quốc tế, với nỗ lực phổ quát hóa cách hiểu về văn hóa một cách chung
nhất trên toàn cầu. Trong Tuyên bố Toàn cầu về Đa dạng văn hóa của Unesco
năm 2001, văn hóa được định nghĩa là “tập hợp những đặc trưng về tinh
thần, vật chất, trí tuệ và xúc cảm của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội. Văn hóa chứa đựng, bên cạnh nghệ thuật và văn chương, cả
cách sống, phương thức chung sống, các hệ thống giá trị, các tập tục và tín


15

ngưỡng”. Như vậy, theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả những yếu tố cấu
thành nên đời sống con người. Văn hóa khơng chỉ hàm ý ám chỉ đời sống tinh
thần, văn hóa nghệ thuật, sinh hoạt tâm linh, tơn giáo. Văn hóa cịn chính là

sự ứng xử của con người với thiên nhiên, con người với con người và với
cộng đồng rộng lớn. Văn hóa là phương thức con người thể hiện những tri
thức bản địa đã được đúc kết qua nhiều thế hệ, và những phương thức sinh kế
để con người tồn tại và phát triển. Là sản phẩm do con người tạo ra, được
hình thành và ni dưỡng cùng với q trình sống của lồi người, và đến lượt
nó, văn hóa lại chi phối, quyết định sự tồn tại, bản sắc và sự phát triển bền
vững của một cộng đồng người, của một dân tộc. Hệ giá trị của nó là những
giá trị tinh thần cốt lõi, được thể hiện thành bản sắc văn hóa của một dân tộc,
một vùng, một miền văn hóa.
Nhìn chung, mọi định nghĩa đều thống nhất văn hóa có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn hóa là sáng tạo của con người, thuộc về con người,
những gì khơng do con người làm nên khơng thuộc về khái niệm văn hóa. Từ
đó, văn hóa là đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời
cũng là tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên.
Thứ hai, văn hóa xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và có ý
thức của con người với tự nhiên nên văn hóa cũng là kết quả của sự thích
nghi ấy. Sự thích nghi này là sự thích nghi có ý thức và chủ động nên nó
khơng phải là sự thích nghi máy móc mà thường là sự thích nghi có sáng tạo,
phù hợp với giá trị chân – thiện – mỹ.
Thứ ba, văn hóa bao gồm văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất chứ
khơng chỉ là văn hóa tinh thần hay văn hóa nghệ thuật, văn học nghệ thuật chỉ
là bộ phận cao nhất trong lĩnh vực văn hóa mà thơi.
Thứ tư, văn hóa gắn liền với đời sống xã hội và xã hội nào cũng có một
nền văn hóa riêng của mình. Văn hóa được lưu truyền và phát triển từ thế hệ


16

này sang thế hệ khác (kế thừa).
Các loại hình văn hóa và vai trị của văn hóa đối với đời sống xã hội

Muốn xác định văn hóa như một tiêu chí của một dân tộc trước hết phải
nghiên cứu tổng hợp những yếu tố của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Con người có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu
tinh thần, do vậy, con người cũng có hai loại hoạt động cơ bản là sản xuất vật
chất và sản xuất tinh thần. Từ đó, văn hóa như một hệ thống thường được
chia làm hai dạng: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất bao gồm những “sản phẩm” sáng tạo của con người
được lưu truyền, thể hiện dưới dạng vật chất như các cơng trình nghệ thuật
điêu khắc, kiến trúc, các văn vật và rộng hơn nữa là các môi trường tự nhiên
đã được con người tác động, cải tạo, ghi dấu ấn “xã hội” của con người “lịch
sử cụ thể” vào đó, những mối quan hệ xã hội và quan hệ ứng xử, tổ chức con
người xã hội.
Văn hóa vật chất bao gồm tồn bộ những sản phẩm do hoạt động sản
xuất vật chất của con người tạo ra: đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt
hàng ngày, công cụ sản xuất, phương tiện đi lại…
Văn hóa tinh thần theo nghĩa hẹp, khái niệm này gắn liền với đời sống
tín ngưỡng tơn giáo của con người, nó thể hiện các lý tưởng, tri thức, các giá
trị tâm linh và đảm bảo cho mối liên hệ của con người với Thượng đế. Theo
nghĩa rộng, khái niệm văn hóa tinh thần được hiểu như là tổng thể kinh
nghiệm tinh thần của nhân loại là hoạt động trí óc và các kết quả của nó nhằm
đảm bảo sự phát triển của con người với tư cách là một thực thể có văn hóa.
Nó bao gồm các giá trị như nghệ thuật, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lối
sống, nghi lễ, pháp luật, khoa học, kỹ thuật…
Những giá trị này luôn được sự lựa chọn, sàng lọc và là những tinh
hoa văn hóa được lưu truyền, được phát triển trong các thời kỳ lịch sử khác


17

nhau của từng quốc gia, dân tộc, được xem là truyền thống, là di sản văn

hóa đích thực, được xem như là khuôn mẫu của các mặt khác nhau trong đời
sống xã hội.
Văn hóa tinh thần bao gồm tồn bộ những sản phẩm do hoạt động sản
xuất tinh thần của con người tạo ra: tư tưởng, tín ngưỡng - tơn giáo, nghệ
thuật, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương…
Trong thực tế, văn hóa vật chất và tinh thần ln gắn bó mật thiết với
nhau và có thể chuyển hóa cho nhau, khơng phải ngẫu nhiên mà Mác nói
rằng tư tưởng sẽ trở thành những lực lượng vật chất khi nó được quần chúng
hiểu rõ. Bởi vậy mà tuỳ theo những mục đích khác nhau, việc phân biệt văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần sẽ phải dựa vào những tiêu chí khác nhau.
Với mục đích thực tế là phân loại các đối tượng văn hóa thì việc phân
biệt văn hóa vật chất và tinh thần chỉ có thể thực hiện một cách tương đối căn
cứ vào “mức độ” vật chất/tinh thần của đối tượng văn hóa. Trong trường hợp
này, có thể dùng khái niệm “mục đích sử dụng” làm tiêu chí bổ trợ: những
sản phẩm làm ra trước hết để phục vụ cho các nhu cầu vật chất của con người
thì dù có giá trị nghệ thuật cao đến mấy đi nữa thì nó vẫn thuộc dạng văn hóa
vật chất; cịn những sản phẩm làm ra trước hết để phục vụ cho các nhu cầu
tinh thần thì dù được vật chất hóa.
Cịn với mục đích phân loại các giá trị, làm rõ bản chất của chúng, đưa
ra một bức tranh khoa học về văn hóa vật chất và tinh thần thì có thể dựa hẳn
vào chất liệu để phân biệt: theo đó, văn hóa vật chất liên quan đến sự biến đổi
mang tính sáng tạo thiên nhiên quanh mình thành những sản phẩm có dạng
chất liệu vật thể; cịn văn hóa tinh thần thì chỉ liên quan đến sự biến đổi thế
giới bên trong, thế giới tâm hồn của con người, sản phẩm của nó là tư tưởng
thuần tuý, “phi vật thể”. Với cách này, cùng một đối tượng có thể vừa có
phần giá trị vật chất, vừa có phần giá trị tinh thần của nó.


18


Riêng về các hoạt động thì, thơng thường, người ta xếp hoạt động sản
xuất vật chất vào dạng văn hóa vật chất (vì loại hoạt động này phải sử dụng
nhiều năng lực cơ bắp, mồ hơi…), cịn hoạt động sản xuất tinh thần được xếp
vào văn hóa tinh thần (vì loại hoạt động này chủ yếu sử dụng năng lực trí tuệ).
Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần vốn được con người sáng tạo ra
nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao trong cuộc sống của mình. Nhưng
sau khi đã gia nhập và trở thành một phần khơng thể thiếu được trong đời
sống xã hội, thì các hình thái này khơng ngừng tác động trở lại và chi phối
cuộc sống của chính những người đã sản sinh ra chúng.
Văn hóa của một dân tộc là tất cả những cái gì mà dân tộc đó đã sáng
tạo hay tiếp biến của dân tộc khác trong quá trình lịch sử, được truyền lại từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Từ đó các dân tộc mới chọn lọc những yếu tố gì
được coi là thiêng liêng, là đặc trưng để phân biệt bản thân dân tộc mình với
dân tộc khác. “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
dân tộc khác” (UNESCO). Hay nói khác, văn hóa mang bản sắc dân tộc. Bản
sắc dân tộc biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của nó,
giúp cho dân tộc đó giữ được tính duy nhất (tính độc đáo), tính thống nhất,
tính nhất qn so với bản thân mình. Bản sắc văn hóa dân tộc là những nét
văn hóa đặc trưng của dân tộc ấy, đó là những giá trị văn hóa đích thực đã
được chọn lọc, duy trì và phát triển được xem là tinh hoa của nền văn hóa dân
tộc. Mặt khác, những giá trị có tính chất tổng quát của các giá trị văn hóa
(của các dân tộc khác, của nhân loại) được lựa chọn, tiếp thu vào nội dung
văn hóa của từng quốc gia dân tộc, trong mối giao lưu, thông qua quan hệ
quốc tế, đa dạng, phức hợp, nhằm làm phong phú, làm giàu thêm vốn văn hóa
của từng dân tộc trong sự phát triển chung.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong sinh hoạt đời sống văn hóa hàng ngày,
nó là các giá trị văn hóa đã trở thành biểu tượng sâu sắc in đậm trong tình


19


cảm, trong tư tưởng của dân tộc đó. Đó là những giá trị văn hóa được tồn thể
dân tộc chấp nhận như của bản thân như: trang phục, nhà cửa, cơng trình kiến
trúc, văn học nghệ thuật, lễ hội, tín ngưỡng, tơn giáo… Những giá trị văn hóa
tốt đẹp ấy trường tồn trong lịch sử và trở thành truyền thống văn hóa của dân
tộc, đó là những gì tạo nên lòng tự hào riêng của dân tộc, tạo nên bản sắc của
dân tộc đó.
Vai trị của văn hóa đối với đời sống xã hội:
Thứ nhất: Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội. Đây là vai trò quan
trọng nhất của văn hóa.
Quan niệm văn hóa là nền tảng tinh thần có từ Nghị quyết Trung ương
4 ngày 14/1/1993 (khóa VII). Đây là lần đầu tiên Đảng ta ra một Nghị quyết
riêng về văn hóa. Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII và Nghị quyết Trung ương 5
(Khóa VIII) đã nhắc lại. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban
hành Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Nghị quyết xác định: văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trị
quan trọng. Theo đó, văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, là nền tảng tinh thần
của xã hội. Đây là một quan điểm quan trọng của Đảng ta về văn hóa, nằm
trong quan điểm đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy. Quan điểm này chỉ rõ
vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, văn hóa thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát triển và bản lĩnh của
một dân tộc. Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế,
chính trị. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn
hóa. Trong mỗi chính sách kinh tế - xã hội luôn bao hàm nội dung và mục



×