Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Vấn đề bảo tồn và phát huy văn hoá Đông Nam Bộ trên các chương trình truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 140 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

…………*……………



ĐINH DUY HẢO




VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA ĐÔNG NAM

BỘ TRÊN CÁC CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH

(Khảo sát trên các chƣơng trình của Đài Phát thanh Truyền hình Đồng Nai từ
2002 đến năm 2005)






LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC










TP. HỒ CHÍ MINH 2006



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


2
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

…………*……………


ĐINH DUY HẢO


VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA ĐÔNG
NAM

BỘ TRÊN CÁC CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH

(Khảo sát trên các chƣơng trình của Đài Phát thanh Truyền hình Đồng Nai từ
2002 đến năm 2005)





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ : 60. 32.01



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS Báo chí: Tạ Bích Loan




TP. HỒ CHÍ MINH 2006










131
MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG MỘT:VĂN HOÁ MIỀN ĐÔNG NAM BỘ TRONG
NỀN TẢNG VĂN HOÁ
VIỆT NAM
I/ Khái niệm về văn hoá:
I.1/ Một số khái niệm:
I.1.1/ Những định nghĩa về văn hóa: 12
I.1.2/ Bản sắc văn hoá dân tộc: 14
I.2/ Khái niệm về văn hoá Việt Nam: 17
I.2.1/ Khái niệm:
I.2.2/ Chủ thể của văn hóa Việt nam: 20
I 3/ Sự giao lƣu của các vùng miền văn hoá: 23
I.3.1/ Sự giao lƣu văn hoá từ phƣơng Bắc: 25
I.3.2/ Sự giao lƣu văn hoá Ấn độ: 26
I.3.3 / Sự giao lƣu Văn hóa Phƣơng Tây: 27
I.4/ Thời kỳ xác lập bản sắc văn hóa Việt Nam: 28
I.4.1/ Nền văn hóa Đông sơn xác lập bản sắc văn hóa VN: 29
I.4.2/ Nền văn hóa Sa Hùynh: 30
I.4.3/ Nền văn hóa Đồng Nai: 31
I.5/ Nét đặc sắc văn hóa Nam bộ: 32
I.6/ Văn hóa miền Đông Nam bộ 35
I.6.1/ Đồng nai, quá trình hình thành và phát triển:
I.6.2/ Không gian văn hoá Đồng Nai: 39
I.6.3/ Những đặc điểm về văn hóa Đồng nai: 41


132
II/ NHỮNG CHỦ TRƢƠNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC
VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC.


II. 1/ Những chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc: 44
II.2/ Những chủ trƣơng chính sách của Tỉnh Ủy và UBND tỉnh Đồng nai về
việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa truyền thống ở Đồng nai:
47
CHƢƠNG HAI: KHẢO SÁT VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
VĂN HOÁ ĐẶC SẮC ĐỒNG NAI TRÊN CÁC CHƢƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH ĐÀI ĐỒNG NAI

I/ Tổng quát về Đài Phát thanh Truyền hình Tỉnh Đồng Nai: 53

I.1/ Về nội dung:
I.2/ Về cơ sở vật chất-kỹ thuật: 58
I.2.1/ Phát thanh:
I.2.2/ Truyền hình:

II. Những nội dung chính của các chƣơng trình của Đài Truyền hình Đồng nai
nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá Đồng nai. 60

II.1/ Những chƣơng trình ghi lại các hoạt động văn hoá truyền thống, các
di tích cần gìn giữ:
61

II.2/ Những chƣơng trình đã đánh động về sự xuống cấp của những di
tích, sự mai một của những làng nghề, lễ hội: 66

II.3/ Những chƣơng trình đã nêu bật đƣợc giá trị và ý nghĩa của những
công trình văn hoá cần tôn tạo và tuyên truyền: 69

II.4/ Những chƣơng trình đã góp phần tạo đƣợc sức hấp dẫn du lịch: 81


II.5/ Những chƣơng trình có sự tìm tòi mới nhằm đƣa sự hiểu biết về văn
hoá dân tộc vào cuộc sống: 84


133
II.6/ Đáng giá chung: 87

III/ Vai trò của báo chí trong xây dựng nền văn hoá Việt nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc.

CHƢƠNG BA: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT
HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ ĐỒNG NAI TRÊN SÓNG ĐÀI PHÁT-
THANH-TRUYỀN HÌNH ĐỒNG-NAI.

III.1/ Đối với công tác quản lý, lảnh đạo của Đảng bộ Tỉnh Đồng Nai: 93
III.2/ Đài Phát thanh Truyền hình Đồng Nai cần tăng cƣờng đầu tƣ cho các
hoạt động truyên truyền bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống:
96


Kết luận 103

PHẦN PHỤ LỤC
1/ DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ NGHIỆP
BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN, TRUYỀN BÁ VĂN HÓA DÂN TỘC
Trịnh Gia Ban 106
2/ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ HÀNG HÓA VÀ CƠ CHẾ THỊ TRƢỜNG

Cao Tự Thanh 110
3/ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Nguyễn Thế Nghĩa 116

4
PHẦN MỞ ĐẦU

1/ Tính cấp thiết của đề tài:

Ngày nay, xu thế hội nhập toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của thời đại. Đây là
vấn đề không riêng chỉ ở nước ta mà còn là vấn đề rất được quan tâm đối với các
nước đang phát triển, đang trên đường hòa nhập với kinh tế thế giới. Tuy nhiên, để
hòa nhập mà không bị hòa tan trước sự du nhập ồ ạt của nhiều nền văn hóa trên thế
giới, chúng ta phải giữ gìn 1 nét văn hóa riêng, có bản sắc riêng của mỗi dân tộc.
Sau khi mở cửa, nhiều luồng văn hóa trên thê giới ùa vào nước ta, mang theo
những hơi thở mới, giúp cho nền văn hóa của ta thêm phong phú đa dạng. Mở cửa
cũng giúp ta giới thiệu với thế giới nét đặc sắc của nền văn hóa dân tộc, là bước
đệm để nền văn hóa nước ta dần hội nhập và hội nhập nhanh hơn. Thế nhưng một
nguy cơ đặt ra cũng thật bức xúc của những người tâm huyết, đó là nguy cơ đi
chệch hướng, nguy cơ làm mất đi nét đặc sắc riêng của văn hóa dân tộc.
Do vậy tuyên truyền, giáo dục về ý thức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc là một trong những chương trình hành động trọng điểm của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay.
Trong những năm gần đây, khi đánh giá sự phát triển của một quốc gia nào
đó, người ta không chỉ quan tâm đến chỉ số tăng trưởng kinh tế mà còn rất chú
trọng đến các chỉ tiêu văn hóa. Cụm từ “Chất lượng cuộc sống” ngày nay được
dùng nhiều trên các văn bản cũng chính là muốn nhấn mạnh đến cuộc sống con
người trong thế kỷ 21 không chỉ đơn thuần là vật chất mà mặt tinh thần, trong đó
bao gồm: môi trường sống, môi trường làm việc, môi trường thiên nhiên, môi

trường xã hội…, nói chung con người có thật sự sống hạnh phúc hay không. Ngày
nay, qua nghiên cứu, người ta đã khẳng định rằng: văn hóa cùng những thành tố
của nó là nền tảng, là động lực quyết định của sự tăng trưởng về kinh tế. Hay nói
một cách khác, văn hóa có khả năng điều tiết sự phát triển của xã hội.

5
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn coi trọng, đề cao và phát huy vai trò của văn hóa trong đời sống xã
hội. Văn kiện Đại hội VIII đã nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiên vừa là động lực thúc đầy sự phát triển kinh tế-xã hội”. Trải dài theo
suốt quá trình lịch sử tồn tại và phát triển, những nét văn hóa hay, tiến bộ tích tụ lại
và được Cha Ông truyền lại từ đời này sang đời khác. Các thế hệ tiếp nối kế thừa
và ngày càng phát triển ra cho thích nghi với thời đại mới. Do vậy mỗi quốc gia
đều có những nét văn hóa độc đáo riêng, khác với các quốc gia khác dù là láng
giềng, người ta gọi là bản sắc. Đó chính là cốt lõi của của một nền văn hóa. Bản sắc
dân tôc thể hiện trong giá trị của dân tộc đó. Hệ giá trị biểu hiện trong tư tưởng triết
học, chính trị, văn học, nghệ thuật, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán…Hệ giá
trị đó bền vững và có sức mạnh to lớn đối với cộng đồng. Chính nhờ sức sống
mãnh liệt và tính thích ứng nhanh với những trào lưu văn hóa mới của thời đại mà
bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là cái gốc cho mỗi dân tộc, làm nền tảng vững
chắc cho dân tộc đó tự tin bước tới tương lai.
Trong quá trình “Gạn đục khơi trong” ấy những hủ tục, mê tín dị đoan sẽ dần
bị cộng đồng loại bỏ khỏi đời sống văn hóa của mình, đồng thời tiếp thu những cái
hay, nét mới trong quá trình giao lưu, giao thoa để trở thành cái cho riêng mình.
Tuy vậy, xác định cho đúng cái nào là lạc hậu, cái nào là truyền thống tốt đẹp cần
phát huy thật chẳng dễ dàng. Nhưng để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thì Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: “Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ…Cái gì cũ mà không
xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…Cái gì tốt thì phải phát triển
thêm”. Như vậy thì việc duy trì và bảo vệ bản sắc văn hóa của dân tộc mình là điều
hết sức cần thiết. Trong thời đại ngày nay, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển lâu

bền đều phải xác định, ngoài yếu tố vật chất, phải đi tìm những mục tiêu, động lực
từ những yếu tố tinh thần, yếu tố văn hóa. Phát triển văn hóa chính là quá trình tạo
nguồn lực con người, tạo nội lực cho sự phát triển, là mục tiêu và cũng là nguồn
lực vô cùng quan trọng cho việc thực hiện chính sách kinh tế-xã hội.

6
Truyền thống và hiện đại là 2 mặt cần có và đủ trong đời sống xã hội. Hai
yếu tố này luôn hổ trợ và bổ sung cho nhau để cùng phát triển theo hình trôn ốc. Cả
hai hoà quyện cùng nhau, đan xen nhau làm nên diện mạo văn hóa của từng dân tộc
trong từng giai đoạn cụ thể. Sự dung nạp những luồng văn hoá mới sao cho phù
hợp là quá trình tất yếu, bởi nó sẽ quyết định con đường phát triển, sự hưng suy của
mỗi dân tộc.
Đồng nai là một Tỉnh công nghiệp, với 21 khu công nghiệp được cấp phép
(cao nhất nước), với 825 dự án của 31 quốc gia và vùng lãnh thổ đang được triển
khai. Hàng ngàn nhà máy được xây dựng tại đây, sự phát triển kinh tế, công nghiệp
nhanh chóng kéo theo sự du nhập nhiều luồng văn hóa khác nhau đã và đang tạo ra
sự thay đổi quá nhanh về diện mạo văn hóa truyền thống Đồng nai. Trong qúa trình
hội nhập về kinh tế, không thể phủ nhận sự giao lưu, giao thoa về văn hóa. Tỉnh ủy
và UBND Tỉnh Đồng nai đã nhận thức rất sâu sắc sự việc này và có chỉ đạo sâu sát
việc giữ gìn hệ giá trị văn hóa truyền thống của Đồng nai. Công cụ tuyên truyền
đắc lực cho công tác này là các cơ quan truyền thông đại chúng, trong đó Đài Phát
thanh Truyền hình Đồng nai, với ưu điểm của truyền hình, là một kênh quan trọng.
Những năm qua, Đài Phát thanh Truyền hình Đồng nai đã đề ra những chương
trình cụ thể nhằm đạt được mục tiêu trên, nhưng hiệu quả đạt được vẫn chưa như
mong muốn. Cũng chưa có tổng kết những gì đã làm và chưa làm được. Nhận thức
được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa của Tỉnh
nhà trong giai đọan mới, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Vấn đề bảo tồn và phát huy
văn hóa Đông Nam bộ trên các chương trình truyền hình” để viết luận văn tốt
nghiệp này.


2/ Lịch sử nghiên cứu đề tài:

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Ngay từ những năm 1943, đồng chí Trường Chinh, lúc đó là Tổng Bí
thư của Đảng đã viết Đề cương văn hóa với phương châm “ Dân tộc-Khoa học-và

7
Đại chúng”. Hiến pháp năm 1992 có 5 điều nói về văn hóa, xác định một lần nữa
nguyên tắc phát triển nền văn hóa Việt nam “Dân tộc-Hiện đại-Nhân văn”, nhằm
phục vụ sự nghiệp Cách mạng, đấu tranh giành độc lập. Đảng ta đã nhận định: Mọc
sự phát triển của xã hội phải gắng liền với việc kế thừa và phát huy những truyền
thống và bản sắc dân tộc. Phát triển mà tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ
lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời
những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân tôc, đánh mất bản thân mình, trở
thành bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
Với chính sách đổi mới, Đảng đã đề ra đường lối đúng đắn: Phát triển kinh tế
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước cùng lúc với sự phát triển một
nền Văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Kế tiếp tinh thần Đề cương Văn hóa năm
1943, Hiến pháp năm 1992, Nghị quyết Ban chấp hành TW khoá VII về Văn hóa,
đến Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng kháo VIII đã đề ra đường lối xây
đựng và phát triển văn hóa. Có thể nói Nghị quyết TW 5 là một nghị quyết thể hiện
đúng đắn nguyện vọng của toàn dân, do vậy Nghị quyết đã thật sự đi sâu vào lòng
người và được mọi người hưỡng ứng.
Đã có rất nhiều công văn, chỉ thị chỉ đạo việc thực hiện công tác nầy.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc
bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Có thể kể một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu như:
-Gia Định thành thông chí- của Trịnh Hoài Đức
-Địa chí TP Hồ Chí Minh. Nhiều tác giả
-Địa chí Đồng nai- Nhà xuất bản văn hoá xã hội.

-Biên hoà-Đồng nai 300 năm hình thành và phát triển.
-Phát thảo văn hoá dân gian Nam bộ- của Nguyễn Như Thảo.
-Bản sắc văn hoá dân tộc ở Đồng nai- của Huỳnh Văn Tới.
-Di tích lịch sử Đồng nai-của Trần Quanh Tọai (Chủ biên)
-Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá miền Đông Nam bộ-Nhà xuất bản
Đồng nai. Nhiều tác giả.

8
-Văn hoá dân gian trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á. NXB Khoa học xã
hội. Đinh Gia Khánh 1993.
-Việt Nam văn hoá sự cương. NXB Bốn phương Sài gòn 1951. Đào Duy
Anh.
-Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam ( tập thể tác giả, Trần
Quốc Vượng chủ biên) NXB khoa học xã hội 1996.
-Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt nam. Ngô Đức Thịnh chủ biên.
NXB Khoa học xã hội 1993.
Việt nam phong tục. Phan kế Bính. NXB TP HCM 1990.
-Văn hoá Việt nam và cách tiếp cận mới. Phan Ngọc. NXB Văn hoá-Thông
tin 1994.
-Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Trần Ngọc Thêm. NXB TP HCM 1996.
-Cơ sở văn hoá Việt Nam. Trần quốc Vượng (Chủ biên) . NXB Đại học quốc
gia Hà nội 1997.
-Văn hoá Việt Nam, xã hội và con người. Vũ Khiêu (Chủ biên). NXB Khoa
học xã hội 2000.
Trong lĩnh vực công tác chuyên môn, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, văn
nghệ sĩ đã có bước vận dụng quan điểm của Đảng, tìm hiểu bản sắc văn hóa dân
tộc trongphạm vi chuyên môn của mình. Nhiều cuộc thảo luận, hàng trăm bài báo,
bài tham luận của nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, trình bày ý kiến của mình về
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. 50 bài trong số đó được tạp chí
Văn hóa nghệ thuật tuyển chọn in trong tập sách “Tìm về bản sắc văn hóa dân

tộc” tập trung ở 3 nội dung chủ yếu: Bản sắc dân tộc của văn hóa, văn hóa - dân tộc
và quốc tế, văn hóa - dân tộc và hiện đại ; trong đó vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc
được soi xét ở nhiều góc độ: âm nhạc, sân khấu, lý luận văn hóa, văn hóa dân gian,
phim ảnh, kiến trúc, phong tục - tập quán, ứng xử xã hội, quan hệ xã hội, giao lưu
văn hóa Mỗi bài đều có phát kiến hay, bổ ích cho thao tác nghiên cứu chuyên sâu
ở mỗi ngành.

9
Cũng đã có nhiều chuyên luận dày trang trình bày khá hệ thống về phương
pháp tiếp cận vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc. Huy Cận luôn trăn trở với vấn đề này
trong sáng tác cũng như trong công tác, đã tập hợp những bài viết của mình thành
“Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc” nêu rõ những ý tưởng tâm huyết về việc
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong đối nội cũng như đối ngoại. Cố vấn Phạm
Văn Đồng nêu những kiến giải sâu sắc về văn hóa và sự nghiệp đổi mới trên cơ sở
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phan Ngọc ở góc độ thao tác luận tìm
cách tiếp cận mới đối với văn hóa Việt Nam nói chung và bản sắc dân tộc của văn
hóa nói riêng. Trần Ngọc Thêm với “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” lý giải
bản sắc văn hóa Việt Nam trên cơ sở văn hóa học đậm màu sắc triết luận. Hoàng
Vinh góp ý sắc nét về chính sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc trong
đó đề nghị nhiều giải pháp khả thi về chính sách của Nhà nước nhằm khuyến khích,
động viên và tạo hành lang pháp luật cho việc bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa
dân tộc. Đáng lưu ý, với “Bản sắc văn hóa Việt vam”, Phan Ngọc đã lý giải về cội
nguồn, diện mạo của bản sắc văn hóa Việt Nam trên phạm vi cả nước, tạo cơ sở
tham khảo tốt cho việc nghiên cứu, tìm hiểu sự vận hành của bản sắc văn hóa dân
tộc trong dòng mạch văn hóa ở các vùng, khu vực. Còn nhiều chuyên luận khác
nữa đều trên cơ sở khoa học bàn về khái niệm, mục tiêu, biện pháp, vai trò ý nghĩa
của bản sắc văn hóa dân tộc trong phạm vi chuyên ngành và bao quát trên toàn
quốc gia. Tuy nhiên, vẫn có một góc nhìn còn thưa vắng bài viết; đó là biểu hiện
của việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong đời sống xã hội ở một
chỉnh thể, một đơn vị hành chính nhất định, như một tỉnh, một vùng chẳng hạn,

nhằm xem sức sống của nó bám rễ vào nhân dân như thế nào? Sắc thái riêng -
chung ra sao? Còn những vấn đề gì thực tế đặt ra cần phải nghiên cứu, bổ sung cho
lý luận?
Và còn rất nhiều công trình nghiên cứu về việc bảo tồn giá trị văn hóa dân
tộc khác nữa. Giá trị những công trình trên, chúng tôi dùng làm tài liệu tham khảo,
và sử dụng những kết quả nghiên cứu của những công trình đi trước làm cơ sở
nghiên cứu để viết Luận văn này.

10
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về “Tác dụng của Truyền hình với công tác Bảo
tồn và phát triển văn hóa dân tộc” còn là vấn đề mới và chưa có một luận văn thạc
sĩ báo chí nào nghiên cứu toàn diện về lĩnh vực nầy. Vì vậy, với sự giúp đỡ tận tình
của Tiến sĩ Báo chí Tạ Bích Loan, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài nầy với mục đích
tìm hiểu cơ sở lý luận, sau đó có tổng kết qua thực tiễn, đưa ra nhận xét tổng quát
về tình hình thực tế việc Bảo tồn và phát triển văn hóa đặc sắc của Đồng nai qua
các Chương trình truyền hình của Đài truyền hình Đồng nai.

3/Mục đích của Luận văn:

Nghiên cứu đề tài nầy với mục đích đưa ra một tổng kết về tình hình tuyên
truyền việc giáo dục về ý thức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Dân tộc Đồng
nai qua các chương trình truyền hình của Đài Đồng nai đã phát sóng, qua đó rút ra
những kinh nghiệm, bài học thiết thực trong hoạt động nghề nghiệp cho bản thân,
sao cho việc tác nghiệp sau nầy có hiệu quả hơn, thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo
của Đảng, Nhà nước và các cơ quan đoàn thể, đúng tôn chỉ của tờ báo hình địa
phương. Cũng là để đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền những chính sách,
chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác bảo tồn và phát huy văn hoá dân
tộc, khơi gợi ý thức của mỗi người để công việc thật sự có hiệu quả và nhanh
chóng hơn.
Trên cơ sở khảo sát các thể loại tác phẩm báo hình có mang nội dung: Bảo

tồn và phát triển văn hoá dân tộc Đông nam bộ, đã phát trên sóng Đài Phát thanh
Truyền hình Đồng nai từ năm 2002-2005, để đưa ra những nhận định, có phân tích
và đề xuất những giải pháp nhằm ngày càng nâng cao hiệu quả cho chương trình.
Báo chí là hơi thở của cuộc sống, phản ánh khá sinh động sự vận động của
xã hội. Với những đặc trưng của mình, báo chí có năng lực to lớn trong việc phản
ánh hiện thực, tác động vào đông đảo quần chúng nhằm tạo nên một định hướng xã
hội tích cực. Hiện tượng xã hội vô cùng phong phú, phức tạp và đa dạng. Bằng khả
năng thông tin kịp thời, sinh động và phong phú các sự kiện, hiện tượng tới đông

11
đảo công chúng, báo chí tác động trực tiếp đến sự hình thành và định hướng dư
luận xã hội một cách nhanh chóng rộng rãi và hiệu quả nhất. Nội dung luận văn chỉ
nghiên cứu riêng mảng bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc mà thôi.
Bản thân báo chí có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát huy nền
văn hóa xã hội. Giáo dục, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, xây dựng một nền
văn hóa Việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một đòi hỏi khách quan của
xã hội, một điều kiện bảo đảm sự bền vững của đất nước. Theo quá trình vận động
của xã hội, báo chí cũng tác động mạnh mẽ thường xuyên vào quá trình vận động
của văn hóa, vào việc hình thành tính chất, khuynh hướng phát triển của nền văn
hóa chung. Quá trình nghiên cứu đề tài sẽ nêu vấn đề cần đặt ra với báo chí để thực
hiện tốt vai trò này.
Khi chọn nghiên cứu đề tài: Bảo tồn và phát huy văn hóa Đông Nam bộ qua
sóng Phát thanh Truyền hình Đồng nai. Chúng tôi rất mong điều tra cụ thể, chính
xác, để từ đó giá trị tích cực của Truyền hình đối với sự vận động, phát huy của các
giá trị văn hóa truyền thống, qua đó khái quát vai trò, vị trí của báo chí trong công
tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn mới.

4/ Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

4.1: Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chương

trình truyền hình của Đài truyền hình Đồng nai có liên quan đến các vấn đề sau:
-Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá đặc sắc Đồng nai. Cả văn hóa vật thể
và phi vật thể.
-Những chương trình nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất cả tinh thần
cho người dân đồng bào dân tộc ở địa phương.
-Những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, các cơ quan đoàn thể
liên quan đến các vấn đề trên.

12
4.2 Phạm vi nghiên cứu: Các chương trình đã phát sóng của Đài truyền
hình Đồng nai liên quan đến đề tài trong khõang thời gian từ 2002 đến tháng 6-
2005

5/ Đóng góp của luận văn:
Qua luận văn này tác giả rút ra những kinh nghiệm, bài học thiết thực trong
hoạt động nghề nghiệp của Đài truyền hình Đồng nai , sao cho việc tác nghiệp sau
nầy có hiệu quả hơn, thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các
cơ quan đoàn thể, đúng tôn chỉ của tờ báo hình địa phương. Luận văn có thể có
những đóng góp mang tính lý luận về vai trò của báo chí, của truyền hình trong
việc tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa và phát huy bản sắc dân
tộc trong thời đại toàn cầu hoá.














13
CHƢƠNG MỘT:

VĂN HOÁ MIỀN ĐÔNG NAM BỘ TRONG NỀN TẢNG VĂN
HOÁ VIỆT NAM
I/ Khái niệm về văn hóa:

I. 1/ Một số khái niệm:

I. 1.1/ Những định nghĩa về văn hóa:

Văn hoá là một từ Hán-Việt. Trong ngôn ngữ cổ Trung quốc, Văn là từ dùng
để chỉ cái vẻ ngoài, được biểu hiện ra bên ngoài. Thí dụ: văn của Trời-Đất là mặt
trời mặt trăng, mây, mưa…; văn của con người là lời nói hay, ý đẹp…; văn của xã
hội là chế độ phong tục, đạo đức…thể hiện trong quan hệ giữa con người trong một
cộng đồng xã hội nhất định. Còn Hóa là dạy dỗ, giáo hoá. Văn là cái bên ngoài, nên
có thể chủ động sửa sang trau dồi. Con người có thể làm cho cái chất tự nhiên
thành có Văn, thành đẹp đẽ hơn do tác dụng của giáo hóa [2 tr 5]. Ở Việt Nam từ
văn hóa được dùng lại là từ của người Nhật dịch từ Culture trong ngôn ngữ phương
Tây, được truyền sang Việt Nam qua các nhà nho duy tân và dịch tân văn. Nghĩa
gốc của từ này là trồng trọt. Nghĩa đen chỉ việc trồng trọt ngoài đồng (Culture agri).
Nghĩa bóng dùng chỉ việc trồng trọt tinh thần (Culture animi) ám chỉ việc giáo
huấn, bồi dưỡng giáo dục tâm hồn con người.
Nhà Nhân học văn hóa người Anh E.B. Tylor đã có định nghĩa sớm nhất về
từ này từ năm 1871 như sau: “Văn hóa là một tổng thể phức hợp bao gồm các kiến
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và tất cả những khả năng

và thói quen khác mà con người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên xã hội”. Đây
là định nghĩa được nhiều nhà khoa học chấp nhận và dùng tham khảo. Sau ông

14
Tylor có hàng trăm định nghĩa khác. Năm 2001, Viện Thông tin khoa học xã hội đã
thống kê được 150 định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, nhưng tựu chung ta vẫn có
thể thấy nổi lên 4 đặc trưng cơ bản nhất, là những đặc trưng cần và đủ cho phép
phân biệt văn hóa với những khái niệm có liên quan (như: văn minh, văn hiến, văn
vật…).
-Tính Hệ thống: văn hóa luôn có có 1 bề dày, lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Quá trình này tạo những mối quan hệ mật thiết của những hiện tượng,
sự kiện của một nền văn hóa nào đó, giúp phát hiện những đặc trưng, những quy
luật hình thành và phát triển của văn hóa.
-Tính giá trị: Đặc trưng này hàm ý nói đến cái Đẹp, cái Mỹ của Văn hóa.
Cái giá trị và cái phi giá trị trong đời sống con người. Những hoạt động tiêu cực
trong đời sống con người, vẫn thường xuyên xảy ra không được xem là văn hóa
(Thí dụ: buôn lậu, chửi bới, ẩu đã nhau…). Tuy vậy, có nhiều hiện tượng ở vào giai
đoạn lịch sử này được xem là có văn hóa, nhưng trong một giai đoạn khác lại được
đánh giá ngược lại. (Thí dụ: Trong chế độ phong kiến, tư tưởng “Vua xử thần tử
thần bất tử bất trung” được đề cao, nhưng ngày nay tư tưởng này không còn phù
hợp nữa.
-Tính nhân sinh: Đặc trưng này cho phép phân biệt các giá trị văn hóa do
con người tạo nên và mang tính tích cực với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Do vậy
văn hóa trở thành sợi dây nối các hoạt động của con người lại với nhau, liên kết
con người lại với nhau.
-Tính lịch sử: Đặc trưng này chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn,
tính lịch sử tạo cho văn hóa có một bề dày phát triển, một chiều sâu. Văn hóa như
là sản phẩm của một quá trình, được tích lũy qua nhiều thế hệ, tích tụ lại thành
truyền thống văn hóa.

Ngoài 4 đặc trưng trên, có thể nhìn nhận văn hóa theo 2 phạm vi hẹp và
rộng:

15
-Nếu theo nghĩa hẹp, thì văn hóa được giới hạn theo 3 chiều: Giới hạn theo
chiều sâu: văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hóa,
văn hóa nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng: văn hóa được dùng để chỉ những
giá trị văn hóa đặc thù của từng vùng (thí dụ: văn hóa Tây nguyên, văn hóa Nam
bộ…). Giới hạn theo thời gian: văn hóa được dùng để chỉ những giá trị văn hóa
trong từng giai đoạn (văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn…).
-Nếu theo nghĩa rộng, văn hóa được xem là bao gồm tất cả những gì con
người tạo ra.
Theo Tổ chức Unessco thì: “Văn hóa là yếu tố cơ bản về mức sống của một
dân tộc, nó tổng hợp hoạt động sáng tạo của một dân tộc, những phương thức sản
xuất và sở hữu, những của cải vật chất, những hình thể tổ chức, những tín ngưỡng
và những đau khổ, những sự nghiệp đang làm và những giá trị, những mơ ước và
khác vọng.”
Cách đây hơn 50 năm, Chủ tịch Hồ chí Minh đã viết trong bản thảo Nhật ký
trong tù: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Tòan bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn
hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn” [8 tr 172].

I.1.2/ Bản sắc văn hóa dân tộc:

Do quá trình lao động sáng tạo để tồn tại, con người tạo nên bản sắc văn hóa
riêng của mình, có nét độc đáo riêng, nên bản sắc văn hóa của dân tộc không thể là

yếu tố tĩnh mà là yếu tố động. Luôn luôn động. Văn hóa là nền tảng yếu tố tinh
thần của dân tộc, giữ lại những cái cốt lõi vững bền, nhưng vừa tiếp thu cái mới,

16
gạn lọc tinh nhạy những giá trị văn hóa từ bên ngoài phù hợp để trở thành cái của
mình, thành văn hóa đặc thù của riêng mình.
Vậy "bản sắc văn hóa dân tộc" là gì? Nhiều người cho rằng đó được xem
như là "căn cước" của một dân tộc, không thể nhầm lẫn với các dân tộc khác.
Quang Đạm thì cho rằng: "Bản sắc dân tộc là sắc thái bao quát một cách uyển
chuyển linh hoạt những đặc điểm của một dân tộc tạo nên diện mạo và dạng hình
riêng của dân tộc ấy. Không thể đồng nhất với các dân tộc khác trong một cộng
đồng khu vực hay cộng đồng loài người”. Nhà thơ Huy Cận quan niệm: "Bản sắc
văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại của dân tộc. Bản sắc văn hóa là hạt
nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này sang đời
khác”. Với phương pháp tiếp cận mới, Phan Ngọc xem xét bản sắc văn hóa không
phải ở sản phẩm mà là ở tính chất, đó là tập hợp của những cách ứng xử
(compartment), là linh hồn của văn hóa, nói cách khác là cái phần ổn định trong khi
biểu hiện của văn hóa là vô cùng đa dạng, thay đổi theo thời gian, kinh tế, chế độ
chính trị. Quan điểm này thống nhất với ý kiến của Hoàng Vinh trong bài giảng về
văn hóa cho nghiên cứu sinh Viện văn hóa - nghệ thuật. Hoàng Vinh cho rằng bản
sắc văn hóa thể hiện trong những chùm đặc điểm mang sắc thái, tính chất, kiểu tổ
chức của riêng mỗi dân tộc chứ không phải là những mặt cụ thể: lòng yêu nước,
tâm hồn bình dị, quan hệ tình nghĩa mà nhiều dân tộc khác trên thế giới cũng có.
[10 tr 34].
Những lập luận nêu trên tuy còn khác nhau trong cách diễn đạt nhưng đều
hướng đến ý tưởng chung về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của bản sắc văn
hóa dân tộc trong đời sống kinh tế - xã hội.
Năm 1946, trong kế hoạch kiến quốc đầu tiên của nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề ra năm quan điểm lớn để xây dựng nền văn hóa dân tộc:
-Xây dựng tâm lý, tính cách tinh thần tự lập tự cường.

-Xây dựng luân lý (biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng).
-Xây dựng xã hội (mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân).
-Xây dựng chính trị (dân quyền).

17
-Xây dựng kinh tế vững mạnh. [19]
Ở nước ta, chỉ sau mấy năm thực hiện kinh tế thị trường, đất nước mở cửa
hội nhập mà đã xuất hiện những chiều hướng trái ngược nhau. Một bộ phận phủ
nhận những giá trị văn hoá dân tộc, cổ súy cho lối sống thực dụng. Hệ quả là sự xói
mòn về đạo đức, tệ nạn xã hội gia tăng. Một bộ phận khác có xu hướng khôi phục
lại các hủ tục truyền thống lạc hậu, lỗi thời, mượn cớ khôi phục truyền thống để mở
đình đám, rược chè, cờ bạc. Như vậy cần phải có sự chỉ đạo, cần có những chính
sách cụ thể, thích hợp để xây dựng một nền văn hóa thực thụ, thấm sâu vào mọi
hoạt động của nhân dân, đồng thời tiếp thu những giá trị tinh hoa và công nghệ tiên
tiến của các nước phát triển trên thế giới
Hiện nay trên thế giới các loại hình công nghệ đều là tổ hợp của 4 yếu tố:
Con người, Kỹ thuật, Thông tin và Tổ chức. Trong đó thì yếu tố Kỹ thuật là tĩnh,
tức những giá trị lao động được kế thừa từ quá khứ, còn 3 yếu tố còn lại đều là
động, tức thuộc về các hoạt động lao động sáng tạo hiện tại của con người. Điều
đặc biệt quan trọng là con người. Văn hóa phương Đông luôn hướng về con Người
chứ không hướng về Vật như văn hóa phương Tây. Chính đời sống tinh thần là cái
quy định tính người của con người. Tuân Tử khẳng định rằng: “Nước lửa có khí
nhưng không có sự sống, cây cỏ có sự sống nhưng không có hiểu biết, cầm thú có
hiểu biết nhưng không có nghĩa. Do đó con người là quý nhất trên đời”. Con người
là chủ thể của mọi hoạt động xã hội. Triết học Mác-Lê Nin nêu rõ: Con người là
vốn quý của xã hội. Do vậy ta cần có chính sách giáo dục đào tạo đội ngũ cán bộ có
tầm trí tuệ cao, để có thể tiếp thu và sử dụng một cách sáng tạo hợp lý khoa học
công nghệ từ bên ngoài.
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một công việc to lớn và lâu
dài và hết sức cần thiết. Để làm tốt công việc này, trước hết phải làm sáng rõ những

gì là bản lĩnh của dân tộc ta đã được khẳng định và chứng thực trong lịch sử. Đồng
thời phải nghiên cứu những nét độc đáo sáng tạo của Việt nam cả trong sản xuất,
trong cách tổ chức cộng đồng, giáo dục cộng đồng, trong các lĩnh vực quân sự,

18
ngoại giao. Tuy nhiên cũng cần tìm hiểu cho kỹ những nhược điểm trong cách sống
và trong cách nghĩ, cách sáng tạo của chúng ta mà khắc phục.

I.2/ Khái niệm về văn hóa Việt Nam:

I.2.1/ Khái niệm:

Như trên đã nói, mỗi xã hội người, do đặc thù riêng được quy định bởi
những mối quan hệ riêng nên có những nền văn hóa riêng biệt, khác với những nền
văn hóa khác, gọi là bản sắc của nền văn hóa đó.
Văn hóa Việt nam ở Đông Nam Á, thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
mà điển hình là văn hóa lúa nước. Môi trường thiên nhiên với những vùng đồng
bằng phì nhiêu, mưa nhiều, ẩm ướt, đã định hình cho người Việt nghề trồng trọt để
sống. Nó cũng buộc người Việt phải định cư để chờ cho cây trồng lớn lên, cho trái
mà thu hoạch. Nghề nông nói chung hay trồng lúa nước nói riêng, phụ thuộc nhiều
vào thiên nhiên. Mưa thuận gió hòa thì cây trái tốt tươi, mùa màng bội thu, bằng
nếu mưa dầm nắng hạn, lụt lội dông bão thì mất trắng. Sống phụ thuộc hoàn toàn
vào thiên nhiên nên người làm nông luôn mong ước được sống hoà cùng thiên
nhiên, tôn trọng thiên nhiên, thậm chí thần thánh hóa thiên nhiên (Thần Sấm, Thần
Mưa, Thần Mặt trời, bà Thủy, hạn bà Chằn…). Trong quá trình lao động, người
Việt đã tích lũy những kinh nghiệm từ những hiện tượng thiên nhiên, tổng hợp lại
và rút ra những quy luật của thiên nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của
mình và truyền lại cho đời sau: Móng dài thì nắng móng ngắn thì mưa, Chuồn cuồn
bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì khô; Quạ tắm thì ráo sáo tắm thì
mưa… Do đời sống định cư nên người Việt rất coi trọng cái nhà: sống có cái nhà

chết có cái mồ. Đã có nhà thì phải coi trọng cái bếp, cái ăn, sao cho cơm lành canh
ngọt để có sức mà ngày mai ra đồng. Mà muốn có cái ăn ngon, ăn no phải coi trọng
phụ nữ, là người đứng bếp nấu ăn, chăm lo “bao tử” cho các thành viên trong gia
đình. Người Phụ nữ Việt nam là người giữ tay hòm chìa khóa, là người quản lý tài

19
chính trong gia đình. Nhất vợ nhì Trời; Lệnh ông không bằng cồng bà. Do vậy mà
trong sinh hoạt thì những gì mang tính quan trọng đều gắng liền với giới tính nữ:
Cột cái, sông cái, ngón tay cái, con đường cái…Thậm chí những vật dụng hàng
ngày cũng đều dùng chữ “cái” để chỉ: Cái nhà, cái rựa, cái thau, cái bàn, cái ghế,
cái quần, cái áo, cái nón, cái xe…Người Việt đề cao và tôn thờ phụ nữ qua hình
ảnh bà Chúa Liễu Hạnh, bà Chúa Xứ, Phật bà quan âm (hình ảnh quan thế âm bồ
tát có nguồn gốc ở Ấn độ là nam giới, khi du nhập vào Trung quốc được biến thành
nữ giới cho phù hợp với văn hóa Trung quốc đa phần theo chế độ mẫu hệ lúc bấy
giờ, sau đó du nhập vào Việt nam, người Việt thấy thích hợp nên vẫn giữ nguyên).
Đến nỗi: Ba đồng một mớ đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha, ba trăm một
mụ đàn bà, đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. Ngay thế kỷ 15, khi Nho giáo đang
ở đỉnh cao thì trong Bộ luật Hồng Đức nỗi tiếng của nhà Lê, điều 308 vẫn quy định
rằng: nếu trong vòng 5 tháng mà người chống vô cớ không đi lại với vợ thì người
vợ có quyền ly dị. Hoặc điều 388, 391 quy định: sau khi cha mẹ chết, con gái được
quyền thừa kế như con trai. [10, 44]
Nhiều dân tộc ở phương Đông và một số dân tộc ít người ở Việt nam như
Êđê, Giarai…theo chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đi cưới chồng, phải lo hết việc
đồng áng, lo mùa màng, còn đàn ông chỉ ở nhà giữ con. Con cái sinh ra lấy theo họ
mẹ.
91% dân tộc Việt nam là người Kinh, còn lại là 53 dân tộc anh em khác.
Cuộc sống chủ yếu là làm nông nghiệp. Công việc nặng nhọc rất cần sự hổ trợ lẫn
nhau trong lao động theo kiểu đổi công. Nghề nông phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên, buộc người Việt phải nương tựa vào nhau mà chống chọi lại với thú dữ, với
thiên nhiên. Sống có qua có lại nên một bồ cái lý không bằng một tí cái tình, nhất

cận thân nhì cận lân. Mặt trái của lối sống trọng tình là thói xem thường pháp luật,
làm cho tính tổ chức của người làm nông nghiệp kém hơn so với cư dân các nền
văn hóa khác.
Tất cả đã tạo thành một bản sắc riêng của văn hóa Việt nam. Cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng từng nói: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của

20
dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt nam vượt qua
biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không
ngừng phát triển và lớn mạnh”. Hiện trạng văn hóa Việt nam là kết quả của một
tiến trình phát triển lịch sử lâu dài bắt đầu từ khi hình thành những nền tảng văn
hóa thời tiền sử và sơ sử cho tới ngày nay. Trong tiến trình văn hóa ấy, những hằng
số văn hóa tạo nên văn hóa Việt nam vốn đã hình thành từ lớp văn hóa bản địa
nhiều ngàn năm trước Công nguyên.
Ngày nay với thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, thế giới đang phát
triển theo xu hướng "thế giới hóa", "đồng dạng hóa” về kỹ thuật và công nghệ;
nhưng ai cũng rõ nếu văn hóa của các dân tộc đều giống nhau thì thật là buồn cho
nhân loại. Cho nên: UNESCO đang khuyến nghị: Giữ gìn, bảo vệ bản sắc dân tộc
của các nền văn hóa. Khuyến nghị ấy được nhiều quốc gia ủng hộ. Nhưng đó chỉ
mới là mục đích làm đa dạng, nhiều màu sắc cho vườn hoa văn hóa của nhân loại.
Đối với Việt Nam, việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn có ý
nghĩa sâu sắc hơn, liên quan đến vận mệnh và sức sống của dân tộc mình. Việt nam
đang còn nghèo, đang mở rộng giao lưu quốc tế để xây dựng và phát triển theo
định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Các nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế, âm
mưu diễn biến hòa bình, chệch hướng chủ nghĩa xã hội đang treo trước mắt. Chỉ
có củng cố nội lực cho mạnh lên mới đủ sức tiếp nhận các "yếu tố ngoại sinh" trong
giao lưu với thế giới để tạo cho chất lượng cuộc sống cao hơn mà không tự đánh
mất mình, không xa rời mục tiêu đã chọn. Bản sắc văn hóa dân tộc như là một thứ
"gien nội sinh" trong quá trình đổi mới. Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc được xác định là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; vừa là động lực bên

trong, vừa là mục đích hướng đến quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
ở nước ta hiện nay.

I.2.2/ Chủ thể của văn hóa Việt nam:


21
Chủ thể văn hóa Việt Nam là người Việt nam, nhưng muốn xác định chủ thể
văn hóa Việt nam thì phải tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt nam. Có nhiều giả
thuyết khác nhau về nguồn gốc dân tộc Việt nam. Trong phạm vi luận văn này chỉ
nghiên cứu theo tài liệu của P.Giáo sư Trần Ngọc Thêm.
Từ cuối thời đại đồ đá mới, khỏang 5.000 năm trước CN, tại khu vực Nam
Trung hoa và Bắc Đông dương, do sự tiếp xúc thường xuyên của chủng người bản
địa Indonesien và chủng Mongoloid từ phương Bắc, đã hình thành một chủng mới
là Nam Á. Với chủng Nam Á, các nét Mongoloid càng nỗi bật, do vậy được xếp
vào ngành Mongoloid phía Nam. Dần dần chủng Nam Á này đã được tách thành
một loạt dân tộc mà trong thư cổ Trung hoa gọi là Bách Việt, họ sinh sống khắp
khu vực phía nam sông Dương Tử cho tới Bắc Trung bộ ngày nay, họp thành
những khối dân cư lớn như Môn-Khơmer, Việt-Mường, Tày Thái, Mèo Dao. Sau
đó quá trình chia tách tiếp tục diễn ra, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các tộc
người cụ thể, trong đó có người Việt (Kinh), tộc người chiếm 91% dân số cả nước.
Nhóm người này đã tách ra từ nhóm Việt-Mường từ cuối thời Bắc thuộc (TK VII-
VIII)
Nguồn gốc người Việt Nam thuộc chủng Indonésien cùng với các chủng
Đông Nam Á tiền sử. Cho nên văn hóa Việt nam nằm trong quỹ đạo văn hóa Đông
Nam Á. Trong quá trình phân hóa, các dân tộc Việt nam hình thành nên văn hóa
đặc thù Việt nam “có một nguyên bản riêng, có tính thống nhất đa dạng
(O.R.T.Janse, Đại học, 1969).
Người Việt cùng tuyệt đại các bộ phận tộc người trong thành phần dân tộc
Việt nam đều có cùng một nguồn gốc chung là nhóm người thuộc loại hình

Indonésien. Chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất cao của con người và văn hóa
Việt nam, và rộng hơn là toàn vùng Đông Nam Á. Trong sự đa dạng chung đó lại
luôn có tính thống nhất bộ phận: của người Việt và Mường, của người Việt-Mường
và các dân tộc cùng gốc Nam Á-Bách Việt (Cơ sở văn hoá Việt nam, Phó Giáo sư-
Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, NXB Giáo dục 1999).

22
Việt nam vào khỏang thiên niên kỷ thứ 2 trước CN, do sức ép của của sự
phát triển dân số, các cư dân Môn-Khơmer ở phía bắc (tức người Việt-Mường) đã
ào ạt xuống đồng bằng Châu thổ trũng xung quanh Hà nội, cộng cư với người Tày,
người Thái ở đây. Đã áp dụng mô hình kinh tế lúa nước của người Tày, Thái trong
quá trình khai thác vùng đồng bằng sông Hồng. Quá trình hội tụ, tộc người ấy tạo
nên một nhóm cư dân mới đó là cư dân Việt-Mường. Do sinh tồn, họ phải đắp đê
bảo vệ mùa màng, họ đã liên kết lại để chống ngoại xâm từ phương Bắc tràn
xuống. Họ đề cử một người tù trưởng lớn có ưu thế về kinh tế và quân sự đứng đầu.
Theo truyền thuyết người tù trưởng ấy là Vua Hùng.
Ngày nay sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực không chỉ do vấn đề
không gian địa lý mà cao hơn là còn do có cùng một nền tảng văn hóa thống nhất.
Sự đa dạng và phong phú của của những nền văn hóa trong các nước ở khu vực
Đông Nam Á phát triển trên một tầng văn hóa chung, gọi là văn hóa Đông Nam Á
bản địa. Ngày nay Việt nam là một thành viên của Asean và đang hội nhập toàn
diện vào khu vực, vì vậy chúng ta một mặt rất cần ý thức về bản sắc văn hóa riêng
của Việt nam, nhưng mặt khác cũng rất cần để tìm hiểu về cơ tầng Văn hóa Đông
Nam Á để tìm thấy một sự gắng bó sâu sắc cho việc hội nhập thành công vào cộng
đồng khu vực.
Văn hóa lúa nước đã trở thành đặc điểm chính của của nền văn hóa bản địa
Đông Nam Á. Điều này được minh chứng bằng hàng loạt các loại công cụ chuyên
dùng như: Cuốc, lưỡi cày, nhíp, dao gặt…đồ dùng hàng ngày để nấu cơm như: nồi,
chõ…đã đào được trong thời kỳ này. Sách cổ Trung quốc, cuốn “Nam phương thảo
mộc trạng” có ghi rằng: thời kỳ đầu Công nguyên, người Bách Việt có trồng lúa

nếp và dùng lúa nếp để nấu rượu. Theo “Thuỷ kinh chú” năm 111 truớc CN, sứ giả
Giao chỉ có cống nạp cho Tướng Hán là Bác Lộ Đức 1.000 hũ rượu ngon. Có thể
khẳng định rằng: Việt nam có một nền văn hóa bản địa nảy sinh và phát triển cùng
với các nền văn hóa khác trong khu vực, nằm trong một chỉnh thể văn hóa Đông
Nam Á cổ đại, mà nỗi bật là văn hóa lúa nước. Điều nầy biểu hiện rất rõ ở tục thờ

23
nước, té nước, lễ tạ ơn Mẹ nước, tạ ơn Thần Mưa, hội đua thuyền…rất phổ biến ở
các nước Đông Nam Á cũng như ở Việt nam.
Cũng theo Phó Giáo sư Trần Ngọc Thêm, văn hóa Việt nam có 6 vùng:

*Vùng văn hóa Tây bắc: là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp
bên hữu ngạn sông Hồng kéo dài tới bắc Thanh Nghệ. Khu vực này có 20 tộc
người cư trú, trong đó các dân tộc Thái, Mường là tiêu biểu. Biểu trưng cho vùng
văn hóa này là hệ thống mương phai, ngăn suối dẫn nước vào đồng ruộng, là nghệ
thuật trang trí trên trên chiếc khăn Piêu, những điệu múa Xòe của người Thái, chiếc
cạp váy của người Mường, bộ trang phục của người H’mông. Biểu trưng khác là
các loại nhạc cụ thuộc bộ hơi như: Khèn, sáo

*Vùng văn hóa Việt Bắc: là khu vực bao gồm hệ thống nùi non hiểm trở
bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân vùng này chủ yếu là người Tày, Nùng với trang
phục giản dị, với lễ hội Lồng tồng (xuống đồng) nỗi tiếng.

*Vùng văn hóa Bắc bộ: Có hình một tam giác bao gồm vùng châu thổ sông
Hồng, sông Thái Bình và sông Mã với dân cư Việt (người Kinh) sống quần tụ
thành làng xã. Đây là vùng đất đai trù phú, do vậy từng là cái nôi của văn hóa Đông
sơn.

*Vùng văn hóa Trung bộ: Vị trí địa lý là trên một dãi đất hẹp chạy dài ven
biển từ Quảng bình tới Bình thuận. Do khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn nên

con người ở đây rất cần cù, hiếu học. Họ thạo nghề đi biển, trong bửa ăn cũng giàu
chất biển, thích ăn cay (có thể do để làm mất mùi tanh của cá biển). Trước kia nơi
đây từng là điạ bàn cư trú của người Chăm với một nền văn hóa khá đặc sắc. Đến
nay di tích còn để lại là những tháp Chàm.

×